HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000

(Thời biến đổi gien)

Kỳ 13

Bùi Ngọc Tấn

*

Trước bữa ăn rồng đất mấy tháng, tôi, một kẻ không buôn bán, không làm chính trị, lại cứ ngong ngóng tin ký kết hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Chưa bao giờ tôi quan tâm tới thời sự như vậy. Tôi nghe đài. Tôi xem ti vi. Tôi hỏi những người bạn đã về hưu mà cái thú vui duy nhất của họ là ôm lấy cái đài, và thuộc lòng các giờ phát tin của các đài RFI, BBC, Á Châu Tự Do, Tiếng Nói Hoa Kỳ. Những người quen tôi không hiểu tại sao tự nhiên tôi lại quan tâm tới thời sự, những diễn biến chính trị trong nước và trên thế giới, một việc từ trước tới nay tôi luôn thờ ơ. Tôi biết nước ta đã cử một đoàn đại biểu sang Mỹ thảo luận về hiệp định thương mại. Tôi biết bà ngoại trưởng Mỹ sắp sang Việt Nam vì hiệp định thương mại ấy. Tôi tính từng ngày. Bà Albright đang thăm nước nào và sẽ đến Việt Nam ngày nào. Tôi nghe ngóng từng lời phát biểu của ông Bill Clinton. Có lẽ cả nước Việt Nam chưa có người nào quan tâm và mong mỏi ký kết hiệp định thương mại Việt Mỹ như tôi, mặc dù tôi không hiểu rõ lắm cái hiệp định ấy sẽ mang lại cho nước ta những mối lợi gì. Nhưng chắc chắn là có lợi, như anh Bùi Văn Ngợi đã nói phải chờ ký xong hiệp định thương mại với Mỹ rồi mới in được tiểu thuyết của tôi. Tôi phải tuân theo lời anh. Nhưng tôi nhớ khi chỉ còn ba chúng tôi — Lam Luyến, tôi và Tốn — Lam Luyến rất bực, bảo tôi:

– Các ông ấy sợ Mỹ nêu vấn đề nhân quyền. Nhưng đây là sáng tác văn học, là tiểu thuyết. Có phải một bản báo cáo đâu. Với lại chuyện đã xẩy ra cách nay mấy chục năm rồi.

Cuối cùng bà ngoại trưởng Mỹ Albright đã tới Hà Nội. Đã hội đàm. Đã đi. Các ông nghị Hoa Kỳ đã tới Việt Nam và đã đi. Chẳng thấy hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ đâu. Và những người bạn hưu trí bám đài bám làn sóng điện bảo tôi: Không ký rồi. Chính phía ta không ký. Và tiếp theo là biết bao tin đồn mà tôi nghĩ đều chứa đựng ít nhiều sự thật. Ông kẹ nọ ông kẹ kia đọc xong dự thảo hiệp định nói: Thế này đổ xương đổ máu đánh Mỹ làm gì? Ký hiệp định này là mất nước. Lại có vị ủng hộ việc ký hiệp định bằng một câu kết luận không cho bàn cãi: Không ký là ngu! Tất cả chỉ là những tin tức vỉa hè. Tôi hiểu cái mốc thời gian ký hiệp định mà tôi mong đợi đã qua rồi. Quả bóng không ở phía Mỹ. Lê Bầu còn hài hước: In tiểu thuyết của ông bây giờ là rất tốt. Đúng thời cơ. Mấy ông không muốn ký sẽ đổ lỗi cho tập tiểu thuyết của ông, vì nó mà Mỹ nêu cái cớ nhân quyền, không ký. Chứ không phải vì các ông ấy bảo thủ.

Từ Hải Phòng, tôi điện thoại lên Bùi Văn Ngợi:

– Hiệp định thương mại không ký được là do ta chứ không phải Mỹ. Đề nghị anh cho in sách thôi anh ạ.

Rất điềm nhiên, Ngợi trả lời như vấn đề đã được giải quyết xong từ lâu rồi:

– Thế thì in.

Chúng tôi cùng cười. Ngợi thêm:

– Nhưng hình như anh Cao Giang nói còn một số điểm phải sửa thêm nữa đấy. Cũng ít thôi. Anh tranh thủ lên nhé.

Đó là một ngày đầu năm 2000, tôi đi dự đại hội nhà văn các tỉnh Bắc Bộ ở Việt Trì. Khi đoàn nhà văn Hải Phòng đến Hà Nội và nghỉ lại để anh chị em đi chơi và chờ ăn trưa, tôi nhẩy xe ôm đến nhà xuất bản Thanh Niên. Đã gọi điện hẹn trước, Cao Giang chờ sẵn. Chúng tôi làm việc ngay. Nói cho đúng, chỉ là những chi tiết anh Cao Giang đã chữa rồi, nhưng tôn trọng tôi, anh muốn tôi biết và đồng ý. Tôi không nhớ là những chi tiết gì, trừ cái việc anh đổi tên chức danh của một đơn vị tổ chức công an: Những cụm từ phòng bảo vệ văn hoá, trưởng phòng bảo vệ văn hoá rải rác trong tập sách đều được chữa là phòng đặc trách văn hoá, trưởng phòng đặc trách văn hoá. Cứ như là đơn vị này được lập ra một thời gian rồi giải tán. Cao Giang giải thích:

– Cánh bảo vệ văn hoá đến đây luôn. Nghe thấy nói có bản thảo nào căng căng là đến. Chữa thế cho họ khỏi tự ái.

Tôi không để ý đến chức danh Cao Giang mới sáng tác ra. Mà nghĩ đến một việc khác nhưng không dám hỏi: Công an đã biết có một quyển tiểu thuyết viết về nhà tù đang sắp được các anh xuất bản chưa? Tôi cảm thấy các anh hơi hồn nhiên. Hồn nhiên quá. Tôi càng lo. Khi bản thảo đã được sửa lần cuối cùng để đưa in tôi càng lo. Bởi vì như chính Cao Giang đã nói: Cánh bảo vệ văn hoá đến đây luôn. Nghe thấy nói có bản thảo nào căng căng là đến. Rồi tự nhủ: Thôi hãy quên đi. Nghĩ ngợi có ích gì. Tự nhủ mình như vậy nhưng không lúc nào không nghĩ đến cái khúc thời gian ngắn cuối cùng mà tập sách tôi đã ủ 10 năm dằng dặc, một thập niên của một đời người, tập sách tôi nghĩ sẽ làm thay đổi đời tôi, một tập sách về những ngày tươi đẹp nhất và những ngày khốn nạn nhất, viết bằng máu của mình và của những bạn tù, viết bằng lòng biết ơn bố mẹ, tình yêu, nỗi thương xót vợ con và lòng tin của bạn bè, món nợ bất công phải trả, tập sách tôi nghĩ hoặc lần này hoặc không bao giờ nữa, cho đến khi mình qua đời, mình chết.

Ngày nghĩ đến một dây chuyền ở nhà in đang vận hành thì công an sục đến, hay một cú điện thoại từ Cục Xuất Bản, từ Ban Tư Tưởng Văn Hoá Trung Ương. Đêm mừng vì đã qua được một ngày an toàn, không có sự cố nào từ Hà Nội báo về. Sáng sớm nhìn vợ thắp hương khấn vái cầu mong những điều tốt lành mà lo cho một ngày nữa đang tới, không biết điều gì sẽ xẩy ra…

Sợi chỉ căng giữa thành công và thất bại của cả một đời mong manh quá. Gần như không chịu đựng được nữa, tôi cầu cứu Nietzsche.

Nietzsche với tôi luôn là một mê cung để tôi lạc vào trong đó, để tôi quên đi. Nietzsche với tôi là một khối mâu thuẫn khổng lồ khiến thỉnh thoảng tôi cười một mình. Nietzsche với tôi còn là một kết thúc mở để tôi công nhận hay phản bác với câu Zarathustra đã nói như thế cuối mỗi chương. Và quan trọng hơn cả, Nietzsche với tôi là một nhà thơ, một nhà thơ lớn:

…làm thế nào tinh thần trở thành lạc đà, làm thế nào lạc đà trở thành sư tử và làm thế nào sư tử trở thành trẻ thơ.

Đừng bao giờ bị đè bẹp bởi một pho tượng.

Luôn luôn có vô số những đức hạnh lạc đường bay.

Và chính tinh thần cũng bốc mùi hôi thối.

Mọi người đàn ông xứng với tên gọi đều có ẩn giấu trong hắn một đứa bé muốn chơi đùa. Nào các bà, hãy cố gắng khám phá ra đứa trẻ nơi người đàn ông.

Đây là lời khuyên ta dành cho các ông vua, các giáo hội và tất cả những gì bị suy yếu vì tuổi già và đức hạnh: các ngươi hãy để cho bị lật đổ, cốt để các ngươi trở lại với đời sống và đức hạnh trở về với các ngươi…

Ta biết quá rõ những kẻ giống với Thượng Đế, chúng muốn rằng thiên hạ tin nơi chúng và hoài nghi là một tội trọng. Nhưng ta biết quá rõ chúng tin vào điều gì hơn cả.

(……)

Khi đã nhức đầu vì Nietzsche, tôi chuyển sang viết. Tôi luôn phải động não, không cho mình được nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi là sinh ra nghĩ ngợi. Hãy làm việc. Làm việc, mày sẽ yên tâm hơn, quên đi mối lo thường trực.

Tôi kiên trì ngồi trước máy chữ, mổ cò mấy cái chân dung bạn bè mà tôi đang viết dở dang, cố gắng hoàn thành khoảng trên dưới mươi cái, để có thể in thành một tập, dưới một nhan đề chung là Viết Về Bè Bạn. Một thời tuổi trẻ hiện về. Những khuôn mặt còn chưa ngấm đòn đau. Những tiếng cười vang nghịch ngợm. Những mơ mộng sang trang văn học. Đói khát. “Nhịn điếu thuốc nhịn từng vuông vải.” Những người bạn hợp lại thành cuộc đời tôi. Không có họ thì không có tôi hiện nay. Mạc Lân. Lê Bầu. Nguyên Bình… Có một người ảnh hưởng đến tôi nhiều nhất mà tôi không viết được: Tất Vinh, anh ruột Nguyễn Thị Trinh, vợ Dương Tường. Tôi nhớ dáng người cao gầy của anh. Tôi nhớ những vần thơ không dấu như “tiếng Tây” của anh:

Hôm qua Tô An đi lang thang

Tô An lang thang đi nơi đâu

Tô An lang thang ôm tim đau.

Tôi nhớ Nguyễn Trí Tình, một người bạn nghị lực hiếm có, đêm đêm ngồi cầu thang học tiếng Pháp và đã đọc được Jean Christophe từ nguyên bản. Anh quê Nghệ An và nói giọng Nghệ An, tất nhiên. Nhưng mỗi khi có một nữ cộng tác viên, thông tín viên Hà Nội đến tòa soạn, anh lại nói giọng Bắc để tiếp họ. Và cái cách phát âm khó nhọc, cố gắng tách bạch từng tiếng của anh mới buồn cười làm sao. Lúc ấy Phan Mai và tôi hay vào xin tiền anh mua thuốc lá. Lúc ấy anh rút ra “một nắm bạc vụn” không buồn đếm và đưa cho chúng tôi như một người coi tiền như rác. Rồi Vũ Tín với tiếng cười hề hề, ông thông gia chó đéo của bà bán thịt chợ Sắt. Đinh Chương, người tổ trưởng chịu vận hạn cùng tôi, bị bắt giam một thời gian, chẳng có tội gì, tuy không bị tù như tôi nhưng ngày ngày phải đạp xe từ Hải Phòng sang Kiến An lao động khổ sai quai búa chặt sắt quần quật tại một xí nghiệp cá khô hàng chục năm cho tới lúc về hưu, một hình thức đầy ải ghê sợ không kém tù đày. Và Nguyên Bình. Nguyên Bình với tôi mỗi người một bao tải cám sau xe đạp, rất thích ghép các từ lại với nhau như phải chống tư tưởng bi chủ mãn, kiểu bây giờ người ta gọi Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch là Bộ Văn Thể Du…Văng vẳng bên tai tôi tiếng thầm thì buồn buồn cam chịu của anh khi nói về tương lai: “Mày ạ. Chúng ta đang ở giai đoạn quá độ, từ dân chủ nhân dân tiến lên xã hội chủ nghĩa. Không phải rồi tất cả đều tiến lên chủ nghĩa xã hội cả đâu. “Bác” nói muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa. Cho nên đến lúc ấy phải bình xét từng người một. Tao với mày chắc chắn không được lên chủ nghĩa xã hội. Phải ở lại dân chủ nhân dân rồi…” Tiếp theo là tiếng thở dài sầu não tuyệt vọng của anh. Nguyên Bình với những câu thơ viết cho hai đứa con trai:

Chào con hai giọt đời nức nở của cha

Cha ngôi sao nghìn năm ánh sáng trái đất

Ngôi sao băng giá mắt con người

Con hãy đi tàu không gian Nga

Và sẽ thấy sao cha đốt bỏng một khoảng trời…

Ngày ấy chúng tôi còn có nước Nga, có Liên Xô để mà tin tưởng. Trong xà lim tôi đã nhẩm một bài thơ dài về cuộc giải phẫu trái tim tôi, trong đó có những câu về Liên Xô:

Hôm nay tôi tạm xa trái tim đang mổ

Bay theo dòng thời sự

Liên Xô phóng thành công hai con tàu vũ trụ

Liên Hợp Bốn, Liên Hợp Năm

Tay con người đã chạm tới mặt trăng.

Vũ trụ từ nay căn buồng để mở

Sắp đến ngày chồng giận vợ

Bỏ lên ngồi bờ sông sao Hỏa thở dài…

Thật là lãng mạn có cánh bay. Lúc đó Amstrong chưa đặt chân lên mặt trăng. Về sau này khi sự kiện ấy xẩy ra thì cái loa trong trại cũng không cho tôi biết. Đúng là thời trai trẻ đó qua như đầu đề bài tôi viết về Vũ Tín. Những ngày bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu tiếng cười. Những ngày cuộc sống còn bao hứa hẹn. Rồi đến quãng thời gian đầy hiểm nguy tiếp liền sau đó, công an theo dõi ngày đêm. Ngọn roi đen quất ngang lưng lũ chúng tôi thổ huyết. Cơn lũ cuốn chúng tôi trôi giạt mỗi đứa một phương, nay đã dần dần hồi tụ lại. Dù đã nhiều năm tháng, đã bạc hết ánh mắt bạc hết mái đầu. Dù xương cốt lỏng rời. Nhưng vẫn còn nguyên đó trái tim thuở trẻ…

Tôi viết. Những người bạn cũ và cả những người bạn mới.— Đầu năm 2003 tập sách được in ra với tên Rừng Xưa Xanh Lá, một cái tên vô thưởng vô phạt mà tôi chủ ý tìm đặt để có thể dễ được xuất bản.

Thỉnh thoảng điện thoại cho Luyến. Cũng là kín kín hở hở thôi: Thế nào, công việc đến đâu rồi? Nhưng chẳng giấu được ai, vì Luyến trả lời rất rành rọt: Đang làm vi tính. Nghe mà giật mình. Sao vẫn còn làm vi tính? Tưởng in từ bao giờ rồi chứ? Cái đĩa mềm tập hai của anh dùng được. Còn đĩa tập một không dùng được vì không giải được mã phông chữ. Phải làm lại từ đầu.

Ít ngày sau lại hỏi. Lại vẫn còn đang làm vi tính. Vẫn làm? Sao không thuê ngoài cho nhanh. Anh chịu hết khoản thanh toán. Không. Để các cháu trong nhà xuất bản làm, cho các cháu có thu nhập. Có thể hỏng hết mọi việc vì chuyện cỏn con này. Thời gian bây giờ còn hơn vàng bạc. Thời gian là thắng lợi. Là thành công. Phải bảo đảm yếu tố bất ngờ. Ôi, nàng Mec-xê-đet của tôi. Cháu đã xin được thị thực nhập cảnh vào Mỹ chưa. Cháu cài đặt thế nào mà ngay khi còn ở Hải Phòng, đưa vào máy của Bão Vũ cũng không đọc được. Kéo dài ngày nào tôi lo ngày ấy. Điều gì cũng có thể xẩy ra. Làm mới vi tính thế này còn lỗi mo-rát nữa chứ. Bản tôi gửi lên đã chữa đi chữa lại nhiều lần cũng vẫn còn lỗi tuy rất ít và không nghiêm trọng. Bản vi tính mới chắc chắn nhiều lỗi, có khi cả những lỗi ít ngờ nhất, đến mức ngớ ngẩn. Nỗi lo của tôi quả nhiên thành sự thật. Khi sách in ra, có rất nhiều lỗi, tôi không nhớ hết, nhưng có những lỗi ngớ ngẩn như thế này: Trang 489, nói về nhân vật đao phủ, so sánh những Bát Lê ([1]) ngày trước và Bát Lê ngày nay, tôi viết: Bát Lê (ngày nay) không hoa quất, Bát Lê chỉ cứu người. Sách in là Bát Lê không hoa mắt, Bát Lê chỉ cứu người. Đọc đến đoạn này tôi sững người. Quất là loại kiếm Bát Lê dùng để chém đầu tử tù. Có lẽ các cháu làm vi tính chưa biết đến từ này. Nhiều bạn đọc chưa biết đến từ này. Và tôi cứ lẩm bẩm một mình theo trí nhớ bài hát của đao phủ trong Chém Treo Ngành:

Ta hoa thanh quất

Sống không thù nhau

Chết không oán nhau

Hỡi hồn quỷ không đầu

Còn một lỗi nữa kể ra đây chỉ để bạn đọc hiểu tôi quan tâm đến vị trí của từng từ: Sau khi Tuấn – Ngọc yêu nhau lần đầu tiên, họ đạp xe để nói với trời đất rằng họ đã (…) “đi tới chốn ấy tận cùng của thế giới này” được sửa là “đi tới chốn tận cùng ấy của thế giới này.” Chốn ấy tận cùng khác với chốn tận cùng ấy, chưa kể âm hưởng của nó còn gợi một chút Hồ Xuân Hương.

Lỗi cuối cùng tôi muốn nói là các cháu đánh máy đã thêm vào nhiều dấu chấm than (!). Tôi kể chuyện bằng một giọng trầm tĩnh, rủ rỉ, có sao nói vậy. Tôi muốn bằng ngôn từ diễn tả được lòng đắm đuối cuộc sống, tình yêu đắm say, nỗi thất vọng tột cùng, lòng căm giận, sự hoảng loạn… nghĩa là những cung bậc của tình cảm mà không phải cầu viện tới các dấu chấm than để gia tăng cường độ. Có những dấu chấm than các cháu thêm vào tôi đọc mà đỏ mặt. Tuy vậy cái đau rất nhỏ. Niềm vui rất lớn, nhưng đó là chuyện về sau.

Đã gần đến tết Canh Thìn. Năm 2000 Dương qua được một tháng rồi. Cái năm 2000 để chỉ một cột mốc thời gian xa lắc xa lơ như không bao giờ đến, đã đến. Năm 2000 mà tôi đã dùng để đặt tên cho quyển tiểu thuyết của đời tôi, năm 2000 mà tôi cùng bao người và cả nhân loại nữa đặt biết bao hy vọng… Chúng tôi, nghĩa là tôi và Phạm Đức đã thống nhất với nhau: Sách sẽ in xong trước Tết Âm Lịch, và khi người ta tưng bừng vui vẻ đón xuân thì chúng tôi đón sách. Khi người ta nâng cốc thì chúng tôi lặng lẽ phát hành sách… Bản thảo như vậy là xong. Còn bìa. Tôi đã nói về bìa sách với Lam Luyến:

– Ai vẽ bìa cũng được, nhưng không phải là Văn Sáng.

Văn Sáng là một người làm bìa sách đẹp thời đó. Anh đã làm cho tôi bìa tập truyện ngắn Những Người Rách Việc. Một cái bìa thật đẹp và tôi rất cảm ơn anh. Nhưng giờ đây tôi không thể nhờ anh làm bìa cho tôi được nữa. Thiết tưởng cũng cần lạc đề một chút về chuyện này. Bởi nó xứng đáng được nói đến. Nó xứng đáng được nhiều người biết như một chuyện trung thực, không thêm bớt, không xuyên tạc, không vu cáo.

Đầu năm 1998, tôi nhận được giấy mời của Nghị Viện Châu Âu dưới danh nghĩa Parlement International des Ecrivains, mời tôi sang một năm để nghỉ ngơi và sáng tác. Tôi được lựa chọn một trong 40 thành phố thuộc châu Âu và châu Mỹ. Chỉ nhìn danh sách 40 thành phố cũng đủ mê ly. Xin kể ra đây mấy cái tên: Amsterdam, Barcelona, Paris, Berlin, Nuremberg, Goteborg, Helsinki, Vienne, Venise, Rio de Janeiro, Mexico, Madrid, Oslo…

Lời mời cực kỳ hấp dẫn. Nhưng tôi hiểu mình chẳng thể được đi. Làm sao một thằng tù như mình lại có thể được nhà nước cho đi đến những nơi như vậy([2]). Giá trị của lời mời thực chất ở chỗ tôi được nước ngoài biết đến, và đó là một yếu tố phải tính khi người ta lại muốn bắt tôi lần nữa. Tôi chưa gặp một ai ở những cấp có thẩm quyền để giải quyết thì đã có một kịch bản được tung ra để bôi nhọ tôi. Có hai người chửi tôi thậm tệ, một là bạn thân của tôi, một quen biết tôi. Cả hai người này — đều ở Hà Nội, xin được giấu tên vì đây là một câu chuyện chẳng vui gì nếu không muốn nói là một chuyện đau lòng — tin theo một kịch bản nào đó khẳng định rằng tôi đã gặp lãnh đạo Hội Nhà Văn chính thức tuyên bố từ chối lời mời, mặc dù cho đến lúc ấy tôi chưa gặp ai có trách nhiệm ở Hội Nhà Văn, và cả hai đều biết rằng sáng hôm sau tôi mới gặp và làm việc với anh Hữu Thỉnh, khi ấy là phó tổng thư ký và anh Nguyễn Hoa, phó ban tổ chức hội viên Hội Nhà Văn. Hơn thế một trong hai người trên cũng được mời, anh ta nói đã làm việc với Hội Nhà Văn và không được đi, còn phổ biến kinh nghiệm cho tôi: “Ngày mai nó đón tiếp lịch sự đấy. Có cả bia, bánh kẹo, thuốc lá. Mai gặp, có gì về kể lại cho bọn này nghe với nhé.” Cuộc gặp tất nhiên như dự đoán. Tôi không được đi cũng như tất cả những người có tên trong danh sách mời đều không được đi.— Chỉ riêng một chuyện người ta không làm hộ chiếu cho mình cũng đủ để mình đo ván rồi.

Thế nhưng tin theo một kịch bản xuyên tạc bẩn thỉu nào đó, hai người vẫn nói xấu tôi khắp nơi, rằng tôi không chỉ gặp Hội Nhà Văn, mà còn làm đơn lên Ban Tư Tưởng Văn Hoá Trung Ương tình nguyện ở lại! Vẫn chưa hết. Một anh còn gọi điện về Hải Phòng cho một người bạn tôi, nhờ nói lại với tôi rằng tôi lo người vẽ bìa đi. Tôi nhầy nhụa quá, anh em người ta không muốn gần. Điều ấy có nghĩa là anh ta nói xấu tôi với họa sĩ Văn Sáng để Văn Sáng không vẽ bìa tập truyện ngắn thứ hai của tôi, tập Một Ngày Dài Đằng Đẵng.

Không ngờ sự việc xẩy ra như vậy, tôi đã nhờ một anh lái xe làm cho tôi cái bìa để kịp với tập truyện đang được in ở nhà in. Vâng. Một anh lái xe vẽ bìa. Truyện hay đâu cần phải có bìa đẹp. Tôi tức điên lên và nghĩ như vậy. Bởi thế nên tôi nói với Luyến: Ai vẽ bìa đều được. Xấu đẹp đều được, miễn là không phải Văn Sáng, dù tôi tin chắc Văn Sáng không ác cảm gì với tôi.

Hẳn Lam Luyến không muốn có một cái bìa xấu. Luyến điện thoại cho tôi biết diễn biến của việc vẽ bìa. Em đã nhờ mấy người. Người ta đưa bìa đến nhưng em không ưng. Rồi: Em nhờ anh Lương Xuân Đoàn nhưng không được. Anh Đoàn đang ở Na Uy. Tôi bảo: Vậy Luyến vẽ bìa luôn đi, khỏi nhờ. Nhưng Luyến chỉ cười. Luyến vốn là hoạ sĩ. Cái bìa tập thơ Châm Khói của Luyến do Luyến tự trình bầy tôi rất thích. Thế rồi một hôm tôi nhận được phôn của Đoàn Thị Lam Luyến:

– Bìa sách của anh, em đã trao đổi với anh Bùi Minh Quốc. Anh Quốc mới ở Đà Lạt ra Hà Nội. Anh Quốc bảo sao không nhờ anh Nguyễn Trọng Tạo vẽ.

Tôi reo lên. Thật là một phát hiện. Vì sao tôi lại không nghĩ ra nhỉ? Tạo làm bìa rất đẹp. Anh là người tài hoa. Tôi cũng chỉ mới quen anh thôi. Tôi thích thơ anh, thích Đồng Dao Cho Người Lớn của anh, thích Văn Chương Cảm Và Luận của anh, thích Làng Quan Họ Quê Tôi, và tất nhiên thích cả những cái bìa anh vẽ.

Tưởng việc thế là xong. Ít ngày sau, lại có điện thoại. Của Nguyễn Trọng Tạo.

– Anh Quốc với Lam Luyến bảo em vẽ bìa cho anh, nhưng em phải hỏi ý kiến anh xem anh có đồng ý không đã chứ.

Tôi hét lên trong máy:

– Không phải hỏi nữa. Vẽ đi Tạo ơi. Càng nhanh càng tốt.

Bây giờ nghĩ lại chuyện vẽ bìa, nhờ hết người này đến người khác “cái bìa cho một tập tiểu thuyết hai tập viết về nhà tù của Bùi Ngọc Tấn” rất cởi mở hồn nhiên như vậy mà không đến tai công an văn hoá thì cũng là rất lạ. — Trong khi ấy Đá Vàng của Dũng Hà khá êm ả thì lại bị ngừng in. Trong chuyện này như có bàn tay sắp đặt của số phận. Càng ngày tôi càng tin như vậy.

Một ngày tháng chạp năm Kỷ Mão, nghĩa là sắp bước sang năm Canh Thìn, tôi lên Hà Nội. Đến nhà Thanh Niên. Để xem công việc tới đâu. Bước vào phòng Lam Luyến. Chỉ có thạc sĩ Hằng Thanh. Chưa pha nước mời khách, Hằng Thanh kéo tôi đến bàn làm việc của cô, cười rất tươi, chia xẻ niềm vui với tôi:

– Bìa của anh đây. Anh Tạo làm đây.

Tôi không ngờ. Cái bìa đẹp quá sức mong đợi của tôi. Đẹp và trí tuệ. Đây là bìa tập một. Đây là bìa tập hai. Cái bìa như chúng ta đã biết, trình bầy như nhau, chỉ mầu nền sẫm nhạt khác nhau. Tôi bảo Hằng Thanh:

– Quá đẹp. Nhưng cất đi em ạ. Để thế này gay lắm.

Vừa lúc ấy Luyến vào phòng. Chúng tôi cùng ngắm tác phẩm của Tạo. Luyến bảo: Bìa đã đưa duyệt. Phải sửa lại. Phải đưa tên anh ra khỏi mái đình.

Lại một người nữa bước vào. Tóc bạc, cái râu bạc. Khoác tòn ten bên vai một chiếc túi thổ cẩm nhỏ. Chúng tôi ngồi xuống xa lông. Người khách mới tới giở túi, lấy ra một chai rượu bèn bẹt con con và hai cái chén, rót rượu mời tôi. Hai cô chủ chắc nghĩ rằng chúng tôi biết nhau, nên không giới thiệu.

Tôi buộc phải hỏi:

– Xin lỗi, anh cho biết tên.

– Tôi là Bùi Minh Quốc.

Bùi Minh Quốc. Lần đầu tiên gặp anh. Tôi vụt nhớ đến Dương Thị Xuân Quý vợ anh hồi còn đi học, tóc xoã ngang vai hay đến 133 Bà Triệu, cơ quan báo Tiền Phong chúng tôi thời đó… Tôi nhớ bài thơ Lên Miền Tây nổi tiếng của anh khi anh còn rất trẻ. Tôi nhớ đến những lận đận gian lao của anh. Tôi cám ơn anh đã nẩy ra ý tưởng để Nguyễn Trọng Tạo vẽ bìa.

Chén rượu chưa cạn, lại hai người nữa tới: Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Thụy Kha. Tất cả chúng tôi một lần nữa đứng vây quanh cái bìa của Tạo. Tạo bảo:

– Em làm trên máy —vi tính— của Văn Sáng. Nó bảo đây là một trong những cái bìa đẹp nhất từ trước tới nay. Anh có thấy cần phải sửa gì không?

– Bìa tập một thì được. Nhưng bìa tập hai nền sáng quá.

– Em nghe nói tập hai là tập đã được ra tù.

– Đúng. Nhưng rất gay go. Còn khốn nạn hơn. Hậu tù mà.

– Thế thì em sẽ cho mầu sẫm hơn. Đơn giản thôi.

Hoá ra Tạo chưa đọc dù chỉ một trang tập tiểu thuyết của tôi. Anh chỉ nghe nói đó là một truyện tù. Tuy nhiên Nguyễn Trọng Tạo đã đọc hai tập Một Thời Để Mất Những Người Rách Việc của tôi in trước đó. Anh hiểu tôi. Tôi rất vui vì cái bìa Tạo vẽ. Tôi cũng đã chuẩn bị kỹ về phần mình cho cái bìa này: Tìm được tấm ảnh chụp với anh Thành tôi khi vào tiếp quản Hà Nội, tách nó ra để dùng cho bìa tập một và ảnh chân dung do Minh Nhật mới chụp năm 1997 dùng cho tập hai. Cùng hai câu trích in dưới ảnh. Câu trích cho bìa tập một là một câu về tình yêu, tôi không ngại, nhưng câu trích để in ở bìa tập hai tôi hơi “chờn chợn” không phải vì sợ lôi thôi mà sợ không được duyệt. Bởi nó tổng kết chính xác một hiện trạng tồn tại trong xã hội, gọi đúng tên căn bệnh trầm kha trong cuộc sống, chỉ rõ căn bệnh gốc gác đẻ ra những căn bệnh khác, nguyên nhân của mọi nguyên nhân mà người ta không chịu thừa nhận, không những thế còn luôn nói ngược lại: Triệu lần dân chủ hơn. Nghĩ rằng sẽ khó được duyệt nhưng vẫn cứ trích, cũng là một câu trong Chuyện Kể Năm 2000 thôi: Ai cũng có một người vô hình để mà sợ sệt, để thầm cãi lại sau lưng. Người vô hình có mặt khắp nơi, cả trong giấc ngủ. Nhưng ít người dám vùng lên chống lại vì cái giá phải trả thường là cuộc đời, là sinh mạng. Nằm trong một tổng thể đã thấy khó nhá rồi, tách riêng ra, lại in ngay ngoài bìa, càng frappant hơn. Nhưng chính đó là vấn đề cần được đúc rút tổng kết, đó chính là điều cần nhấn mạnh. Có một người vô hình không ai biết mặt ngang mũi dọc ra sao hiện diện khắp nơi. Phải đánh đổ người đó. Phải tiêu diệt bóng ma đó …Tôi sẽ phải thuyết phục Bùi Văn Ngợi về câu trích này nếu anh ngần ngại. Luyến cất cho tôi mối lo ấy:

– Ảnh và chú thích bìa bốn cả hai tập của anh được duyệt hết rồi. Em bắt anh Ngợi ký cả vào đấy. Sau này khỏi lôi thôi.

Lại thêm một điều để tôi nghĩ đến Ngợi với một tấm lòng kính trọng và yêu quý. Anh cũng đồng ý với tổng kết, với cảnh báo của tôi và sẵn sàng chịu trách nhiệm khi cho công bố nó như anh đã đồng ý với nhận xét của tôi: Cuộc chiến tranh Bắc Nam là một cuộc chiến tranh ý thức hệ, một cuộc nội chiến ([3]).

Trưa hôm ấy chúng tôi lại tụ họp ở cửa hàng cơm phố Ngô Văn Sở. Phố Ngô Văn Sở — mà những ngày còn làm ở Tiền Phong chúng tôi gọi chệch là Ngô Văn Khổ — giờ đây lại có cùng tôi bao nhiêu kỷ niệm. Và sẽ còn nhiều kỷ niệm nữa khi bộ sách bị đình chỉ phát hành rồi thu hồi tiêu huỷ.

Cùng ăn bữa ấy có tôi, Lam Luyến, Hằng Thanh, Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Trọng Tạo, Bùi Minh Quốc. Tạo ký tặng tôi cái bìa mẫu anh mang theo ngay trên bàn ăn. Tôi ngắm lại cái bìa. Càng nhìn càng thấy đẹp và chiều sâu ý tưởng ẩn trong hình tượng. Nhưng băn khoăn: Không biết nhấc ba chữ tên tôi ra khỏi mái đình — cũng có thể hiểu là hai lưỡi đao chụm chuôi vào nhau, xoè đầu đao sang hai bên, giống một cái máy chém — thì đặt vào đâu. Phía trên đã là hai chữ Tiểu Thuyết rồi. Mãi sau này khi sách đã in, bìa đã được sửa, tôi thấy Nguyễn Trọng Tạo xử lý thật đơn giản. Anh chỉ hoán vị hai dòng chữ ấy mà thôi. Tên tác giả được đưa lên trên cùng. Còn trong mái đình đỏ ấy là hai chữ Tiểu Thuyết.

Chúng tôi uống uýt-xki Nhật, chai rượu tôi mang từ Hải Phòng lên và trêu Bùi Minh Quốc. Quốc đã hết hạn quản thúc, vừa làm chuyến thăm lại miền Tây về.

Xe chạy nghiêng nghiêng trèo vách núi

Lên miền Tây vời vợi nghìn trùng

Bài thơ ấy của Quốc từ thuở xa xưa đã kéo bao nhiêu thanh niên nam nữ lên miền Tây xây dựng Tổ Quốc. Lần này hết hạn quản thúc, từ Đà Lạt ra, anh lên thăm lại miền Tây. Anh rủ rê bè bạn cùng đi. Đi máy bay. Nhưng ai cũng lắc đầu. Một mình anh lên miền Tây vời vợi nghìn trùng. Chẳng ai đi cùng anh dù không phải chịu cảnh xe chạy nghiêng nghiêng trèo vách núi.

Hết uýt-xki, hết cả bầu rượu thuốc bèn bẹt trong cái túi thổ cẩm của Quốc. Thụy Kha gọi Heineken. Các cháu gái phục vụ đem bia tới và đứng lại nghe Tạo giới thiệu ông già tóc râu bạc sù sì như con gấu đang ngồi ăn với chúng tôi:

– Đây là chú Bùi Minh Quốc.

Các cháu gái nở nụ cười rất phân vân.

– Thế các cháu có nhớ bài này không?

Và Tạo hát — phải nói rằng Tạo hát khá hay: Mẹ đào hầm. Mẹ đào hầm từ lúc tóc còn xanh. Nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc. Thơ của ông này đấy.

Các cháu cười thích thú và nhìn cả vào Quốc. Bốc, Tạo cất giọng nam trầm chuyển sang một giai điệu khác: Cuộc đời vẫn đẹp sao. Tình yêu vẫn đẹp sao. Dù đạn bom man rợ thét gào… Cũng của ông này đấy.

Đến bây giờ tôi mới biết những bài hát rất quen thuộc luôn oang oang trên cái loa nón Ngã Sáu đó là phổ thơ Bùi Minh Quốc. Đơn giản vì cái thời chúng được sáng tác và lan toả trên sóng phát thanh cũng như trong công chúng thì tôi còn đang ở thế giới bên kia và lạc thế kỷ khi ra tù, hơi đâu mà học bài hát mới khi mình đã tuổi 40, nhất là những bài thuộc loại “cuộc đời vẫn đẹp sao.” Không biết bây giờ Quốc còn thấy “cuộc đời vẫn đẹp sao” nữa không khi anh đang bị quăng lên quật xuống, theo dõi và cả quản thúc?

B.N.T.

([1]) Nhân vật đao phủ của Nguyễn Tuân

(2) Mãi sau này mới biết một người cũng từng là phạm, hơn thế, còn là một phạm nguy hiểm, đi Mỹ như đi chợ. Đó là ngài Năm Cam.

(3) Xem Chuyện Kể Năm 2000, chương Nguyễn Văn Tuấn gặp ông Khuổng, thiếu tá công an — Cuối tập 2.

(Xem tiếp kỳ sau)


Comments are closed.