Mạc Can

Nguyễn Hồng Lam

GIANG HỒ TRÀ ĐÁ MẠC CAN

Mấy ông thần bạn đọc ưa tò mò thường hỏi tôi: trên giang hồ, ông nể tay nào nhất? Thật tình, sợ thì không nhưng nể thì nhiều. Giang hồ không có vua, làm gì có ai là nhất. Nhưng đọng lại, cả trên trang viết lẫn ngoài đời thật, dân chơi thứ thiệt mà tôi quý hơn cả chắc chắn sẽ là Mạc Can, một nghệ sĩ lận đận đa tài.

Ông là ảo thuật gia lừng danh, nghệ sĩ hài nổi tiếng, diễn viên đóng nhiều vai phụ nhất được ghi tên trong sách kỷ lục Guinness Việt Nam. Ông thành "nhà văn trẻ" khi bước sang tuổi 60, giành nhiều giải thưởng văn học của Hội Nhà văn Việt Nam (2004), của UBND TP HCM (2003 – 2004) và của Trung tâm Doanh nhân Văn hóa Việt Nam (2005).

Vậy nhưng, thời hoa niên, ông lại là một gã bụi đời thậm khổ, cứ rạc rài theo những đoàn lô tô, hội chợ, gánh hát rong – tạp kỹ lang thang vô định khắp Nam Kỳ lục tỉnh, không biết gia đình lưu lạc ở đâu. Mãi đến năm 17 tuổi, ông mới… tình cờ gặp lại người cha, ảo thuật gia Lê Văn Quý và quay về đoàn tụ với gia đình trong một căn nhà thuê nhỏ xíu trên kênh nước đen ở Sài Gòn.

Đầu những năm 60 của thế kỷ XX, phim chiếu rạp ở miền Nam hoàn toàn nhập ngoại. Cả Sài Gòn, mỗi phim chỉ nhập về đúng một bộ, chiếu luân chuyển giữa các rạp. Khoảng chờ đợi giữa hai lần thay phim là cơ hội kiếm sống của các nghệ sĩ tạp kỹ. Thấp, nhỏ, chân tay khuềnh khoàng, dáng dấp hậu đậu, cái tướng "nhìn quá oải" của Mạc Can hóa ra lại là một lợi thế để vào vai chọc cười thiên hạ.

Ông diễn hề, kết hợp với bàn tay phù thủy của người cha ảo thuật gia Lê Văn Quý, trở thành đôi bạn diễn nổi tiếng mua vui cho khán giả quên khoảng thời gian đợi thay phim. Nghèo vẫn hoàn nghèo nhưng dẫu sao rời sàn diễn, nghệ sĩ nổi danh của tương lai vẫn còn có một gia đình làm nơi chốn đi về.

Lớn chút nữa, đến tuổi bị bắt lính, Mạc Can trốn chui trốn nhủi. Mỗi lần nghe chó sủa hay tiếng xe jeep phanh cái "rét" đầu hẻm, bà Mạc Thị Hào lại ấn đầu anh con trai xuống sàn nước thò ra giữa lòng kênh, chờ cảnh sát đi xa lại lôi lên. Nhưng trốn mãi cũng không thoát. Khoảng giữa năm 1966, Mạc Can bị bắt, tống vào trại Chí Hòa.

Mạc Can bị nhốt vào cùng phòng với Của "Xóm Chùa" (còn gọi là Của "Gia Định"). Xóm Chùa xưa, nay là đường Nguyễn Cửu Vân, quận Bình Thạnh. Thập niên 1960, đó là vùng ven lầy lội của tỉnh Gia Định, chỉ có dân lao động nghèo không nghề, đám lưu manh bị pháp luật săn đuổi không nơi ẩn náu mới dạt về đó sống chui nhủi.

Nguyễn Văn Của là một tay anh chị sô lô (không băng nhóm) không cướp của người nghèo, chỉ cướp hàng quân tiếp vụ. Của thấp, đậm, người chắc nịch, rất giỏi võ, từng biểu diễn phang ống quyển cong cả cột hàng rào lưới B40 bằng thép. Đám cảnh sát mò vào Xóm Chùa truy bắt du đãng, Của không chạy mà quay lại đánh cho cả đám chạy có cờ. Đám du thủ du thực vừa nể, vừa sợ, xem Của như đại ca toàn vùng.

Đầu năm 1966, Của "Gia Định" bị bắt, tống vào trại Chí Hòa với tội danh "gian nhân hiệp đảng". Từng tập tọng viết tin, Mạc Can đương nhiên từng nghe danh Của đại ca. Nhập phòng, tay chân anh nghệ sĩ nghèo đâm bủn rủn, sợ toát mồ hôi hột.

Nhưng Của "Gia Định" lại là một tay anh chị khoái văn nghệ, cũng biết danh Mạc Can nên rất quý. Anh ta thét đám cô hồn dạt ra hai bên để "nghệ sĩ lớn (vô tù thì lớn, ra ngoài thì nhỏ xíu, vì… đói ăn) biểu diễn tài năng". Tối, Mạc Can diễn xong, đại ca còn bắt đám "tù con so" (vô tù lần đầu) và đám "âm binh mất ma" (giang hồ chưa có số má) kê nệm, đấm lưng cho Mạc Can dễ ngủ.

Có bao nhiêu mánh lới, tài nghệ cả ảo thuật, hề, kịch câm, Mạc Can vắt óc mà nhớ, cố diễn cho bằng hết để giữ vị thế. Bù lại, tuy là tù "con so", Mạc Can dù chẳng có "số má" gì trong giang hồ vẫn tránh được màn ăn đòn hội chợ, lại được cơm bưng nước rót tận răng.

Diễn mãi cũng hết vốn, Mạc Can cố tìm chiêu để khỏi bị hành hạ và tiếp tục được hưởng an nhàn. Anh bày trò coi bói, tán ngang: "Trời ơi! Đường sinh đạo của đại ca dài thấy bà cố. Chắc như bắp, một tuần nữa là đại ca sẽ được hưởng an nhàn". Của "Gia Định" khoái lắm.

Bốc phét chẳng gặp thời. Đêm 25-8-1966, bị kích động, Của "Gia Định" đã cùng ba trùm du đãng khác là Đại Cathay (Lê Văn Đại), Lâm "Chín Ngón" (Lê Ngọc Lâm) và Ngọc Heo cầm đầu khoảng 800 tù thường phạm hai dãy ED, FD tấn công, đánh đập khoảng hơn 400 chính trị phạm cùng bị giam chung trong dãy lầu 3D. Trong lúc say máu, đám tù thường phạm đã đập phá và nổi lửa đốt luôn cả trại Chí Hòa.

Mất gần trọn một đêm, Cảnh sát dã chiến mới dập được lửa và ốp được đám thường phạm quá khích về lại các buồng giam. Một tuần sau, Của "Gia Định" cùng những kẻ đầu têu bất trị đã bị kết án và đày ra Phú Quốc. Quẻ bói không linh, gã "thầy bói" Mạc Can bị những tên tù còn lại "bề hội đồng" thừa sống thiếu chết, cho chừa tội "xạo ke giỡn mặt với đại ca".

Nhờ gia đình chạy chọt, ít lâu sau anh được thả. Thả bữa trước, bữa sau bị rình rập bắt lại. Không sống nổi với gia đình, anh bỏ nhà đi lang thang, làm đủ thứ nghề từ bán trà đá, đạp xích lô, ba gác, bán chim phóng sinh.

Có dạo, anh cặp kè với một tay ký giả bụi đời có bút danh rất kêu là Thanh Y Dạ Khách, thuê hai chiếc ghế bố ở Bến xe miền Đông mở hẳn một… hãng tin. Suốt ngày Thanh Y Dạ Khách đi lang thang khắp nơi trong nội thành, sục vào các bót cảnh sát thu thập đủ loại thông tin kiểu “xe cán chó”. Mạc Can gõ máy chữ, biến chúng thành những mẩu tin đúng cũng có mà trật cũng… kệ nó, bán cho các tờ báo lá cải, sống lay lắt.

Bạn diễn gắn bó nhất với Mạc Can là nghệ sĩ Ngọc Phu. Nghề chính là MC nhưng nghề phụ thì diễn viên, rồi vũ sư dạy nhảy, viết báo… thứ gì Ngọc Phu cũng biết. Bá nghệ bá tri, vị chi… bá láp. Ngọc Phu cũng nghèo “tàn canh giá lạnh”, ai kêu gì, nhờ gì cũng làm, đâm ra lắm nghề.

Ban đêm diễn chung, ban ngày Ngọc Phu “trưng dụng” Mạc Can về nhà thuê ở Ngã 7 Lý Thái Tổ làm… vú em. Vợ Ngọc Phu làm cave vũ trường, đi suốt đêm, ngày lăn ra ngủ. Chuyện thay tã, khuấy sữa, đút cháo cho hai đứa con nhỏ của anh ta rồi đi chợ, nấu nướng cho cả nhà, Mạc Can lo tất!

Ngọc Phu thích chơi máy ảnh, thường hay chụp ảnh ca sĩ, nghệ sĩ. Thỉnh thoảng, Mạc Can lại viết tin, viết chân dung nghệ sĩ đính kèm ảnh của Ngọc Phu bán cho mấy tờ điện ảnh kịch trường.

Từ nhỏ đã lang thang, Mạc Can chưa bao giờ được đến trường. Gánh hát đi đến đâu, cậu bé lại tréo chân trước cửa trường làng nơi đó mà học lỏm dăm ba chữ. Qua… vài chục trường thì cũng biết đọc biết viết, dĩ nhiên là còn sai be sai bét.

Ít học nhưng ham đọc. Vớ được cái gì có chữ, Mạc Can đọc cái nấy. Không hiểu cũng đọc. Mạc Can phát hiện ra căn gác trọ kế bên nhà Ngọc Phu có cả một kho sách. Sách báo vung vãi cả lên giường chiếu, sàn nhà, sặc mùi cứt gián.

Khách trọ căn phòng ấy là một lão trung niên ốm như que củi, tóc tai dị hợm, áo quần nhàu nát, bẩn thỉu, hôi thối như tổ đỉa. Một lần, nghe xủng xoảng tiếng mở nắp xoong, Mạc Can tò mò ghé mắt qua khe nứt vách ngăn nhìn sang. Lão dị nhân ung dung gạt lớp mốc xanh mốc đỏ trên bề mặt, bốc từng nắm cơm đã thiu bốc mùi trong xoong cho vào miệng nhai nuốt ngon lành.

Đoán rằng là dị nhân người siêu chữ, cuồng chữ, Mạc Can nể sát đất, bèn lân la làm quen xin được bái sư. Thì ra là trung niên thi sĩ Bùi Giáng. Nhận làm thầy Mạc Can, Bùi Giáng đưa toàn những chuyện chữ nghĩa cao siêu, văn phạm, ngữ pháp rối rắm ra giảng giải khiến học trò cứ há hốc mồm không hiểu gì cả.

Giảng bằng tiếng Việt không ăn thua, ông cắt nghĩa bằng tiếng Anh, tiếng Pháp. Học trò sợ quá, chạy mất. Thầy cũng sợ học trò quá, trốn luôn. Họ không bao giờ có dịp gặp lại nhau. Nhưng với Mạc Can, nửa chữ cũng thầy, ông vẫn coi trung niên thi sĩ Bùi Giáng là người thầy đầu tiên, người thầy duy nhất của đời mình.

Sau giải phóng, kiếm sống bằng nghề bán trà đá ngoài Bến xe miền Đông, Mạc Can nảy sáng kiến bán thêm cốm, người ta ăn vào mau… khát, bán cho được nhiều. Không ăn thua, một tay “dân chơi cầu Ba Cẳng” sáng say chiều xỉn cho mượn xích lô đạp ngày một buổi. Quá nhỏ bé và yếu ớt, đạp không nổi, xe lật, hất một bà khách nặng tròm trèm 1 tạ xuống đường, bị chửi một trận. Mướn ba gác máy chở gạo, lại làm lật xe, rớt gạo, bị chủ đuổi.

Buồn quá, nản quá, thấy đời mình khổ quá, đâm cay cú và hận đời, ông bèn… tự tử. Nhằm đại một cái đuôi xe tải cắm đầu cắm cổ đạp cái xe đạp không chuông không phanh lao thẳng vào. Rầm một cái, xe gãy đôi, người văng xuống đường nhưng… không bị gì cả. “Tui không làm được gì nên hồn. Tự tử cũng thiếu… kinh nghiệm, làm sao mà chết”. Một nghệ sĩ lớn tuổi bảo: “Thật ra ông chết rồi. Bây giờ ông sống là sống cuộc đời khác!”.

Ừ thì khác, ông lấy vợ, sinh con rồi đi đóng phim, diễn ảo thuật, cả viết lách nữa. Làm tất, chẳng vì đam mê nghệ thuật, mà để kiếm tiền nuôi con nuôi vợ. Nhân tiện, lập một đống kỷ lục các kiểu.

cách đây chừng chục năm, dối già, ông “thưa” với vợ con rằng bây giờ con cái đã đủ nghề nghiệp, có gia đình, trách nhiệm của Mạc Can tui đã hoàn thành, xin phép vợ con cho tui được "ra riêng" để… rong chơi cho đã. Đời tui nhọc nhằn quá, thời trai trẻ nó qua hồi nào không kịp hay, giờ “già lắm rồi”, muốn làm… trai trẻ một chút!

Gia tài “ra riêng” của ông chỉ có một chiếc xe Mate (loại xe bưu tá của Nhật, có chiếc ba-ga to xù). Hôm đi đóng phim ở Củ Chi, có một fan hâm mộ cứ đi theo, nhìn chiếc xe cà tàng của ông mà ao ước. Anh này nghèo, làm nghề bỏ mối bánh tráng từ Củ Chi xuống các chợ quận 5, đi xe buýt hoài thấy không cơ động nên ngó chiếc Mate cà tàng mà thèm.

Hiểu ý, Mạc Can mời anh ta ngồi sau xe mình về Đài Truyền hình chơi. Đến nơi, ông đổ đầy xăng vào xe, đưa chìa khóa và giấy tờ xe ra tặng, gỡ luôn cả nón bảo hiểm “khuyến mãi”. Anh chàng này chạy luôn một hơi, về đến Củ Chi mới điện thoại xuống cảm ơn, lúc đó mới dám tin là Mạc Can cho mình xe thiệt!

Kể lại chuyện này, mắt Mạc Can lại rơm rớm. “Đơn giản, anh chàng đó cần chiếc xe hơn tôi. Khi nhận xe, nhìn vào mắt anh ta, tôi biết bóng của mình trong đó đang trượt từ “thằng khùng” sang “ông bụt”. Chẳng lẽ không còn nơi để tin người ta vào lòng tốt nữa hay sao?”.

Câu hỏi của người nghệ sĩ già khiến tôi cay mắt. Đúng là Mạc Can đang sống ở kiếp sống thứ hai, kiếp sống của sự chia sẻ.
Trong giang hồ, tôi nể ông, quý ông là vì thế.

Còn ai muốn hỏi gì nữa không?

 

Hình ảnh có thể có: 1 người, đang ngồi

Mạc Can hồi làm ký giả tự do

MẠC CAN VỚI NGHỆ THUẬT GIANG HỒ

Có gặp, chuyện trò, bạn đừng nói chi với ông về danh xưng, danh hiệu. Mạc Can là giang hồ khổ đa tài, rất tếu. Có người cắc cớ hỏi: "Ngó ông khổ sở, nhàu nát, mà sao diễn cười tài thế? Cứ thấy ông là thấy tiếng cười". Mạc Can trả lời: "Ừ, cười cho khỏi rơi nước mắt ".

Ngược thời gian, trở lại đầu những năm 1990s về trước, miền Tây Nam Bộ vẫn là miền đất của nỗi buồn hiu hắt. Mọi sinh hoạt của xứ kinh rạch với những vàm sông, cù lao ngoi ngóp đều dồn hết vô cái chợ nhà lồng. Mua bán sắm sanh cũng chợ nhà lồng. Trai gái hẹn hò tình tự, không biết đi đâu rồi cũng vô trong chợ. Gã trai đãi cô gái nó thương tô bún mắm, ly chè nước dừa, rồi tiện tay ôm một cái…Phần sau thì xuống ghe, ra đồng, sau đó là đẻ một bầy con…

Thỉnh thoảng, một đoàn “hát xiệc” hay gánh cải lương nghèo oặt xà lai nào đó ghé qua, cũng lại chọn chợ nhà lồng làm nơi kiếm sống. Sang thì mượn bộ ván, không thì kê sạp chợ thành sàn diễn mà bôi mặt làm trò mua vui, mà cười mà khóc.

* Thương những đời như lục bình trôi

Khoảng hơn 70 năm trước, gánh “hát xiệc” của ảo thuật gia Lê Văn Quý, dù cực nghèo vẫn nổi tiếng khắp miền Tây. Đó là một gánh tạp kỹ nhỏ với đủ trò câu khách, từ nhào lộn, đu dây, ảo thuật, làm hề, phóng dao cho đến bán dạo thuốc đau răng và… coi bói bài Tây 52 lá.

Ông Quý quê gốc Bạc Liêu, lưu tán lâu năm không về làng, đường về quê cũ cũng chưa chắc nhớ. Bà Mạc Thị Hào, vợ ông là một cô gái người Hoa lai Miến Điện, chọn miền Tây gạo trắng nước trong và hiếu khách làm chốn trú nhờ, cố hương chỉ là một ý niệm mơ hồ như khói sóng.

Gánh “hát xiệc” của họ chỉ có chừng mươi người, đến các chợ nhà lồng trên một chiếc ghe mui cũ nát. Giang hồ đến từ đâu không ai biết, diễn xong đi về đâu không ai hay. Mượn chợ nhà lồng làm trò kiếm sống, họ lưu lại ở mỗi nơi chỉ chừng một tuần, mươi bữa, vừa đủ cho người dân thị tứ nơi họ đáo qua một nỗi nhớ bâng quơ là lại nhổ sào.

Ngày 15/4/1945, trên chuyến ghe lênh đênh vô định ấy, nghệ sĩ, nhà văn, chú hề Mạc Can nổi tiếng sau này đã cất tiếng khóc chào đời, tên đầy đủ là Lê Trung Cang. Nơi ông sinh là một đoạn nào đó trên sông Bảo Định, tỉnh Tiền Giang.

Thật ra, chỉ có năm sinh là đúng, còn ngày tháng thì tình thật, phải… 60 năm sau ông mới tự thêm vô, coi như cho đủ “nút”. Số là suốt đời làm nghệ sĩ bán tiếng cười cho thiên hạ, cái nghèo cứ như thể “của hồi môn” từ đời cha mẹ truyền mãi đến đời ông, thậm chí đến đời con ông vẫn chưa khá được. Nghèo và lang bạt, chẳng khi nào ông thấy mình cần phải có giấy tờ gì cả.

Năm 2004, khi đã tròm trèm tuổi 60, Mạc Can mới chợt “ngộ” ra rằng, con người cũng như cái xe, đã ngay thẳng thì phải có “biển số” đàng hoàng. Ông bảo ngày nghĩ ra phải có giấy khai sinh là 15/4 nên chắc chắn ông nên…sinh vào ngày đó. Ra Ủy ban phường 5, quận 6, TP Chí Minh, ông lễ phép thưa rằng Mạc Can tui muốn chứng tỏ mình là người tử tế, xin quý Ủy ban cấp cho một tờ giấy khai sinh. Người của Ủy ban cũng lễ phép thưa lại với ông rằng, không ai trong số tụi con dám nghi ngờ chuyện chú là người tử tế, nhưng chiếu theo luật thì chú sinh nơi nào, đành phải về nơi đó xin cấp khai sinh.

Vậy là lóc ca lóc cóc, ông một mình một xe máy “phi” thẳng xuống Sở Tư pháp Tiền Giang. Nghe đề nghị của ông, cán bộ, nhân viên của Phòng hộ tịch xứ này đều cười ồ. “Đúng là bác Ba Phi (nhân vật ông thủ vai), nói dóc thấu trời. Nói thật thử coi, khai sinh cho con hay cho cháu?”. “Cho tui!”. Bộ mặt rúm ró, thật thà và câu chuyện của Mạc Can khiến vài ba người len lén quay đi nơi khác, chùi nước mắt.

Chẳng có chút giấy tờ hay người nào đứng ra làm chứng, Sở Tư pháp Tiền Giang không thể đáp ứng yêu cầu của ông già 60 tuổi ấy được. Nhưng câu chuyện thấm đẫm nỗi buồn thân phận của Mạc Can thì vẫn khiến người nghe phải ngậm ngùi. Hết giờ làm, ông Trưởng phòng Hộ tịch của Sở, dù đã chạy xe về đến nhà vẫn chịu không nổi, đành quay trở lại chỗ Mạc Can đang ngồi tiu nghỉu. Ông này hỏi Mạc Can: “Ông chỉ nhớ mỗi nơi sinh là… trên ghe, sao không ghé Đức Hòa hay Bến Lức (thuộc tỉnh Long An) gì đó cho gần mà xin, chạy tuốt xuống Tiền Giang chi cho cực. Đã sinh trên sông thì sông nào mà chẳng được?”.

Mạc Can giãy nảy: “Bậy! Hổng có được. Chỗ nào thì không biết, nhưng má tui nói sinh ở Tiền Giang thì tui phải xuống Tiền Giang. Má tui nói thì phải đúng chớ?”.

Khi nói câu đó, khuôn mặt Mạc Can trở nên nhàu nhĩ và tội nghiệp. Không đành làm ông thất vọng, ông cán bộ nảy ra sáng kiến, cấp cho ông một tờ giấy có đóng mộc, chứng nhận ở Sở Tư pháp Tiền Giang… không hề có hồ sơ gì về đương sự Lê Trung Cang. Nhờ “bửu bối” này, Mạc Can đã được UBND phường 6, quận 5 cấp giấy khai sinh như đề nghị. Mạc Can mừng như con nít được lãnh thưởng. Kể với ai chuyện này ông cũng hỏi: “Ê, chuyện của tui vui không ông?”.

* Bôi mặt bán tiếng cười buồn

Lên 8 tuổi, Mạc Can bắt đầu được cha truyền nghề. Nhà ông có 6 anh em nhưng chỉ có ba anh chị em lớn trong nhà là anh Lê Hảo Tâm, ông (Lê Trung Cang) và cô em gái Lê Ngọc Phụng theo cha mẹ đi diễn. Nghệ danh Mạc Can ra đời từ thuở đó, ghép từ họ mẹ – con người mà ký ức của ông luôn đau đáu một lòng yêu kính – với cái tên Cang cúng cơm đã được “gọt bớt chữ cho đỡ lằng nhằng”, nghe có vẻ nửa ta nửa Tàu “cho nó ra vẻ có tuồng có tích”.

Trong ba anh em, Mạc Can là người diễn… tệ nhất. Đói ăn triền miên, đến mức khi nào cũng cảm giác như “hai vách bao tử dính liền nhau”, Mạc Can lớn lên với một hình hài èo uột, nhỏ thó, khuôn mặt lúc nào cũng khổ sở, chẳng hy vọng gì sắm nổi những vai kịch câm hào hoa mã thượng hay sang trọng. Đôi chân ngắn ngủn, lại sinh ra và lớn lên trên ghe nên tướng đi lúc nào cũng khuỳnh khoàng, diễn trò phóng dao không xong mà đu dây, đi dây thép hay tâng bóng, lắc vòng cũng đều không được.

Chưa hết, ông còn tự trào mình là người “đại hậu đậu, đụng đâu bể đó” nên làm ảo thuật hay diễn kịch câm, những trò cần nhanh tay, lẹ mắt, dẻo người, ông cũng chẳng hạp trò nào. Bù lại, ông sáng dạ. Vậy là ảo thuật gia Lê Văn Quý bèn nghĩ ra cách bày cho Mạc Can vừa đóng hề vừa diễn những màn ảo thuật “bể mánh”.

Những trò này, chú bé Mạc Can diễn mà không diễn. Chỉ cần bôi mặt vẽ mày, bước lên sân khấu với bộ dạng lóng nga lóng ngóng, bảo gì làm cũng hỏng, chú đã khiến khán giả các chợ quê phải cười bò.

Ông Quý diễn ảo thuật, Mạc Can được giao trách nhiệm giấu đi những thứ cần phải không cho khán giả thấy. Khán giả đang há hốc nhìn cái chai bay lượn trên không trung theo sự “phù phép” của nhà ảo thuật thì đột nhiên hề Mạc Can nấp trong bóng tối lại vụng về thò cái que có buộc sợi chỉ treo cái chai ra. Ảo thuật gia sợ lộ tẩy, lừ mắt. Chú hề càng luống cuống, vội giật mạnh tay khiến cái chai rơi xuống vỡ tan, trong khi cả rạp cười bể bụng khoái trá bởi phép thuật của ảo thuật gia đã bị ông con lật tẩy.

Bây giờ, khi cuộc đời đã sắp qua hết sườn dốc phía bên kia, nghĩ lại những ngày thơ bé lang thang theo nghề diễn, "hát xiệc" rong, Mạc Can vẫn rùng mình sởn gai ốc. Gánh tạp kỹ của ảo thuật gia Lê Văn Quý không bán vé, chỉ có bà Hào mẹ ông đứng gác cổng thu tiền của khách vô xem. Người ta đưa 5 xu thì nhận 5 xu, không có thì 2 xu cũng gật.

Nghệ sĩ nghèo, khán giả chợ quê không khá gì hơn, cũng nghèo rớt mồng tơi. Nơi đoàn dựng rạp, khán giả kéo đến rất đông, nhưng phần lớn chỉ chen lấn xô đẩy nhau vào “coi cọp”, hoặc chờ đến phút sắp vãn tuồng, nhà trò nản quá đành thả cửa họ mới ùa vào chứ có mấy ai chịu móc hầu bao. Có đâu mà móc?

Tiền vào cửa chỉ đủ cho những người nghệ sĩ rau cháo cầm hơi, diễn bữa nào ăn bữa đó. Nước mắm "rô ti" là món thường trực. Họa hoằn và sang trọng lắm Mạc Can mới được ăn một bữa cơm trắng với món trứ danh là thịt kho hột vịt. Miếng thịt được mẹ ông mua từ chiều, tối đến được đưa vào làm “đạo cụ” diễn trò ảo thuật “thầy Ba vô chợ ăn cắp thịt”, tối khuya diễn xong mới bỏ nồi kho.

Những hôm mưa to gió lớn, mà mùa tháng 10, miền Tây đêm nào chẳng mưa, khán giả không tới rạp, những nghệ sĩ lang thang đành bó gối thu lu trong nhà lồng chợ với cái bụng rỗng óc ách, đếm tiếng ếch nhái nỉ non mà cám cảnh phận người.
Có khi mưa to kéo dài cả tuần lễ, phông màn rách nát, hồ chàm trên các biển hiệu bị rửa trôi, tài ảo thuật của ông Lê Văn Quý cũng không hô biến ra nổi nửa lon gạo, đành thúc vợ đem nốt cả áo quần, đạo cụ của đoàn đi gạ bán, mua gạo nấu cháo loãng cầm hơi. Có người chịu bỏ chút tiền còm ra mua cho coi như là may lắm, dù ngày mai ra sao có trời mới biết!

* Tuổi thơ bị đóng đinh

Ám ảnh về cơn đói chưa kinh hoàng bằng ám ảnh về thân phận bọt bèo của đời nghệ sĩ giang hồ. Kinh khủng nhất là màn phóng dao. Một tấm ván dày nặng được dựng đứng lên cho cô em gái Lê Ngọc Phụng đứng dựa vào, trong khi anh trai Lê Hảo Tâm vun vút phóng những lưỡi dao bén ngọt và nhọn hoắt cắm phầm phập xung quanh. Chỉ cần sơ sẩy một ly thôi, những lưỡi dao tàn nhẫn kia sẽ có thể cắm phập vào cổ họng, vào mặt, vào ngực cô em gái nhỏ. Nỗi sợ hãi hóa thành bấn loạn, cô bé cứ đứng yên như hóa đá, câm lặng, kinh khiếp mà không dám khóc, cũng không khóc nổi, mắt mũi nhắm nghiền.

Đêm nào cũng thế, đứng đằng sau đỡ tấm ván, nghe rõ cả tiếng trái tim người em gái thoi thóp đập run rẩy trong lồng ngực vì khiếp hãi, Mạc Can lại run bần bật, lòng quặn lên một nỗi kinh hoàng không tan và cố nhắm nghiền mắt để xua đi ám ảnh về một cú “lỡ tay” không biết sẽ xảy đến lúc nào.

Đêm nối đêm, cậu bé cứ nhắm mắt, rùng mình cố đếm cho hết những lưỡi dao phầm phập cắm liên hồi vào tuổi thơ mình. Khi được đỡ ra, cô em gái đã gần như chết giấc, tay chân bủn rủn như cọng bún, ý niệm về xung quanh mất hết. Vì sợ. Còn Mạc Can, trong vai thằng hề lại run run, lóng ngóng gỡ từng lưỡi dao, vừa gỡ vừa kinh hoàng tìm cách né tránh, mua tiếng cười khán giả.

Hàng trăm hàng ngàn lượt phóng, những vết dao hằn sâu cả vào thớ gỗ lẫn vào tâm hồn cậu bé mẫn cảm. Đã đành là cuộc mưu sinh, nhưng trò mua vui tàn bạo mà tuổi thơ phải chứng kiến đã khắc hằn dấu vết lên tâm hồn và trái tim của cậu. Nhưng nếu thay người thật bằng hình nhân, khán giả sẽ không đến rạp. Lại đói. Và trò phóng dao cứ thản nhiên được lặp đi lặp lại.

Quả thật, tai nạn đã từng xảy ra. Trước cô em gái nhỏ Lê Ngọc Phụng, người đóng vai hình nhân trên tấm ván là nghệ sĩ Tô Kiều Lan. Một lần, lưỡi dao từ tay anh trai Mạc Can đã cắm phập vào vai chị. Không chết nhưng quá kinh hoàng, chị đã bỏ nghề, theo một đoàn cải lương để vài mươi năm sau nổi danh là một đào mùi khiến bao nhiêu trái tim thổn thức. Khi không còn ai chịu đứng vào trước tấm ván tử thần ấy nữa, em gái anh đành bị biến thành kẻ tuẫn nạn tế thần.

Cả cha, cả anh của Mạc Can đều không ai trăn trở gì về một sự cố. Khán giả vẫn vỗ tay reo hò tán thưởng, mặc kệ tai nạn có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Cậu bé sớm nhận ra rằng, khi tìm kiếm niềm vui, lòng người có khả năng hóa thành sỏi đá, vô tâm và vô cảm. Đôi khi, nỗi thống khổ, thậm chí nguy hiểm tính mạng của người này lại là niềm vui, trò hồi hộp đáng chờ đợi của kẻ khác, của đám đông.

Bởi, hình nhân đâu phải con người? Hình nhân không gặp nguy hiểm. Hình nhân không biết đau. Hình nhân không run rẩy sợ hãi. Hình nhân không biết khóc. Hình nhân không co thắt buồng tim. Và nếu vô tình lỡ tay, hình nhân không máu chảy, khán giả không hồi hộp. Khoái cảm của đám đông là nỗi khiếp hãi đời người và phần số mong manh của người nghệ sĩ. Hình nhân không hấp dẫn khán giả nên họ không chờ đợi. Cũng đành đem người thật mà giả hình nhân, nếu không khán giả sẽ không đến rạp. Không chỉ màn phóng dao, những màn nhào lộn, đu dây, đi thăng bằng… trò nào càng nguy hiểm cho người nghệ sĩ, trò đó càng thu hút khán giả. Trên sân khấu cuộc đời, phận người là thứ rẻ rúng, bọt bèo nhất.

Cuối thập niên 50, chiến tranh ngày càng khốc liệt. Giặc giã, trộm cướp khiến đường sông không còn an toàn đối với những người nghệ sĩ lang thang. Ảo thuật gia Lê Văn Quý đưa đoàn "hát xiệc" rệu rã lên bờ, thuê xe hơi di chuyển. Không chịu đựng được nỗi ám ảnh về những trò nguy hiểm luôn rập rình tước đoạt phận người, Mạc Can bỏ gánh hát gia đình, lang thang phiêu bạt theo nhiều đoàn cải lương lô tô, hội chợ và tạp kỹ khác, làm đủ thứ nghề.

Các hội chợ quê thời đó là nơi diễn ra đủ mọi trò “lếu láo”, gồm cả trưng bày, quảng cáo, bán sản phẩm cho đến mua vui bằng đấu quyền Anh, tổ chức cờ bạc, hô lô tô, làm xiếc. Còn quá nhỏ, cũng chẳng biết làm trò gì trọn vẹn, Mạc Can chỉ chuyên môn được đóng vai phụ, làm hề “kéo toong” níu khách ở… bên ngoài rạp.

Giữa một màn mua vé xem xiếc và một màn quyền Anh, anh hề cứ việc diễn đủ trò nhố nhăng, miễn sao khán giả chú ý, không bỏ đi mất là được. Làm nghề này phải đứng từ đầu đến phút tàn canh mãn cuộc nhưng lương rất thấp. Diễn dở, khán giả la ó hay bỏ đi cũng bị mắng, bị đánh. Nhưng diễn hay quá, khán giả tò mò khoái chí bám theo mãi, không chịu bỏ tiền mua vé xem trò khác thì cũng… liệu hồn.

Quá nửa khuya, khi ngồi gà gật với mái tóc rối bù vì không kịp tẩy trang (toàn son phấn rẻ tiền) và bóp đôi chân tụ máu sưng vù vì đứng, vì nhảy nhót quá nhiều, anh hề Mạc Can lại thấy lòng mình rưng rưng tiếng khóc.

Nhiều năm liền, cậu bé Mạc Can cứ lang thang vô định theo những đoàn hát không một lần ghé về thăm nhà. Mà có muốn, cậu bé cũng không biết nhà mình ở đâu để mà về. Nhà có thể nằm trong điện thoại di động, mà ngày xưa xưa lắc thì làm gì có thứ này.

* Tháng năm lang bạt

Ông Lê Văn Quý, cha của Mạc Can, tài ảo thuật nổi tiếng bao nhiêu thì sự cẩu thả, bạt mạng cũng nổi tiếng bấy nhiêu. Chưa bao giờ ông có khái niệm sống là cần có dự trữ hay tích cóp. Một vợ, 6 con nhưng ông không quan tâm thạp gạo cho gia đình còn được mấy lon. Dành dụm được tiền mua cái nhà nào thì chỉ ít lâu sau, ông lại bán để lấy tiền lập gánh hát. Cả gia đình cứ rài rạc theo chân ông lang bạt kỳ hồ hoặc ăn nhờ ở đậu, tương lai mịt mờ như mưa gió.

Năm 1962, 17 tuổi, Mạc Can… tình cờ gặp lại cha và một nửa gia đình đang ở đậu gần nhà thờ Chợ Quán. Ảo thuật gia Lê Văn Quý bèn thuyết phục ông con hồi gia, theo mình để truyền nghề và phụ diễn.

Trên đường Bùi Viện, quận Nhất có một tiệm cơm xã hội, lúc nào cũng đông đúc thợ thuyền, giáo chức nghèo lui tới. Ăn theo quán cơm, một phòng trà mang tên Anh Vũ mọc lên ngay bên cạnh cũng thu hút khá đông khách bình dân. Nó thành hình mẫu cho hàng loạt phòng trà khác ra đời, tạo đất sống cho những nghệ sĩ, giúp họ bớt phải lang thang.

Cùng với những tên tuổi như Lê Văn Quý, Trần Văn Trạch, Hợp ca Thăng Long, cái tên Mạc Can – anh hề cũng bắt đầu có chút tiếng tăm trong các chốn vui chơi giải trí của Sài Gòn hoa lệ. Có danh, có phận nhưng Mạc Can là người “không hề biết đến giá trị của bản thân”, không biết ra giá sô diễn với các ông chủ nên nghèo vẫn hoàn nghèo. Nản chí, ông bỏ đi lang thang, làm đủ thứ nghề, từ bán trà đá dạo đến ký giả quần đùi chuyên săn tin đua xe cán chó. Nghề nào cũng vậy thôi, Mạc Can nghèo bền vững.

Sau lần tự tử mà không chết, Mạc Can được nhạc sĩ Bảo Thu, tức thần đồng ảo thuật Nguyễn Khuyến phát hiện ra, giới thiệu vô rạp Lệ Thanh diễn hài. Lóc cóc, ông quay lại với sàn diễn, với nghệ thuật, nay theo đoàn Cải lương Hương miền Nam, mai sang đoàn Xiếc Tuổi trẻ, đi đâu cũng thủ có mỗi vai thằng hề.

Rồi hề cũng có gia đình riêng. Lẫn trong đám đông khán giả ái mộ, anh hề nghèo phát hiện ra một cô gái rất đẹp. Ông bảo: “Cô ấy có một đôi mắt biết nói, ngay từ cái nhìn đầu tiên, tui đã bị tiếng sét ái tình đập cho suýt ngất”. Vậy là lân la làm quen, rồi yêu, rồi thành chồng vợ. Khi đã có với nhau một bầy con, ông mới nghiệm ra rằng “thì ra mắt bả hổng biết nói tiếng nào, chỉ có cái miệng mới nói, nói quá trời!”. Dẫu sao, gia đình vợ con đầy đủ cũng khiến cuộc sống của ông ý nghĩa hơn, càng khẳng định thêm một tương lai nghèo chắc chắn và thường trực.

Năm 1982, Mạc Can mới tham gia đóng phim. Trong “Ván bài lật ngửa”, phim đầu tiên của cuộc đời, Mạc Can được đóng vai… cái bàn. Thật ra, đó là vai một giao liên làm ảo thuật ở Đại Thế Giới để bắt liên lạc với Nguyễn Thành Luân (Chánh Tín đóng). Nhân vật bị chém cổ, cái đầu nằm trên đĩa, để trên mặt bàn nhưng vẫn… ca cải lương. Trò ảo thuật này Mạc Can quá rành. Vậy là bén duyên điện ảnh.

Vai thứ hai là trong phim “Ông Hai Cũ”. Cũng vai phụ không có tên, là một tên lưu manh theo đóm ăn tàn, Mạc Can chỉ xuất hiện có vài phút, tay chân bị trói, chưa kịp nói câu nào đã bị… xử bắn.

Hơn một phần ba thế kỷ gắn bó với màn bạc, đóng trên 200 phim, Mạc Can đều vào toàn vai phụ, những vai nghèo hèn, khổ sở, không ở đợ làm thuê thì cũng nghễnh ngãng, lãng tai, đạp xích lô hay phụ hồ, bán thuốc dạo gì đó. Ngoài đời đã khổ, vô phim cũng chẳng được chọn sung sướng bao giờ. Cái số ông nó thế!

Có hai lần ông được đóng vai tử tế. Một lần là vai Trưởng thôn trong “Xóm Suối Sâu”, lần kia là vai Tư Đèo trong “Cải ơi”. Khi phim công chiếu, ông mới nhận ra và giật bắn người: “Trời đất, tui đóng vai chính hả. Sao hồi quay hổng nói?”.

* Vật lộn với trang viết

Từ trước 1975, Mạc Can đã viết truyện ngắn gửi đăng báo. Trăm lần như một, lần nào cũng được cảm ơn trên mục… nhắn tin. Lấy cảm hứng từ “thất bại trường kỳ” này, ông viết chuyện “Người nói tiếng bồ câu” gửi báo Tuổi Trẻ.

Đánh vật mãi với mớ câu cú lộn xộn, ngữ pháp sai bét nhè và không thèm xuống hàng lần nào của Mạc Can, cuối cùng nhà văn Nguyễn Đông Thức cũng nhìn ra được một cấu tứ truyện ngắn đẫm chất ưu thời mẫn thế để giới thiệu trên Tuổi trẻ Chủ nhật.

Bất ngờ, “Người nói tiếng bồ câu” được đưa vào “Tuyển tập truyện ngắn hay 2004” của Hội Nhà văn Việt Nam. Ít chữ, bù lại ông có một vốn sống và trí tưởng tượng rất phong phú. Thiếu tưởng tượng, đời ông lấy chi chống chọi với kiếp nghèo? Tờ 100 ngàn đồng nhuận bút của truyện được in, Mạc Can cẩn thận ép plastic cất vào giữa cuốn sách biếu, không tiêu.

Có dịp ra Hà Nội, ông gọi xe ôm đến trước cổng Hội Nhà văn định bụng cảm ơn người ta một tiếng vì đã đưa truyện của mình vô sách, nhưng ngần ngại nên cứ lượn qua lượn lại mãi không dám vào. Phát hiện ra "Bác Ba Phi", nhà văn Lê Minh Khuê đã khẩn khoản mời ông vào uống trà. Vui chuyện, ông khoe mình còn nửa… cuốn tiểu thuyết mang theo. Nhà văn “xin đọc thử”, ông vội vàng gửi bản thảo lại rồi lẻn trốn mất, sợ ở lại “bà ấy đọc rồi cười cho”.

Một tuần sau, ông run bắn cả người khi nghe chị Lê Minh Khuê điện vào giục ông viết nốt đoạn kết để cho kịp in. Hai tuần sau nữa, bất ngờ nhà văn Hồ Anh Thái điện thoại cho ông, thông báo sẽ đề cử “Tấm ván phóng dao” vào dự giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Nghe điện thoại, "hai hột" nước mắt của ông rớt "đánh độp" xuống mặt đường. Run gần chết, rút kinh nghiệm lần tự tử bất thành, ông dắt xe vô lề đường đứng khóc cho nó… an toàn và thoải mái!

Ngoài tuổi 60, Mạc Can lần đầu tiên mới có được tấm giấy khai sinh. Cũng ở tuổi 60, ông già Mạc Can mới trở thành “Nhà văn trẻ”. Hàng loạt đứa con tinh thần của ông sòn sòn nối nhau chào đời, được in và được mua bản quyền, gồm “Người nói tiếng bồ câu”, “Tấm ván phóng dao”, “Tờ 100 đôla âm phủ”, “Phóng viên mồ côi”, “Món nợ kịch trường”, “Bầy mèo vô sinh”, v.v. Tên ông được ghi vào sách Guinness Việt Nam như người làm được nhiều nghề nhất.

Giờ thì ông là một ông già nghèo hào sảng, ưa theo hai ông nhà văn Nguyễn Đông Thức, Đoàn Thạch Biền, cũng già nhưng chưa quá già, đi làm chương trình “Mô tô học bổng” giúp trẻ em nghèo. Ông thích đi và đi liên tục. Nhưng đã 75 tuổi, hơi già rồi, ông không không tự cầm lái đời mình nữa. Vui ở chỗ, dẫu sao cũng có nhiều người vẫn sẵn sàng đồng hành, chở nốt đời ông tiếp tục rong chơi, đi khắp nơi gieo những tiếng cười trong cuộc đời gieo neo khốn khó…

Hình ảnh có thể có: 1 người, đang ngồi

Hình ảnh có thể có: 1 người

Comments are closed.