KÝ ỨC SƠ SÀI

(TRÍCH)

Nguyễn Khiêm

8.

Ngay những năm đầu sau 75, đời sống vật chất, tinh thần của lớp người cũ hoàn toàn suy sụp. Những hy vọng và tin tưởng ban đầu mau chóng tan vỡ lặng tờ như bong bóng xà bong. Cuộc phân tranh nam bắc dằng dai ác nghiệt, đẫm máu và nước mắt, nay tới hồi kết thúc mà mình vẫn sống sót, dù bị thiệt thòi tới đâu, ai cũng thở phào nhẹ nhõm. Hầu như mọi người đều nghĩ đất nước sạch bóng ngoại nhân, dẫu cộng sản hay chế độ nào cai trị, khắt khe tới đâu rồi ra cũng chịu đựng được, bởi lẽ cùng là “đồng bào” cả. Sống sót là phước lớn rồi. Ăn muối cũng…sướng.

Nhưng rồi té ngửa hết. Sự đời đâu có đơn giản vậy. Mọi giá trị vật chất, nhất là tinh thần, đảo lộn dữ dội tới mức trước đó, không ai đủ trí tưởng tượng để có thể hình dung. Nhà giáo chúng tôi cũng đi từ ngạc nhiên này đến chưng hửng khác. Ngôn từ thì lạ lẫm, danh xưng nghề nghiệp, các bậc học, các danh vị, cách thi cử, học sinh đậu rớt… đều khác lạ. Không lạ sao, nội chuyện gọi cấp hai bậc trung học phổ thông là phổ thông cơ sở, tại sao? Anh Trần Phong Giao hỏi tôi dịch sang tiếng Pháp chẳng hạn thì dịch sao, tôi nói không biết. Cách chấm bài thi cũng lạ nữa. Bài nghị luận văn chương của thí sinh càng giống sách giảng văn (do bộ phát hành) chừng nào thì điểm càng cao chừng nấy. Cách chấm bài văn cũng độc đáo. Thang điểm chặt chẽ tới từng chi tiết, thí dụ thân bài có ba ý lớn, ý một gồm ba ý nhỏ, mỗi ý bao nhiêu điểm… Còn dạy thì tất cả tập trung dạy thế nào để học sinh “nắm” sách giáo khoa thật “nhuần nhuyễn” là dạy giỏi. Đi thi mà lý luận, thậm chí chép đúng sách giảng văn thì cũng là giỏi văn. Tổ chức thi tốt nghiệp phổ thông vô cùng rình rang, nặng trịch về hình thức. Số ký danh của thí sinh phải đánh số thay đổi vị trí ngồi từng buổi, giám thị ngồi sai vị trí thì bị phê bình. Hội đồng chấm cũng đầy những quy định nhiêu khê, mệt mỏi. Tất cả những bày đặt rườm rà đó để dẫn tới kết quả gì? Đó là học sinh năm nào cũng đậu gần 100%. Sở dĩ “gần” là tại có em… bịnh hoặc bị tai nan, (xe cộ chẳng hạn). Mấy chục năm rồi vẫn thi như thế và đậu như thế. Không lạ sao? Đã biết học sao cũng đỗ, thôi thì “phân quyền” cho trường phổ thông lên danh sách học sinh “đạt yêu cầu” cho đỡ hao tốn tiền của, ham gì tấn tuồng thi cử chiêng trống rình rang chẳng chút lợi ích cho ai! Cũng không thể không ngạc nhiên khi thấy mãi cho đến hết mười năm đầu thế kỷ 21 mà chuyện thi trắc nghiệm, chuyện phân ban ở bậc phổ thông cũng vẫn còn ì ạch trong thử nghiệm và …tập huấn. Nghe đâu đã tốn mười mấy tỷ đồng mà vẫn chưa thực thi được, trong khi miền Nam đã phân ban từ trước 1960 và thi tú tài trắc nghiệm trước 1970, chẳng nghe nói tập huấn và thử nghiệm hồi nào.

Thời gian này các giáo viên được lưu dụng cũng quen dần ngày 20 tháng 11, bắt đầu nhận quà của học sinh không ngượng ngùng như những năm mới mẻ sau 75. Thiếu thốn, cơ khổ quá rồi thấy học sinh biết ơn bằng quà cáp, bao thư…cũng tự nhiên. Đâu biết tư cách ông thầy, do đó cũng tự nhiên dần dần mất trắng. Một lần nghe con gái tôi kể cô giáo chủ nhiệm của lớp nó nhắc công khai, các em có cho cô áo dài thì cho vải này…màu nọ… Con nhỏ cũng biết phàn nàn: “cô kỳ thiệt”. Chẳng bù ngày trước, Tết đến, thầy nào vào lớp cũng móc bóp cho tiền học sinh mua bánh kẹo ăn tất niên, cho nhiều, ăn phủ phê, dư tiền làm quỹ lớp. Thầy dạy trường tư thì xem sổ sách tìm em nào học giỏi giúp đỡ bằng cách đóng học phí cho em đó, có khi giấu tên, văn phòng chỉ việc báo cho em biết có người giúp em học phí rồi. Một truyền thống tốt đẹp nay đã tuyệt đối bị loại bỏ là hằng năm, cứ sắp hè y như rằng các hãng buôn, thương gia, các tờ báo lớn, thầy cô đều tự nguyện đóng góp tiền bạc, phẩm vật giá trị để gởi đến các trường phát thưởng, chỉ thiếu sót một điều là không có…giấy khen. Học sinh lãnh thưởng có khi phải về bằng cyclo vì quá nhiều từ điển, sách vở. Nói ngay cũng phải thôi. Lương thầy cô bấy giờ quá khiếp. Sơ sơ giáo học bổ túc dạy tiểu học lương khởi điểm 4800 đồng , trong khi lương cán bộ xây dựng nông thôn và miền núi chỉ 600 đồng (vàng 500 đồng/chỉ). Cũng chẳng hiểu cớ gì chính quyền hồi đó coi trọng ngành giáo quá đáng vậy nữa (trước 1965). Nhưng những năm tháng này hẳn là hào quang cuối cùng của những ngọn pháo bông chót của ngành giáo dục, bởi lẽ sau đó chỉ liên tục những thoái trào. Cho đến những năm sau 75 thì kết thúc hành trình để xuống tận đáy xã hội. Hoàn toàn có thật, đi đâu ai hỏi hồi này làm gì, nói vẫn còn đi dạy học, tự nhiên thấy ngượng ngùng, thảm hại. Ông thầy bị xã hội miệt thị, giễu cợt thậm tệ. Tới thăm người bạn đồng nghiệp, cụ thân sinh anh nhìn chúng tôi cười ái ngại: “Sĩ đáo cùng thời sĩ giáo nhi”. Người xưa đã phán vậy, chẳng trật đường nào. Ngoài mươi năm lóe sáng bất thường, phải chăng ngành giáo dục đã được trả về với giá trị thật của nó? Thế thì chỉ nên tự trách mình thôi. Nghe đâu bên Mỹ nghề giáo cũng là the last choice của thanh niên mà. Hồi này mang túi xách đi lạng quạng trên lề đường thường bị người ta hỏi:

– Gì đó ông thầy? Có gì bán không? Đi xe đạp láng cháng trên phố, bị đứa nhỏ qua mặt hất hàm hỏi:

– Đi gì kỳ vậy ông…thầy?”

Thầy tuốt hết. Nghèo hèn, tả tơi là thầy. Quờ quạng, vụng về…cũng thầy. Mà đâu có sai. Nhà tôi có gì coi được liền bị các bạn đồng nghiệp người Bắc hỏi mua, tất nhiên nếu mình không bán thì thôi, khổ nỗi, mình cũng muốn bán. Bán rồi oán giận vu vơ. Lúc đầu là xe Suzuki, sau là tủ buffet, quạt để bàn rồi “tất yếu” đến quạt trần, cuối cùng là…nấu khoai mì chở xuống trường nhờ mấy cô căn tin bán giùm lớp đêm bổ túc văn hóa. Có lần tôi về Hội An thăm nhà nghe cô em của người bạn là giáo viên tiểu học kể rằng trong giờ dạy, lợi dụng lúc học sinh làm bài, cô “tranh thủ”…lặt rau muống, bà hiệu trưởng nhìn thấy nhưng vẫn làm ngơ vì một lát bà được lấy phần rau già cho heo. Lần về này tôi cũng ngạc nhiên thấy một banderole giăng ngang đường Lê Lợi thị xã Hội An “Thằng trời đứng qua một bên, để cho thủy lợi đứng lên làm trời.” (Cho đến trận lụt “lịch sử” 2009 thì thủy lợi làm trời thật, trời xả nước hồ thủy điện gây nạn hồng thủy, nhấn chìm nhà cửa, ruộng nương; lúa má, heo gà trôi giạt trong làn nước dữ đỏ ngầu chưa từng thấy bao giờ). Ở Sài Gòn bọn tôi cũng đi làm thủy lợi nhưng không thấy câu này, chỉ nghe truyền nhau câu đối chơi chữ “Ra kinh thấy kinh sợ kinh”. Em tôi dạy tại một ngôi trường nhỏ chơ vơ bên bờ sông Thu Bồn, ngó mông qua bên kia, bãi cát trắng bát ngát nối tiếp bờ liễu xanh rờn vẽ một vệt đậm tới tận chân làng xa. Chắc nhạc sĩ Hoàng Nguyên ghi lại cảnh này trong một khúc hát đẹp nhất của ông: Ngày anh ra đi, rặng liễu chưa xanh màu, mà nay bên sông liễu khuất bến giang đầu, mười mấy năm qua rồi, còn gì đâu…còn gì đâu…

Em tôi kể, có lần đang giờ học, thình lình nghe tiếng nổ ầm giật thót người, bỗng các em trai trong lớp đồng loạt, đứa chạy ra của lớn, đứa thoát ra cửa sổ. Cô hốt hoảng không hiểu chuyện gì. Cảnh giống hệt thời chinh chiến vừa mới dứt. Chúng lao mình xuống sông bắt cá, vì có người đánh cá bằng lựu đạn, chúng nhào xuống bắt hôi. Cô thấy chuyện kinh khủng quá, đang giờ dạy, chúng thoải mái mưu sinh kiểu đó, có đứa chết đuối thì chính cô chịu trách nhiệm chứ ai vô đây. Cô yêu cầu hiệu trưởng mời phụ huynh, ai cũng hứa sẽ la rầy chúng. Một bà tỏ ra thông cảm với nỗi lo của cô giáo, cũng ngỏ ý xin lỗi nhưng không quên nói thêm:

– Mà thưa cô, cũng tội nghiệp cô hỉ, hắn bắt được một xâu cá dài cô nghe!

Cũng có đửa lên khỏi nước trở về lớp, áo quần ướt nhẹp, đưa xâu cá trước mặt cô cười cười:

– Em cho cô nè.

Đã đành rằng mỗi thời, mỗi xã hội đều có chữ nghĩa riêng phản ảnh học thuật, văn hóa, cách cai trị… của chính quyền thời đó, không ai hơi đâu bắt bẻ chuyện chữ nghĩa, danh từ, có điều không khỏi lạ tai khi nghe, ví dụ, dạy thêm cho học sinh kém thì nói rặt chữ Hán phụ đạo, (không thấy gọi giáo viên chủ nhiệm là đạo sư), ngạch trật là biên chế, bài soạn là giáo án, chuyện bịa, tưởng tượng, thành hư cấu, ( thời gian lâu tôi mới hết khó chịu với chữ này, cái gì mà cấu cấu…nghe ghê!), vào lớp thành lên lớp, tiêu chuẩn thành tiêu chí, lưu dụng là lưu dung (tôi e người đánh máy văn thư quên bỏ dấu rồi chữ đó trở thành…pháp lệnh chứ lưu dung ở đây có nghĩa gì?). Không khỏi ngỡ ngàng lần đầu nghe kiểu nói như pháo nổ rất chất lượng, cú đá có chất lượng cao, học sinh báo cáo…quân số, đi ăn đặc sản, bão đổ bộ vào đất liền (chắc lúc ngoài biển bão đi tàu thủy). Cho đến những năm đầu thập niên 80, chuyện chữ nghĩa cũng vẫn còn gây hiểu lầm lôi thôi. Lê H.Dũng bạn tôi dạy hóa có tiếng, một hôm ông cán bộ người Bắc dẫn con đến xin học, ông bảo:

– Xin thầy giáo cho con tôi đăng ký học thêm.

Ông thầy thong thả:

– Tôi là thầy chớ không thầy giáo chi hết, bộ ông nói thầy giáo để phân biệt với thầy cúng, thầy tụng, thầy bói…hả? Ông dẫn cháu về đi, lớp hết chỗ rồi.

Người miền Nam nghe ra trong chữ thầy giáo, cô giáo có ý xách mé, khinh miệt trong khi ông phụ huynh nọ hiểu theo nghĩa bình thường (cũng như chữ ý đồ, miệt trong hiểu theo nghĩa xấu). Chắc ông cũng ngạc nhiên sao ông thầy lại phản ứng bất ngờ như vậy. Ngược đời một nỗi, ngôn ngữ mới đầy chữ Hán nhưng hầu hết giáo viên miền Bắc “chi viện” hầu như không ai viết được chữ Hán, từ già tới trẻ. Bà hiệu phó chuyên môn trường tôi tên Bích, một hôm ngồi nói chuyện với năm ba người tại phòng giáo viên, không biết bà lỡ lời hay sao, nói mình có biết chữ Hán chút ít, Nguyễn V Thanh, anh giáo viên trẻ có tiếng đớp chát, hỏi thẳng ngay:

– Tên chị là Bích, bích là hòn đá xanh, bích là ngọc, là màu xanh, là bức tường…tên chị là chữ nào, chị viết thử…

Bà hiệu phó lúng túng :

– À…à… lâu quá, tớ cũng quên.

Có một chuyện khiến không thể quên được anh này. Năm 78, 79 gì đó, cuộc bầu cử quốc hội hay có khi hội đồng nhân dân, diễn ra rất rầm rộ. Các ứng cử viên gồm nhiều thành phần, kể cả một bà nào đó trong ngành vệ sinh đô thị, một ông thương binh cụt tay. Buổi học tập bầu cử rất trang nghiêm, giáo viên chỉ ngồi nghe, thấy ai cũng “tài đức vẹn toàn”, cũng được Mặt trận Tổ quốc giới thiệu đàng hoàng, đâu ai dám có ý kiến gì nhưng riêng Thanh đưa tay xin “phát biểu”. Mọi đôi mắt đổ dồn về anh, tôi nghĩ bụng không biết tay này định giở trò gì. Anh nói chầm chậm:

– Ai cũng biết nghề nào cũng cao quí, quét rác cũng phục vụ nhân dân rất thiết thực, tôi rất ủng hộ nhân vật này, nhưng riêng đồng chí thương binh cụt tay…

– Thanh có vẻ ngập ngừng không dám nói hết ý. Bà hiệu trưởng giục:

– Anh nói tiếp đi!

– Dạ, tôi chưa “nhất trí”, tôi thấy cụt tay rất bất tiện, làm sao…vỗ tay được?

Đám đông bùng vỡ trận cười nhưng bà hiệu trưởng dập tắt ngay:

-Thanh không được phát biểu linh tinh, đây không phải chỗ anh châm chích nghe chưa!”

Vẫn còn những tiếng cười khúc khích nho nhỏ đâu đó.Tôi nghĩ thế nào Thanh cũng bị lôi thôi nhưng sau đó mọi sự vẫn êm. Kể ra bà hiệu trưởng này cũng biết chấp nhận chút hài hước, không lấy gì làm nghiêm trọng. (Nhưng cũng có một chuyện nói lên bà là một con người khác.Thời gian này quân đội VN chưa tràn qua Campuchia, cuộc cách mạng vô sản đẫm máu của Khơ Me đỏ gây kinh hoàng cho thiên hạ, giáo viên trường tôi cũng bàn tán xôn xao. Trong một buổi học tập chính trị, bà nghiêm khắc nhắc nhở mọi người rằng không được phê bình đảng bạn, bạn có hoàn cảnh của bạn, ta không hiểu thì không được phép bình luận). Nhưng Thanh vẫn chứng nào tật nấy. Lúc bấy giờ còn lệ trực cơ quan, cứ mỗi đêm hai người. Có lần anh ghi vào sổ trực: “Tối qua không có “sự cố” gì, ngoại trừ con chó bên dòng tu cứ sủa… linh tinh suốt đêm, không tài nào ngủ được.” (Chắc anh cố tình dùng lại từ linh tinh của bà hiệu trưởng). Lại một lần khác: “Đêm qua có “sự cố”. Vào lúc 2 giờ sáng, tôi đi vệ sinh, bất ngờ gặp tên chắc- là- ăn-trộm nhảy từ bờ tường xuống cái thịch, tôi hoảng hồn nhìn nó, nó cũng hoảng hồn nhìn tôi, rồi đồng thời hai bên đều quay lưng bỏ chạy”. Thời gian này ăn bo bo gãy răng, Thanh ngồi chơi chỗ phòng hội đồng, dùng thước gõ đều đều vào bàn theo kiểu gõ mõ tụng kinh:

– Tàn nhẫn… vô nhân đạo…hết gạo còn bo bo…bó bo bò bo…bó bo bò bo…bó bo bò bo…”

Những thiếu thốn vật chất cũng không lường nổi. Cả vựa lúa miền Tây Nam Bộ không hiểu biến đi đâu. Gà qué, heo quéo, gạo thóc… tràn ngập hang cùng hẻm tận vừa mới đây chứ có lâu la gì, tự nhiên sao bỗng dưng hiếm như chả phụng nem công. Tất cả giao thương trao đổi đều bị chặn đứng. Như nha phiến, một ký gạo cũng không lọt qua được trạm kiểm soát Tân hương tỉnh Tiền Giang. Cha vợ tôi từ Gò Công lên Sài Gòn thăm con, xách trong giỏ đệm năm ký gạo nấu cháo cho các cháu, qua trạm Tân Hương không những bị tịch thu mà còn bị “quản lý thị trường” mắng nhiếc, đe dọa cụ già như kẻ trộm cắp. Cụ có tiếng cứng cỏi mà cũng rưng rưng :

– Thiệt lạ quá, ba chưa từng nghe nói chớ đừng nói thấy nhà cầm quyền nào ngang ngược, nghiệt ngã với dân vô lý vậy bao giờ. Chính sách gì mà lạ đời quá đỗi vậy con? Ngày trước thằng Tây cai trị chỉ lúc cấm rượu là hơi tầm bậy, ngoài ra nó chỉ phạt người chặt cây núi cấm, phạt người bán cá lóc có trứng…coi ra nó lo cho dân mình đó chớ?

Sách báo nhắc tới giai đoạn này chất thành núi, chẳng cần phải gợi lại. Có điều trong cách nhắc lại thời “bao cấp”, thời “ ngăn sông cấm chợ”, ai cũng có cảm tưởng như đó chỉ là một “sự cố” từ trời rơi xuống, không ai gây ra cả, chẳng ai chịu trách nhiệm hết. Bất quá cũng chỉ nói tại…duy ý chí, ai duy ý chí thì không biết rõ. Ơi những ông quan nhỏ quản lý thị trường ngày nọ, nay chắc có người lên làm quan lớn nhờ thành tích của mình, đêm nằm còn nhớ chăng chính mình đã tích cực đóng góp cho “một mùa địa ngục” trên quê hương đã thanh bình, đúng ra phải dễ dàng được cơm no áo ấm. Cũng khó quên vụ chữ cái cải cách trong giáo dục thời đó- nỗi hổ ngươi khó nuốt- cũng từ trời rơi xuống, chẳng có ai ra lệnh cả. Chuyện cũng chỉ là …chuyện nhỏ, chỉ liên quan tới một ngành nghề, vậy mà “lịch sử” vẫn không thấy tên người chủ trương, trường hợp này chắc cũng tại duy ý chí rồi tiếp đến duy (trì)… giấu giếm.

……………………………………………….

9.

Sau ngày…đứt phim, lớp Việt-Hán chúng tôi còn lại ở Sài Gòn không mấy mống. Năm 69 ra trường mỗi người đi một tỉnh. Từ đó tới nay có người chưa gặp lại. Nhớ ngày chọn nhiệm sở, ai cũng được xem trước danh sách các trường mình có quyền chọn. Tốt nghiệp đợt đầu trên 10 tên, tôi tuy cũng đậu đợt đầu nhưng kế áp chót nên trường gần nhất có thể nghĩ tới cũng phải cách Sài Gòn trên hai trăm cây số. Thật công bình. Ba bốn năm trời cứ nhờ bạn bè ghi cours rồi trốn đi dạy trường tư kiếm tiền, chữ Hán chữ Nôm lộn tùng phèo, nay giã biệt trường tư buồn nẫu ruột, lại phải tính quãng cách Sài Gòn bằng đơn vị trăm cây số, chẳng còn mơ chuyện dạy thêm dạy bớt, cũng đáng đời, gieo chi gặt nấy, ăn trước nhịn sau. Cũng tự an ủi, thủ khoa, á khoa như Lê V Bảy, Lâm H Tài cũng phải đi tận Long An, Biên Hòa, ngày ngày cong lưng trên xe gắn máy…coi cũng không thọ mấy. Xem ra không ai uất ức điều gì. Nhiệm sở công bố minh bạch, ai đậu cao thì được microphone xướng danh lên chọn trước theo danh sách từ cao xuống thấp với sự chứng kiến của các quan chức cao cấp Bộ Giáo Dục, Viện Trưởng Viện Đại Học Sài Gòn kiêm Khoa Trường Đại Học Sư Phạm, Giám đốc Nha Nhân Viên, Giám Đốc Nha Trung Học v.v… Sự Vụ Lệnh của mỗi tốt nghiệp sinh được viết sẵn đầy đủ chi tiết cá nhân cần thiết với tư cách là Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp đến tham dự lễ chọn nhiệm sở. Tất cả nhiệm sở có nhu cầu tiếp nhận giáo sư về dạy học được Bộ Giáo dục qua Nha Nhân viên và Nha Trung học gởi về trường trước ngày qui định khoảng 2 tháng để mỗi tốt nghiệp sinh có thời gian và cơ hội tìm hiểu nhiệm sở nơi mình sắp chọn. Thí dụ Ban X có 10 tốt nghiệp sinh ra trường thì danh sách dành cho Ban X có đến khoảng gấp đôi nhiệm sở được đề nghị để tạo sự thoải mái trong việc lựa chọn. Sau khi danh sách nhiệm sở được niêm yết, mọi người rủ nhau hợp lại để thảo luận, chọn lựa. Thủ khoa cho biết ý kiến trước và tuần tự từng người sau đó kế tiếp nhau lựa chọn, hoán đổi cho nhau theo mọi thỏa thuận riêng một cách công khai. Thường có từ 2 đến 3 nhiệm sở cách Sài Gòn khoảng trên dưới 30km dành ưu tiên cho mấy người đậu hạng cao. Ngoài ra các nhiệm sở khác được phân bổ khắp các tỉnh thành, nhất là các tỉnh thành phía nam có trường trung học đệ nhị cấp. Trước khi dự lễ bổ nhiệm, mọi người đua nhau đi khảo sát trước một số nhiệm sở mình sắp nhắm tới, sau đó về trường cho các bạn biết quyết định mới của mình để cùng nhau điều chỉnh lại cho khớp. Do đó mỗi người phải dự  phóng trước 2 hoặc 3 nhiệm sở để tùy cơ ứng biến. Huỳnh Mạnh định chọn một ngôi trường ở Bạc Liêu, rủ Quang, Tài và Giáo cùng đi đến nơi xem trước thực địa thế nào. Cả bốn đi Honda đến tận nơi, vào văn phòng trường, ông Hiệu trưởng người cao to, lực lưỡng, tên Hồ V Trai ra tiếp. Ông ta tự giới thiệu là giáo sư ban Vạn vật (Về sau lên thanh tra trung học, sau 75, chắc có hoạt động hay cơ sở CM nên được giữ chức vụ gì đó cũng kha khá tại sở giáo dục TP HCM). Trên đường về, Mạnh than thở:

– Tui thì nhỏ con, thấp bé, Hiệu trưởng người to đùng, thấy sợ quá. Cho kẹo cũng không dám sống chung với ông này.

Thế là Mạnh tiếp tục đi thăm dò vài trường khác trước ngày quyết định chính thức.

Địa điểm tổ chức lễ chọn nhiệm sở là trụ sở Viện Đại Học Sàigòn tại Hồ Con Rùa đường Duy Tân cũ, nay là Văn phòng 2 Bộ Giáo dục và Đào tạo và tên đường được đổi là  Phạm Ngọc Thạch. Danh sách gọi lên chọn nhiệm sở theo thứ tự các Ban. Bên Nhân văn chọn trước và bên Khoa học chọn sau, dẫn đầu là Ban Việt Hán, rồi đến Ban Sử Địa, Ban Anh văn, Ban Pháp Văn … sau đó đến Ban Toán, ban Lý Hóa, Ban Vạn Vật… (Ghi chú: Trước 75 gọi tên là Ban, tương đương với bây giờ gọi là Khoa. Thí dụ trước kia gọi Ban Anh Văn, sau 75 gọi Khoa Ngữ văn Anh, tương đương với thuật ngữ Department of English). Trong sân Viện Đại học Sài Gòn, tốt nghiệp sinh được phân bổ mỗi Ban đứng một hàng. Ban có số tốt nghiệp nhiều nhất là vài chục, thậm chí như Ban Toán hay Ban Pháp Văn chỉ có 5 hoặc 7 sinh viên đạt yêu cầu tốt nghiệp. Tốt nghiệp sinh theo tuần tự được microphone gọi tên lên trước mặt Hội đồng phân bổ nhiệm sở và nói lên tên nhiệm sở mình quyết định chọn. Sau khi nghe xong, ông Chủ tịch Hội đồng yêu cầu người Thư ký Hội đồng viết tên nhiệm sở vào khoảng trống chừa sẵn của tờ Sự Vụ Lệnh bổ nhiệm một cách công khai trước mặt mọi người. Hoàn tất công đoạn bổ nhiệm một Giáo sư Trung học Đệ Nhị Cấp, một công chức chánh ngạch hạng A, có bậc lương tương đương với Phó tỉnh trưởng phụ trách hành chính (Ghi chú: một số tốt nghiệp sinh QGHC được bổ nhiệm làm phó quận trưởng, theo thời gian thăng chức lên làm phó tỉnh trưởng. Trường hợp này ngạch trật của phó tỉnh trưởng không hơn gì ĐHSP. Những năm về sau mới đặt ra điều kiện Cao học hành chánh mới được bổ nhiệm làm phó tỉnh trưởng. Thậm chí có trường hợp như Lâm Tuấn Anh, tốt nghiệp Cao học hành chánh nhưng chỉ được bổ nhiệm làm phó quận trưởng. Phim cũ vừa đứt thì liền được làm Bí thư phường 5 Quận 10, và … chết rồi). Đại diện Bộ Giáo dục sẽ ký tên chứng nhận sự bổ nhiệm và đóng dấu vào Sự Vụ Lệnh này. Ngày chọn nhiệm sở và được nhận Sự Vụ Lệnh bổ nhiệm cũng chính là ngày được nhập ngạch Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp chính thức. Sự vụ Lệnh này sẽ được hợp thức hóa bởi một nghị định của chính phủ. Thời tổng thống Ngô Đình Diệm, không có qui chế Thủ tướng, nghị định bổ nhiệm thay thế Sự Vụ Lệnh này do Bộ Trưởng Phủ Tổng thống ký, những chính phủ sau nhà Ngô đặt ra Phủ Thủ tướng, do đó nghị định nhập ngạch và thăng trật do Bộ Trưởng Phủ Thủ tướng ký. Có một điều hết sức công bằng và hợp lý là hai người bạn cùng tốt nghiệp chung một ban, sau khi nhận được sự vụ lệnh, được quyền công khai xin Hội đồng cho phép hoán đổi nhiệm sở. Ông Chủ tịch Hội đồng yêu cầu viên Thư ký Hội đồng, gạch ngang tên hai nhiệm sở cũ của 2 tờ Sự vụ lệnh, viết tên hai nhiệm sở xin hoán đổi lên phía trên dòng chữ cũ vào hai tờ Sự Vụ Lệnh của hai người cùng thỏa thuận xin phép hoán chuyển, ký tên xác nhận và đóng dấu vào dòng chữ được điều chỉnh. Tất cả Hội đồng tôn trọng ý kiến đồng thuận của cả hai đương sự, không thắc mắc, không gây khó khăn cho người nào, vì lúc bấy giờ tất cả tốt nghiệp sinh Đại học Sư phạm đều là công chức chánh ngạch hạng A với chỉ số lương 470, cao hơn chỉ số lương của tốt nghiệp sinh Quốc gia hành chánh là 430, và cao hơn chỉ số lương của cả Kỷ sư Bách khoa Phú Thọ.

Các giới chức Bộ Giáo Dục luôn công tâm, minh bạch trong hành sử, trong bao nhiêu năm trời chưa một lần bị điều tiếng xấu gì. Ra trường rồi thì cứ hai năm thăng trật một lần, vùng mất an ninh thì một năm rưỡi. Hiệu trưởng chịu trách nhiệm hoàn toàn về những chậm trễ hoặc sai sót về hồ sơ thăng trật của giáo sư. Từ Bộ Giáo dục, hồ sơ này phải chuyển sang Phủ Tổng Thống hoặc Phủ Thủ Tướng để ký nghị định bổ nhiệm hoặc thăng trật. Bộ Giáo dục chỉ được ký nghị định bổ nhiệm và thăng trật cho giáo viên tiểu học và giáo sư trung học đệ nhất cấp.

Tôi về Rạch Giá một phần cũng do Đào Hiếu, bà chị anh lấy chồng công chức ở ngay phố chợ, sẵn sàng nhường tôi căn gác xếp – những năm đó không hiểu sao nhà cửa ở Rạch giá khó hết biết, hình như người ta chỉ xây nhà vừa đủ ở, không bao giờ kinh doanh cho thuê nhà thì phài. Chị làm dâu Rạch giá, cũng có chuyện cười ra nước mắt. Một hôm rửa rau xà lách, chị quen kiểu ăn ngoài Trung, cứ phứt nhỏ cộng rau ra chứ không để nguyên lá, bà mẹ chồng vốn là chủ đất giàu có hồi trước rất gay go, hỏi chị mày là người miệt ngoải sao không lấy chồng ở ngoải, lấy người…Việt Nam làm gì mà cái gì cũng khác. Nghe đâu chị có thưa lại là ảnh ra tận Bình Định cưới con chứ con có vào Rạch Giá kiếm ảnh đâu. Có vậy mà bà cụ cũng nói chị trả treo. Đúng là “lấy chồng xa xứ bơ vơ một mình” cũng tội thân gái lắm thay.Thật ra tôi có thể chọn chỗ gần Sài Gòn hơn, nhưng là trường quận hẻo lánh, thường ăn pháo kích hoặc trên đường từ Sài Gòn đến trường, có bữa ngồi chao dao ven bờ cỏ đợi lính mở đường vừa bị đắp mô đêm trước, tương lai không có gì sáng sủa nên tôi đành nghe lời Đào huynh.

Số phận đưa đẩy làm sao, sau 75 tôi hằng năm chứng kiến cả mấy trăm giáo viên ra trường, cũng thi tốt nghiệp nghiêm túc, cũng treo bảng kết quả các thứ nhưng treo cho biết chơi chứ không có chuyện tự chọn lựa nhiệm sở, mọi sự đều do phòng tổ chức cán bộ quyết định. Tân giáo viên do vậy năm nào cũng chạy chọt tán loạn. Nhiều lần tôi nghe ông hiệu trưởng nói rằng quan điểm giai cấp không chấp nhận quyền chọn trường theo kết quả học tập, học giỏi cũng tốt nhưng để…tham khảo thôi. Tôi thật tình không hiểu tham khảo là gì và để làm gì và càng không hiểu quan điểm giai cấp trong trường hợp này là gì, coi bộ trừu tượng quá lắm. Có những điều mình thấy đơn giản, dễ hiểu theo lẽ công bằng bình thường nhưng thật ra lại bất công theo chuẩn mực mới, chắc tại mình kém trí năng, kém lý luận (theo lối ngang phè của ông Lénine) nên đâm ra cứ thắc mắc lấn cấn, bận lòng chuyện thiên hạ một cách vô duyên.

Chọn trường trại xong xuôi trong khuôn viên Viện Đại Học Sài Gòn, chiều đó không nhớ vì việc gì, chúng tôi kéo nhau vào trường tán dóc. Cả đám cười ngất đọc trên bảng treo dọc hành lang đông người qua lại, ai đó viết bằng phấn trắng rõ mồn một, chữ to đùng: “Người nào nhận sự vụ lệnh đi vùng mất an ninh nhớ ghé nhà Trần M Đức lấy giấy phép của MTGP”. Trần M Đức làm tỉnh cười mỉm chi nhưng coi bộ lo âu lung lắm, dòm dáo dác quanh sân trường, khều tôi nói nhỏ:

– Ngài bôi lẹ giùm tui đi, cảnh sát chìm lềnh khênh, cha Tài chơi ác chớ không ai vô đây hết.

Đúng ra Lâm H Tài không ác nhưng cà rỡn bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào. Ấy vậy mà khoảng năm 67, 68 chắc do Trần M Đức hay Tô T Thuỷ thuyết phục hay xúi dại, anh bỗng dưng là Chủ tịch Ủy Ban Sinh viên ĐHSP chống đi quân trường hay chống đi quân sự học đường gì đó. Chính mắt tôi thấy Vũ Đ S Biển vịn thang cho anh treo câu khẩu hiệu dài thoòng căng ngang trong sân trường ĐHSP Sài Gòn: “Cực lực phản đối quân sự học đường, từ ngày… sinh viên ĐHSP quyết tâm chỉ đến trường với thường phục”. Tôi khều nhẹ Tài hỏi nhỏ:

– Hăng vậy?

Tài tĩnh bơ:

– Lo cho cái thân trốn lính của tao là chính, đấu tranh cái cóc khô gì. Tao cứ bị tụi nó gọi đi lính hoài nên phải la làng để tự cứu mình thôi. Đi lính lúc này là tiêu.

Đúng là Tàu lai bằng hai Tàu thiệt. Thấy phong trào chống quân sự học đường “lên” quá, Huỳnh Mạnh tưởng bở, đến báo với trường tư chỗ y dạy thêm trong dịp hè cứ xếp thời khóa biểu như bình thường để kiếm tí tiền bỏ túi cho sướng, xong rồi về trường hoan hỉ hỏi lại LH Tài một lần nữa cho chắc ăn:

– Bộ khỏi đi quân sự học đường thiệt hả anh Tài?

Tài tròn xoe mắt:

– Treo khẩu hiệu thì cứ treo, la làng thì cứ la, nhưng  làm quá, chơi thiệt chống lại nó, nó cúp chuyện quân sự học đường  mà bắt đi Thủ Đức luôn thì chết mẹ!

Nghe xong, ngay lập tức, Huỳnh Mạnh bỗng trở nên Huỳnh  Yếu …xìu, hắn ta hoảng lên phóng xe chạy thục mạng về trường tư trả lại thời khóa biểu, từ chối giờ dạy.

Tôi hỏi Tài:

-Tên nào viết khẩu hiệu mà chữ nghĩa bay bướm vậy?

Tài kể:

– Nguyễn Thế Cường đó, tao đến nhà nó dụ nó đi uống cà phê, kè nó vào Đại học xá nhờ nó viết cho mấy chữ. Nó bảo:

– Bố tiên nhân, tao có dây dưa gì tới chuyện tranh đấu của bọn bay đâu mà bắt tao viết khẩu hiệu các thứ, tao được hoãn dịch mà, đâu cần đấu tranh làm cái chó gì. Thằng anh tao (đang làm ở Nha Động viên) nó mà biết chuyện, nó giết tao ngay.

Nói vậy nhưng rồi cũng cặm cụi ngồi viết cho xong để làm vui lòng bạn bè.

Phải công nhận những năm học sư phạm là quãng đời vui đáng nhớ nhất, học bổng ba tháng đủ mua xe Vélosolex (thứ xe gắn máy mà đèn xanh không chịu chạy, đèn đỏ không chịu dừng nhưng là mode lúc đó). Phần lớn đứa nào cũng dạy giờ trường tư, tiền xu rủng rỉnh, chẳng muốn ra trường xa Sài Gòn. Gặp nhau đùa nghịch chòng ghẹo, có khi chọc cả các thầy nữa. Có một lần thầy Lê Xuân Khoa vắng mặt bất ngờ vì công vụ, cả lớp nhao nhao mừng rỡ được nghỉ học, đứng ngoài hành lang trên lầu tán gẫu. Người nào đó rủ đi ăn bún bò chỗ đường Nguyễn Huệ gần toà Đô Chánh (thuở đó cả Sài Gòn chỉ có vài tiệm bún bò Huế chứ không tràn hê bún bò Huế, mì Quảng, đè bẹp hủ tíu Nam Kỳ thấy rõ như ngày nay), chị Quách Thị Trang, thủ quỹ lớp, mở hầu bao kiểm tra xong, ra lệnh:

– Được rồi, đi thì đi.

Ngay lúc đó, Lâm H Tài thoáng thấy thầy Huỳnh Cư, giáo sư dạy ban Sử Địa xách cặp ra về ngang qua sân trường. Anh ta nhớ “thù” xưa, lúc thi tuyển vào ĐHSP, thầy Cư làm giám thị, gần hết giờ mà Lâm H Tài vẫn ra hiệu xin thêm giấy viết lia lịa, ông thầy bực mình quát:

– Anh kia, nhanh lên, thi làm thầy dạy học chớ làm Tổng thống đâu mà viết dữ vậy! Hết giờ rồi, coi lại bài, nộp lẹ đi!

Tài mất hứng, quằm rằm, ghim chuyện này trong bụng. Xong cử nhơn Văn khoa, đã có chứng chỉ hành nghề giáo sư tư thục anh vẫn thi vào ĐHSP để…trốn lính chớ có định làm tổng thống tổng khậu (đầu bếp) gì đâu. Cả khối tên trong lớp cũng trong tình trạng đó: Ng V Hai có bằng Cử nhơn giáo khoa triết, Lê V Bảy có bằng Cử nhơn Việt Hán, Ng Đ Tiến, Ng V Quang, Lê B Nam cũng đậu cử nhơn, đang là giáo chức dạy trường công, tốt nghiệp Quốc gia sư phạm, cũng thi vào đây vì lý do lính tráng. Vẫn không quên mối hận xưa, Lâm H Tài bụm tay hét lớn xuống sân trường:

– Ông già đầu bạc.

Rồi mau lẹ thụp đầu xuống vọt nhanh đến cầu thang. Cả lớp bỗng tán loạn ngồi thụt xuống để lánh mặt, mấy chị chạy nhanh vào trốn trong phòng học, Trí quýnh quáng bò theo Tài trông chẳng ra làm sao. Thầy Cư từ dưới sân nhìn lên hành lang không một bóng người, có vẻ muốn quay vào tìm thủ phạm nhưng một thoáng ngập ngừng rồi quay trở lại nhà xe, mặt có sắc giận. Tình hình êm, cả lớp bu vào lên án Lâm H Tài…vô trách nhiệm, chơi mà để ai chịu thì chịu. Chán nhất là mấy chị không nói gì tới chuyện bún bò nữa. Bọn tôi khác xa tuổi trẻ thời nay ở chỗ hầu như không ai biết nhậu, thậm chí café cũng chỉ vài người, chỉ chuyên trị…soda chanh mà có lần Trần M Đức bảo dở nhất thế giới (ý anh soda ..khó uống hơn nước nấu chín bình thường chắc). Giải trí bằng cinéma, mua máy thu băng nghe nhạc cổ điển, cứ nửa tháng một lần chờ báo VĂN phát hành để đọc thơ Tô Thuỳ Yên, thật sự “đỉnh cao muôn trượng” của thi ca VN hiện đại; đọc “Ung thư” của Thanh Tâm Tuyền, thưởng thức một thứ văn xuôi Việt ngữ tân kỳ, đột phá, độc đáo không cùng. Chúa nhật hay kéo nhau ra vùng quê đi picnic, thích nhất là đi chơi vườn trái cây Lái Thiêu lúc bấy giờ còn xanh mịt ngút ngàn. Con đường nhựa nho nhỏ từ thị trấn Lái Thiêu đi Búng vắng tanh, lọc cọc mấy chiếc xe bò chở củi và nông sản lăn chầm chậm theo nhịp đời thong thả. Hai bên đường trải rộng những vườn cây yên ả, thấp thoáng bên giếng nước những thiếu nữ rửa rau, vo gạo cạnh gốc khế cổ thụ đung đưa quả xanh quả đỏ. Nhan nhản trên bờ đầm nước trong veo, cong cong theo đường nhựa, nở rạng rỡ những chùm hoa trắng lớn cánh  la đà trên mặt nước. Bên kia sông mới thật sự xanh rì vườn cây trái sum sê, nhiều nhất là măng cụt và dâu dây, cây trên trăm tuổi vẫn xanh mướt um tùm, thân gốc đầy những khối u quái dị. Trời chưa tắt nắng vườn đã líu lo tiếng chim chào mào gọi chiều về, chẳng mấy chốc lặng chìm trong âm u tịch mịch, nhàn nhã lạ thường. Tô Thùy Yên hẳn đã viết về xứ này trong mấy câu thơ tình lừng lẫy:

Ve kêu như biển lâng lâng dậy

Xô giạt hồn anh mộng chập chờn

Ngủ chín giấc chiều trên xác lá

Tàn măng âu yếm đắp thân đơn

Cây cỗi càng sưng vết chặt lồi

Chờ nhau cho đáng kiếp chờ thôi

Tuổi già gom lại bao thương tưởng

Như cuối vườn chiều mót củi rơi.

Và đẹp biết bao hình ảnh:

Mùa hè, em bới tóc lên cao,

Môi ửng son và má chớm đào

Ngày nghỉ về vườn thăm họ ngoại,

Lòng như con sáo trong ca dao.

Em mặc bà ba ra bến nước,

Đưa tay khỏa nhẹ nhớ thương nào,

Đến nay, lòng ấy còn xao gợn…

Mùa trái cây nào hái tặng nhau.

     (Mùa hạn- Thơ tuyển)

Không biết vì mê cảnh vật đó từ thời thanh xuân hay sao mà đến lúc về hưu, Lê V Bảy mua cuộc đất bên bờ sông lập vườn trồng hoa lan để bán. May cho anh hoa lan chỉ hút dưỡng chất trong gió và sương, không lệ thuộc gì đất và nước nên mảnh vườn đó vẫn còn tồn tại. Tôi ghé thăm anh, chẳng còn thấy hoa trắng đung đưa bên dòng nước, mùi tanh tanh phảng phất khắp mặt đầm đục lềnh bập bềnh rác rưởi, sầu riêng xác xơ ủ rũ, măng cụt còn lá nhưng không trái, chỉ vài cây mận dễ tính trổ bông trắng loe hoe. Con đường nhỏ năm xưa nay là đại lộ phẳng lì, nơi đua tốc độ của mấy yên hùng xe gắn máy đêm đêm đem tuổi trẻ đầy sinh lực đùa vui với thần chết. Cứ lao vào cơn điên công nghiệp hoá mù quáng, tự huỷ, chẳng cần phải thông minh gì, người nào cũng có thể hình dung được năm mười năm nữa dòng nước đó sẽ “Tanh nồng như máu chết” (TTY) và vườn tược cây trái là huyền thoại của một thuở xa xưa.

        Bọn chúng tôi hồi đó hầu như biết rõ tư tưởng, khuynh hướng chính trị của nhau nhưng mặc kệ hết. Ai ưng làm gì thì cứ làm. Một bữa, Nguyễn T Cường (Bắc kỳ di cư) chở Trần M Đức (là VC, ai cũng biết) trên xe gắn máy, bất ngờ, Cường ngoái cổ hỏi:

– Ê, Đức, mày có phải chính hiệu VC không đó?

Chẳng lẽ người bị hỏi thẳng thừng công nhận, thấy hơi kỳ nên  hỏi lại:

– Mà VC thì sao?

Cường cười:

– Chẳng sao, mai mốt tao sẽ kể với con tao là đã từng chở một tên VC thứ thiệt sau xe.

Họ cư xử với nhau trên tình bạn và bạn bè là trên hết. Ai làm gì thì chịu trách nhiệm lấy hành vi của mình. Phải chăng nền văn hóa nào thì tạo ra con người đó? Điều này liệu đúng chăng khi có người kể chuyện LDH, lúc còn sinh viên, buổi chiều đi lơ ngơ trên đường phố Qui nhơn thì được người bạn học cũ, lúc bấy giờ đang là phó ty cảnh sát, đang lái xe jeep, gọi lại bảo:

– Ê, H, mày đi đâu lơn tơn đó? Tụi nó đang lùng bắt mày dữ lắm, dọt lẹ lên đây tao nói cho nghe.

Anh ta chở LDH đến tận mấy chục cây số phía nam Qui Nhơn  rồi bảo:

– Mày cứ đi chừng cây số đến chỗ chân núi, đồng chí của mày đầy nhóc trong đó, chắc mày dư biết rồi, dọt lẹ đi, lò mò trở lại Qui nhơn là tàn đời mày nghe.

Sau 75 không lâu, LDH lên làm quan lớn, người bạn cảnh sát đi cải tạo mút mùa, có người biết chuyện nhắc lại, ông quan cách mạng bảo:

– Nó là bạn cũ nhưng có tội với nhân dân thì phải trả nợ thôi.

Lâm H Tài còn kể một chuyện liên quan tới Trương V Khuê, nghe xong đố mà không buồn đời. Khoảng 68, 69, phong trào sinh viên bị khủng bố. Bên Văn khoa được thầy Nguyễn Văn Trung bảo bọc, bên Sư phạm thầy Trần Văn Tấn cũng có giúp đỡ nhưng không an toàn bằng. Vin vào luật tự trị đại học, các sinh viên hoạt động chính trị vẫn trốn được trong khuôn viên trường, cảnh sát không được quyền vào bắt bớ. Họ dường như biết rõ ai đang trốn nên chặn các lối ra vào, theo dõi quyết liệt, ra khỏi cổng trường là bị tóm ngay. Trương V Khuê không thể trốn mãi vì càng lâu càng bất tiện và nguy hiểm nên người ta phải tổ chức đưa anh ra bưng. Trần M Đức tới tìm Lâm H Tài lúc anh ta đang ngủ trưa, cậy anh này làm một việc khó. Đức nói:

– Khuê đang hết sức khó khăn, không dám ra khỏi khuôn viên trường.

Tài hỏi tại sao, Đức nói:

– Khuê bị vây nhiều ngày rồi, bây giờ chỉ có anh làm được việc này, vì bấy lâu nay anh chẳng làm gì nên chẳng ai để ý đến anh. Anh giả bộ đến thăm ai đó ngoài vòng rào trường, đi theo ngõ Trần Bình Trọng chạy dọc theo sân banh, thẳng vô con hẻm rồi quay đầu xe lại chờ sẵn, Khuê sẽ leo lên nóc nhà của ông lao công trường ở phía sau nhà gởi xe, anh không bị để ý đâu mà sợ, nên rất dễ thực hiện việc này cứu Khuê. Khi anh vừa quay đầu xe lại, Khuê sẽ từ trên mái nhà thấp sẽ nhảy xuống, anh chở nó thẳng về khu Cây da sà thì có người đến đón.

Không phải người hoạt động hay cảm tình viên gì nhưng nghĩ chút tình bạn với Đức và bạn cùng trường với Khuê, Tài đã hoàn thành “mission impossible” một cách xuất sắc! Không nói quá, anh đã cứu mạng Khuê.

Sau năm 75, lúc Tài vừa ra trại cải tạo, phải làm đơn trình Ban Chỉ huy công an phường: “…nay tôi xin được tạm trú tại…nhà tôi” trong thời gian chờ được bố trí đi kinh tế mới theo chính sách nhân đạo của đảng và nhà nước. Tình cờ, cháu anh làm tài xế cho cơ quan xếp Khuê, đưa Khuê đi công tác bên Campuchia, hỏi có biết Lâm H Tài không thì ông này nhíu mày suy nghĩ một hồi mới hơi gật đầu rồi làm thinh luôn như không muốn đá động gì tới nhân vật mang tên Tài đó nữa.

Đôi lúc nghĩ vơ vẩn không hiểu nổi chúng tôi có phải là “the lost generation” như người ta thường nói về lứa tuổi mình không. Giống như người già cả lãnh đạm trước chuyện đời, bọn chúng tôi cứ vất vơ vất vưởng, kiểu như người ta nói mất phương hướng. Chủ nghĩa Hiện sinh của Jean Paul Sartre nhiều ít cũng ảnh hưởng lên tuổi trẻ có học. Chủ nghĩa Marx được giáo sư Nguyễn Văn Trung và Trần Văn Toàn giảng dạy công khai ở Đại học Văn khoa tác động không nhỏ đến khuynh hướng thiên tả trong đám sinh viên. Nhưng điều dễ nhận thấy nhất dường như ai cũng chỉ lo thân, mặc kệ chuyện đời tới đâu cứ tới và ước gì ta có thể “đứng ngoài những giọt máu rơi”. Nói phần đông sinh viên đều thiên tả thì cũng không đúng. Mỗi lớp chừng một vài người thật sự theo MTGP, một số ít có thiện cảm nhưng kính nhi viễn chi. Đa phần còn lại thì không quan tâm tới chính trị, chỉ mong ra trường đi dạy yên thân; ít ai công khai bày tỏ “lập trường” thân Mỹ bao giờ, nhưng cảm phục và chịu ảnh hưởng văn hóa Mỹ, nhất là mê phim Mỹ thì có. Rạp Lê Lợi cạnh trường Văn Khoa chiếu đi chiếu lại những phim kinh điển, là nơi ăn dầm nằm dề của đám sinh viên Văn khoa, có người xem đi xem lại phim Vacances Romaines, Les Dimanches de la ville d’Avray, Tant qu’il y aura des hommes… hàng chục lần. Phim của David Lean, Arthur Penn, John Boorman được hâm mộ vô kể. Cho tới giờ này tôi nghĩ chưa ai làm phim littéraire qua nổi David Lean và cũng chưa ai làm phim suspense hay hơn Arthur Penn hoặc John Boorman. Xem Toshiro Mifune và Lee Marvine trong phim Duel dans le Pacifique, tôi nhớ tới già tài đạo diễn của Boorman, không hiểu sao người ta ít nhắc tới ông quá. Phim ảnh ngày nay lạm dụng xảo thuật vi tính, càng lúc càng bạo lực và dữ dội nhưng tinh ý chút sẽ thấy ngay vẻ giả tạo.

Comments are closed.