NGUYÊN KHÍ

Tiểu thuyết

Hoàng Minh Tường

6. ĐÔ GIÁM LƯƠNG ĐĂNG

Hoa càng khoe tốt, tốt càng rữa

Nước chứa cho đầy, đầy ắt vơi.

( Tự thán 15 – Quốc âm thi tập – Nguyễn Trãi)

Giáo sư Hoàng Nguyên thật tinh đời. Đỗ Chí Cao và Ngô Tháp cũng không chọn lầm người. Quyển Ngũ, phần chữ Nôm cổ giao cho Bùi La Việt phiên âm và bình chú là quá chí lý.

Khi ông Cao và ông Thấp đến gặp, lại có thư tay của Giáo sư Hoàng Nguyên, chủ trang Website “Thọt bỉ nhân” nhận lời ngay.

– Ai bảo thì tôi còn cân nhắc, chứ thầy Hoàng Nguyên bảo là tôi không thể chối từ – Bùi La Việt nói – Nhưng hai anh phải thư thư cho tôi một thời gian. Tôi đang có một đề tài của Viện phải làm gấp. Tuần này lại có một công ty địa ốc mời đi lễ động thổ.

Cao đưa mắt cho Thấp. Hiểu ý,Thấp vội lấy phong bì trong cặp ra.

Bùi La Việt gạt tay, giọng lạnh như băng:

– Các anh cất phong bì đi. Đây là việc tâm linh. Ngay từ ngày mồng một đầu tháng tôi đã biết hôm nay hai anh đến. Việc này không nên tính bằng tiền. Việt đã nhận lời là sẽ làm hết mình.

Hai ông văn hóa biết là gặp kẻ thức giả, khiêm nhường mà trọng nhân nghĩa, chỉ rối rít xiết tay cám ơn rồi về nhà chờ đợi.

Lâu lắm, Tiến sĩ Bùi La Việt mới gặp một bản Nôm cổ giàu chất văn chương và thế sự. Thường là người ta hay nhờ anh dịch văn bia, sắc phong, gia phả, thần phả, thơ Nôm. Các trước tác văn học thuộc Viện Hán Nôm quản lý thì anh đâu đến lượt. Huống chi đây lại là câu chuyện về hiền tài, nguyên khí mọi thời. Bùi La Việt mua hương hoa, rồi thành kính đặt bộ sách lên ban thờ, khẩn cầu hương hồn Ức Trai tiên sinh và quan Lễ nghi Học sĩ.

Đọc những trang đầu của bộ sách, cũng như giáo sư Hoàng Nguyên, Bùi La Việt biết ngay là sách « độc », cả về văn bản học, cả về văn hóa học. Quyển Ngũ là phần khảo dị, bình chú cho bộ «Long Thành tạp ký” của tác giả Ứng nhân Đoàn Khâm. Quyển này viết bằng ba thứ chữ khác nhau do quan Tả thị lang, Trung thư lệnh Đoàn Sinh, hậu duệ bốn đời của Đoàn Khâm viết vào thời Mạc Đăng Doanh (1530 – 1540), rồi được hai hậu duệ họ Đoàn tên là Đoàn Lương và Đoàn Thiện Phổ, không rõ năm sinh năm mất, ghi tiếp vào thời Trịnh Tùng, đầu thế kỷ XVII. Xem ra bộ sách «Long thành tạp ký» có vẻ giống với bộ «Hoàng Lê nhất thống chí » của nhóm « Ngô gia văn phái » sau này, tức là tác giả là một tập thể những văn sĩ họ Đoàn, muốn tập hợp thành «Đoàn gia văn phái» để viết chung một cuốn sách gửi lại hậu thế.

Bùi La Việt gọi điện ngay cho giáo sư Hoàng Nguyên thông báo về điều này. Giáo sư biểu lộ đồng tình ngay. Ông thông báo lại: «Mình đã dịch xong chương về Lễ nghi Học sĩ Nguyễn Thị Lộ. Đang sắp dịch tới chương về Ức Trai tiên sinh. »

Phần bình chú về tác giả «Long Thành tạp ký », cả Đoàn Sinh và Đoàn Lương, Đoàn Thiện Phổ đều tỏ ra rất kính phục và trân trọng Ứng nhân Đoàn Khâm. Họ rất hãnh diện và tự hào khi biết tổ khảo mình là học trò của Nguyễn Khuê, con trai cả của Nguyễn Trãi. Khi đó, Đoàn Khâm đang làm thư lại cho giám quan Đinh Phúc, hằng ngày hầu việc cho giám quan, tối về phường Hàng Rượu giúp vợ con cất rượu và ôn luyện kinh sử. Khóa thi tháng 3 năm Nhâm Tuất (1442), Đoàn Khâm đã tình nguyện cắp tráp hầu thầy Nguyễn Khuê đi dự thi ở Quốc Tử giám, nhưng đến phút chót thì thầy Khuê lại rút tên trong bản ghi danh. Lý do: khóa thi ấy quan Hàm lâm viện Thừa chỉ kiêm Quốc tử giám Nguyễn Trãi được mời từ Côn Sơn về làm Chánh chủ khảo kỳ thi Hội đầu tiên. Khi thấy con trai cả Nguyễn Khuê và con trai thứ tư là Nguyễn Bảng cùng ghi tên dự thi, ông đã bảo hai con rằng: “Thầy biết sức học của các con. So với bọn Nguyễn Trực, Lương Nhữ Hộc, Ngô Sỹ Liên… và các sĩ tử ghi tên dự thi khóa này, thì các con không hề thua kém họ. Nhưng các con phải hiểu cho thầy, đây là khóa thi Tiến sĩ đầu tiên của triều Hậu Lê ta, đích thân nhà vua ra văn sách, thầy được cử làm Chánh chủ khảo, các bạn của thầy là Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, Phan Thiên Tước…đều là các quan phó chủ khảo, đề điệu, độc quyển. Các con đỗ khoa này thiên hạ sẽ cho là vì thầy và các bạn thầy thiên vị, mà không đỗ thì người ta lại chê thầy không biết dạy con. Miệng lưỡi thế gian đầy chông nhọn gai sắc các con ạ… Thầy muốn hai con suy tính lại, hãy để khóa sau…” Nghe lời cha, cả Nguyễn Khuê và Nguyễn Bảng cùng rút tên.

Vậy là “Long Thành tạp ký” là bộ sách viết trực tiếp về thời tác giả đang sống. Đây là tập ký sự chứ không phải tiểu thuyết hư cấu, nó gần giống như loại sử ký bản kỷ thực lục. Lại nữa, tác giả là một giám sinh hay chữ, chữ đẹp nổi tiếng kinh kỳ, tuy không đỗ đạt cao, nhưng lại gián tiếp tham gia vào bộ máy quan lại đương triều: Làm thư lại cho giám quan Đinh Phúc, sau khi Đinh Phúc, Đinh Thắng bị Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh giết, nhờ sự giới thiệu của Lân Quận công Đinh Liệt, Đoàn Khâm được chuyển đến làm nha lại ở Bí Thư các.

Đoàn Sinh đã viết lời bạt cho bộ sách của tổ khảo với lời văn đặc biệt trân trọng. Ông cũng viết thêm như để bổ sung, chú thích cho rõ về một số nhân vật và sự kiện mà tác phẩm có đề cập đến, như Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh, Đô giám Lương Đăng, Nội quan Tạ Thanh, sử thần Ngô Sỹ Liên, các bạn đồng môn, đồng triều và học trò của Nguyễn Trãi…

Bùi La Việt có thói quen chỉ bắt tay vào dịch khi đã nắm được cốt truyện, đường dây của tác phẩm và các nhân vật. Vì thế anh để hẳn nửa tháng để đọc hiểu tác phẩm, trước khi bắt tay vào phiên âm từ chữ Nôm ra chữ quốc ngữ.

Khi phiên dịch đến nhân vật Lương Đăng, La Việt vội lấy “Đại Việt sử ký toàn thư ” ra đối chiếu, và chợt hiểu ra khúc nhôi sự tình, vì sao Nguyễn Trãi kiên quyết xin cáo quan về ở ẩn?

***

Bây giờ nói về Lương Đăng.

Ông người phủ Kiến Hưng, trấn Sơn Nam. Lúc trẻ dáng nho nhã thư sinh, học giỏi, có tài đối đáp. Hồi giặc Minh sang diệt họ Hồ, bắt cha con Hồ Quý Ly và đồng bọn giải về Kim Lăng, sau đó Trương Phụ và Mộc Thạnh ngầm nói với các tướng sĩ rằng: Theo lệnh của Minh triều, phải lùng tìm những người ẩn dật ở rừng núi, người có tài có đức, thông minh chính trực, giỏi giang xuất chúng, thông kinh giỏi văn, học rộng có tài, quen thuộc việc quan, chữ đẹp tính giỏi, nói năng hoạt bát, hiếu đễ lực điền, tướng mạo khôi ngô, khỏe mạnh dũng cảm, quen nghề đi biển, khéo các nghề nung gạch làm hương…lục tục đưa dần bản thân họ về Kim Lăng, trao cho quan chức, rồi cho về nước làm quan phủ, châu, huyện…” (1)

Lương Đăng thuộc loại người trên, đang tuổi học trò, được đưa về Kim Lăng cho đi hoạn rồi cho vào trường học làm hoạn quan. Vốn thông minh, lại khéo tay, giỏi biện luận, Lương Đăng trở thành một hoạn quan xuất sắc.

Bấy giờ Lê Thái Tổ đã lên ngôi, nhưng vẫn chưa được nhà Minh sắc phong. Năm Tân Hợi, Thuận Thiên thứ tư,(1431), sau khi bọn chánh sứ Lê Nhữ Lãm, phó sứ Hà Lật và Lê Bính sang nhà Minh cầu phong, vua Minh sai bọn chánh sứ là Hữu thị lang Chương Xưởng và Thông chính ty hữu thông chính Từ Kỳ mang ấn sắc phong Lê Lợi làm Quyền thự An Nam Quốc Sự. Cùng đi với bọn Chương Xưởng chuyến ấy còn có cả bọn Lương Đăng cũng được cho y phục, tiền nong theo về.

Chương Xưởng nói với Huyện thượng hầu Lê Sát:

– Lương Đăng là quan hoạn giỏi, hơn hai mươi năm ăn lộc nhà Minh, được giáo hóa chu đáo, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, lại thạo về lễ nhạc, y phục, Vua ta muốn giữ lại trong nội cung, nhưng nể sứ thần các ngươi bẩm tấu nhiều lần, mới cho về để giáo hóa cho người Nam. Quan Đại tư đồ hãy lưu tâm trọng dụng.

Lê Sát ngầm hiểu đó là mệnh lệnh của thiên triều, nên ra sức nâng đỡ. Đến khi Lê Sát làm phụ chính cho vua Lê Thái Tông thì Lương Đăng đã đứng hàng đầu trong đám quan hoạn, được tấn phong chức Lỗ bộ ty giám, rồi Đô giám.

Nếu như ngoài triều, hai lộng thần Lê Sát, Lê Ngân thâu tóm hết quyền lực, thì chốn hậu cung Lương Đăng và Tạ Thanh cũng thay nhau làm mưa làm gió. Phủ đệ của Lương Đăng không lúc nào không có khách phương Bắc. Họ thường đi theo các sứ đoàn, mang nhiều hàng sang đổi chác hoặc bán với giá đắt, ép triều đình phải mua. Mỗi lần có sứ thần phương Bắc tới, như bọn Chương Xưởng, Từ Vĩnh Đạt, Quách Tế hay bọn Chu Bật, Tạ Kinh…, viện cớ Lương Đăng biết tiếng thông thạo, Đại tư đồ Lê Sát thường kéo Lương Đăng đến khách quán thết yến tiệc, bày trò chơi để xem và bàn chuyện rất lâu.

Hồi bọn Chu Bật sang báo việc vua Minh Anh Tông lên ngôi,(1436), Bật lên mặt đạo đức giả, liêm khiết, không chịu nhận tặng vật vàng bạc, nhưng lại ngầm đưa mắt cho bọn Lê Sát. Biết ý, Lê Sát ngầm nói với Lương Đăng nhân lúc rót rượu, lấy mấy nén vàng ấn vào lòng bọn Bật. Bọn Bật mừng rỡ khôn xiết. Chuyến ấy, khi đoàn sứ thần về nước, triều đình phải bắt gần một nghìn dân phu khiêng gánh đồ cống vật và hành lý của bọn Chu Bật.

Năm Thiệu Bình thứ tư, 1437, mùa xuân, tháng giêng, vua Lê Thái Tông sai Hành khiển Nguyễn Trãi và Lỗ bộ ty giám Lương Đăng đốc suất làm loan giá, nhạc khí, dạy tập nhạc múa.

Hành khiển Nguyễn Trãi dâng bản vẽ khánh đá và tâu rằng:

– Kể ra, đời loạn dùng võ, thời bình chuộng văn. Nay đúng là lúc nên làm lễ nhạc. Song không có gốc thì không thể đứng vững, không có văn thì không thể lưu hành. Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng chiếu soạn nhạc, không dám không dốc hết tâm sức. Nhưng vì học thuật nông cạn, sợ rằng trong khoảng thanh luật, khó được hài hòa. Xin bệ hạ yêu nuôi muôn dân, để chốn xóm thôn không còn tiếng oán hận buồn than, như thế mới không mất cái gốc của nhạc.”(2)

Giữa Nguyễn Trãi và Lương Đăng bất đồng về quan niệm, kiến giải trong việc biên soạn nhạc điển, xây dựng phẩm phục, triều nghi. Nguyễn Trãi nặng về phục dựng, cách tân vốn cổ âm nhạc, như các điệu rí ren xứ Hoan Châu, các điệu hát đối, hát cửa đình,

hát dân gian xứ Kinh Bắc, mà hồi ấy gọi là nhạc dâm, tức là nhạc dân gian, nhạc bình dân, thì Lương Đăng lại muốn bê nguyên xi lễ nhạc cung đình, mũ mãng, triều phục của vua và bá quan văn võ, các mỹ nữ cung tần, các xe kiệu, nghi trượng của nhà Đường, nhà Tống và nhà Minh phương Bắc.

Hành Khiển Nguyễn Trãi tâu với vua:

– Mới rồi, bọn thần cùng với Lương Đăng hiệu đính nhã nhạc, nhưng kiến giải của thần không giống với Lương Đăng, thần xin trả lại công việc được sai.”(3)

Sau khi Tư đồ Lê Sát, Tư khấu Lê Ngân bị vua bức chết, nhất là khi Nguyễn Trãi xin rút khỏi công việc, cáo quan về Côn Sơn ở ẩn, thì bọn hoạn quan Lương Đăng, Lương Dật, Tạ Thanh… tha hồ làm mưa làm gió.

***

“ Đoàn gia văn phái” đã bổ sung cho“Long Thành tạp ký” mảng tiểu sử về hoạn quan Lương Đăng mà lâu nay các nhà nghiên cứu còn rất mơ hồ. Chính Bùi La Việt, cũng không thể ngờ nhân vật này lại từng có thời gian “tu nghiệp và hành nghiệp” ở Yên Kinh tới hai mươi ba năm. Lương Đăng hầu như đã bị Hán hóa, đã trở thành quan lại của nhà Minh. Và hình ảnh ông quan hoạn từng đối đầu với Nguyễn Trãi ấy cứ ám ảnh trong đầu Việt.

Đêm ấy, trong giấc ngủ chập chờn, Bùi La Việt thấy mình đi đò dọc sông Tô Lịch. Con sông xanh biếc, nước trong leo lẻo, chạy từ kinh thành Thăng Long về vùng Tả Thanh Oai, rồi vòng sang Đại Áng, Nhị Khê. Khi cô lái đò cắm sào ở cầu Vân, Việt vừa lên bờ đã thấy một ông già râu dài, tóc trắng, quần áo trắng, như một tiên ông, đứng đợi sẵn dưới gốc đa. Ông già không đội mũ cánh chuồn, không mặc triều phục, nhưng Việt nhận ra ngay quan Thừa chỉ Hành khiển Nguyễn Trãi. Cuộc gặp gỡ bất ngờ này khiến Việt bối rối. Anh cúi người, chắp hai tay trước ngực.

– Con là Bùi La Việt, kính chào Ức Trai tiên sinh. Con biết gần sáu trăm năm nay nỗi oan ngất trời chưa làm Người siêu thoát…

Ức Trai gạt tay:

– Đừng nói vậy. Siêu thoát hay không là ở bản ngã mỗi người. Ta thấy mình đã siêu thoát ngay khi triều đình hạ đao xuống cổ ta. Sống mà còn đau đáu việc đời, tức là chưa siêu thoát, chứ chết là đã vào cõi vô vi, chấm dứt mọi sự vinh nhục…

– Dạ, tiên sinh có điều gì muốn chỉ giáo?

– Con về Nhị Khê, lẽ ra ta phải dẫn đến Ao Huê, vườn Ổi, gò Mai… nói về chuyện dạy học, đạo văn chương, hay ít ra ta cũng cải chính với người đời về câu chuyện rắn báo oán mà bọn ác tâm dựng lên để đổ tiếng xấu cho quan Lễ nghi Học sĩ Nguyễn Thị Lộ… Nhưng thấy con đang muốn biết về Lương Đăng, ta phải nói với con đôi lời.

– Dạ, đó là điều con muốn được nghe Người dạy…

Giọng Ức Trai bỗng trầm buồn:

– Chuyện có chính kiến khác nhau về điển nhạc, chuông khánh, xe kiệu, mũ mãng cân đai là chuyện bình thường. Mỗi người đều có cách lựa chọn riêng. Ta không trách Lương Đăng nhiều về điều ấy. Ta chỉ muốn người đời sau hiểu: Lương Đăng là ai?

Bùi La Việt vội thưa:

– Dạ, trong “Đại Việt sử ký toàn thư” có chép lời của Bùi Cầm Hổ tâu với vua Thái Tông về con người này: “Bệ hạ lên ngôi tới nay, hay thay đổi phép cũ của Thái Tổ, như Lỗ bộ ty đồng giám Lương Đăng, Tiên đế cho là người hơi hiểu biết, dùng làm Nội nhân phó chưởng, sau thấy hắn khúm núm, không thể gần gũi được, cho ra làm văn đội. Nay lại cho hắn làm quan tới chức Đô giám Trung thừa. Xin bệ hạ nghĩ lại.”

Ức Trai nói:

– Vậy đó. Thế mà Hoàng thượng vẫn sủng ái hắn. Ta rất buồn vì nhà vua không nhận biết Lương Đăng là kẻ vong bản …

Bùi La Việt nói:

– Dạ thưa, Lương Đăng đã được phương Bắc đào tạo rất bài bản. Nói theo cách nói thời hiện đại bây giờ là Thiên triều đã cài người vào nội bộ của ta…

– Không chỉ cài người mà đã cắm người chỉ đạo, điều hành – Ức Trai nói – Con có biết tại sao khi thảo “Bình Ngô đại cáo”, nhắc đến vua nhà Minh, ta rất căm giận hạ đến câu: “Thằng nhãi ranh Tuyên Đức” không? Đức vua Lê Thái Tổ khi đọc đến câu này Người nhìn ta cả cười, khen rằng ta rất hiểu bụng Người. Một nghìn năm Bắc thuộc, các triều đại phương Bắc rất muốn đồng hóa, muốn xóa sổ nước ta. Nhưng chúng không làm được. Đến khi giặc Minh sang, chúng vô cùng sửng sốt khi trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, đặc biệt thời Lý, Trần, văn hóa Đại Việt ta lại phát triển rực rỡ và giàu bản sắc đến như vậy. Việc vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu, vua Lý Nhân Tông cho mở trường Quốc Tử giám, khiến văn học, văn hóa, văn hiến nước Đại Việt ta phát triển rực rỡ. Con có biết tại sao ta viết nhiều thơ Nôm không? Vì rằng thời nhà Trần, kể từ Hàn Thuyên, tiếng Việt đã được dùng để trước tác văn thơ, được dùng để giao dịch. Văn tự chữ Nôm nước ta phát triển cực thịnh. Chúng ta có nhiều tác giả khổng lồ từ thời Lý, như ba vị Đại thiền sư Ngô Chân Lưu, Đỗ Pháp Thuận, Vạn Hạnh. Rồi dòng Vô ngôn thông với những bậc đại trí Mãn Giác Thiền sư, Không Lộ Thiền sư, Giác Hải Thiền sư, Viên Chiếu Thiền sư … Sang thời Trần, khi chữ Nôm cực thịnh, mở ra dòng văn học của Thiền phái Trúc Lâm, mà Phật hoàng Trần Nhân Tông là một đỉnh núi. Thời này có những danh sĩ như Trương Hán Siêu, sư biểu Chu Văn An… rạng danh bốn cõi. Ta nhớ, khi ở Thanh Hư động với ông ngoại ta, suốt ngày ta chìm ngập trong các kệ sách. Tầng tầng các kệ sách chữ Nôm bên cạnh Tứ thư, Ngũ kinh, thơ Đường, thơ Tống… Khi trở về kinh thành, được vào tập sách tại Quốc Tử giám để dự thi Thái học sinh của nhà Hồ, ta mê man trong thế giới chữ của các sư biểu Hàn Thuyên, Chu Văn An và các trường phái thơ văn Lý, Trần… Chưa bao giờ các trước tác của người Nam phong phú, rực rỡ như thời ấy. Vậy mà giặc Minh kéo sang, như cơn gió đen, quyét sạch cơ đồ của nghìn năm. Triều đình nhà Minh lồng lộn lên khi thấy văn hóa Đại Việt phát triển ngoài sức tưởng tượng của chúng. Chúng truyền cho bọn Trương Phụ, Hoàng Phúc, rồi sau này là Vương Thông bằng mọi giá phải đốt hết, chôn hết, cướp hết, triệt hạ văn hóa Đại Việt, đồng hóa người Việt, biến Đại Việt trở về thời thuộc quốc như Giao Chỉ, Cửu Chân ngày xưa. Bọn Lương Đăng chính là lực lượng nằm trong âm mưu triệt phá văn hóa Đại Việt của chúng. Nhà Minh gấp rút đào tạo một tầng lớp nha lại người Việt, trong đó có bọn hoạn quan, đưa về nước ta để thực hiện âm mưu cai trị, làm sao cho người Việt dần trở thành người Hán, biến nền văn hóa nước ta giống như văn hóa phương Bắc. Đặc biệt thâm độc là chúng cho đốt hết các bản sách chữ Nôm của ông cha ta trước tác trong mấy trăm năm, thu hết những tinh hoa văn học, văn hóa mang về Kim Lăng, bắt các trường phải dạy chữ Hán, các nha môn phải giao dịch bằng văn tự Hán…Cho nên ta buồn và thất vọng vì vua Thái Tông không nhận ra dã tâm thâm độc này, không nhận ra chân tướng của Lương Đăng. Lương Đăng đã trở thành người Hán, đã là Việt gian

Bùi La Việt cố nhắc lại:

– Dạ, Người vừa nói Lương Đăng nằm trong đội quân xâm lược ngầm của Minh triều?

Ức Trai ngao ngán:

– Thấy vua hí hửng, xúng xính trong mũ miện, áo long cổn, ngồi trên ngai báu, nghe nhã nhạc do Lương Đăng chế ra, mà ta tưởng như Bắc triều thu nhỏ… Ta thấy mình bất lực. Biết không phải là thời của mình, vì thế ta xin cáo quan…

– Dạ, đó là một bước lùi?

– Ta biết đó là cái hèn của kẻ sĩ. Người có học thường muốn tránh xa sự lố bịch, thứ rác rưởi. Như thế là yếm thế, bạc nhược, khuyến khích lũ tiểu nhân thắng thế… Nhưng thử hỏi lúc ấy ta biết làm gì? Nhà vua thì còn con trẻ, ham chơi, không biết nghĩ gì đến xã tắc. Mà ông vua trẻ này lại đang nắm giữ quyền lực, có trong tay binh quyền, khí giới và nhung nhúc bọn xu nịnh…

– Dạ, quyền lực không đặt đúng chỗ sẽ giết chết mọi khát vọng…

Ức Trai đưa một ngón tay lên:

– Hãy nhớ rằng, Nguyễn Thị Anh khi đó vào được nội cung, rồi phế ngay Hoàng hậu Dương Thị Bí lên ngôi vương hậu, cũng là nhờ có Lương Đăng…

Ức Trai nói xong câu ấy thì phẩy tay, đi mất.

Bùi La Việt bừng tỉnh. Bàng hoàng mãi về một giấc mơ kỳ lạ.

Bằng linh cảm của một nhà ngoại cảm có khả năng nói chuyện với người âm, Việt biết rằng rồi anh sẽ còn được gặp Ức Trai.

Anh thắp một nén hương lên ban thờ, rồi lại cặm cụi dịch tiếp phần viết về Lương Đăng.

***

Lại nói về Lương Đăng.

Sau khi làm cho Nguyễn Trãi trúng kế, tự tâu trình với vua xin “trả lại công việc được sai”, rồi liền sau đó đệ đơn xin từ quan, thì Đăng vô cùng đắc ý. Từ đó, Lương Đăng độc chiếm công việc soạn nhã nhạc, đóng xe kiệu, may phẩm phục, thêu mũ mãng, sắm nghi trượng. Như ngầm có sự hậu thuẫn từ triều đình phương Bắc, các phái viên sứ thần triều Minh ra vào nhà Đăng như đi chợ. Đăng cho xây bao một khu đất rộng ở phường Thụy Chương dùng làm công xưởng, tuyển thợ khéo từ các nơi, đưa quan thầy từ bên Bắc quốc sang. Bến Đông trở thành nơi tập kết hàng núi lụa là gấm vóc Hàng Châu, Tô Châu, đồ kim hoàn mỹ nghệ, ngọc trai Giang Nam, mây tre gỗ quí Tứ Xuyên, Ba Thục…rồi chuyển về các công xưởng của Lương Đăng. Từng đoàn ca kỹ phương Bắc với đủ các loại nhạc cụ đến ăn dầm nằm dề hàng mấy tháng trời tập hát xướng các điệu nhà trò cung đình Minh triều, rồi được Đăng chọn lựa dâng lên hầu thánh thượng.

Nhà vua trẻ suốt ngày bị bủa vây bởi mỹ nữ cung tần và bọn quan hoạn Lương Đăng.

Nhưng mưu đồ của Lương Đăng không dừng lại ở đấy.

Việc lần lượt các ái phi Lê Ngọc Dao con Đại tư đồ Lê Sát, Lê Nhật Lệ con Đại đô đốc Lê Ngân bị vua phế bỏ, báo cho Lương Đăng một tín hiệu: Vua Thái Tông đang còn ở tuổi chơi trò trốn tìm, vẫn chưa dừng cuộc truy đuổi mỹ nhân. Và người đẹp Dương Thị Bí hãy coi chừng. Ngay cả khi nàng được phong Hoàng hậu và con nàng được phong Hoàng Thái tử thì đó vẫn chưa phải là bến đỗ cuối cùng.

Cho nên, khi Lương Đăng nhìn thấy Quản lĩnh cấm vệ Lê Nguyên Sơn dắt theo một cô gái đến nhà quan Nội mật viện Nguyễn Phù Lỗ, thì ông thực sự choáng váng về vẻ đẹp lộng lẫy của nàng. Là một hoạn quan, mất khả năng có con, nhưng ham mê tình ái thì trái lại, ở Lương Đăng lúc nào cũng phừng phừng như lửa cháy bên trong. Những năm tháng ở Kim Lăng, được vinh hạnh phục vụ trong chốn hậu cung triều đình nhà Minh, Lương Đăng đã được sống những ngày không thể nào quên, đã hiểu thế nào là đời sống của giới quan hoạn cung đình. Ranh giới cấm kị đặc biệt với quan hoạn là các hoàng hậu, ái phi, công chúa. Nhưng vẫn có những trường hợp đặc biệt, như viên hoạn quan giả Lao Ái đã lén lút thông dâm với Thái hậu Triệu Cơ, mẹ của Tần vương Doanh Chính, có đến hai đứa con với bà ta … Còn thì đối tượng của các hoạn quan lại là đám cung tần mỹ nữ, đám kẻ ăn người ở. Không còn “của ấy” thì luyến ái bằng mắt, bằng tay, bằng miệng lưỡi. Mất cái này thì phải phát triển cái kia để bù đắp lại. Một số tàng thư chốn thâm cung bí sử Trung Hoa, như Tố Nữ kinh, Mai Hoa kinh từng đúc kết rằng, cơ quan sinh dục đàn ông không phải chỉ thuần túy là cái dương vật. Còn có các giác quan khác, như mắt, miệng, lưỡi, tay… làm cho đàn ông chết cuồng và đàn bà quằn quại. Vì thế, thèm khát tình dục và khả năng tình ái của lũ quan hoạn còn bạo liệt và dữ dội hơn cả bọn cuồng dâm. Thế cho nên, những quan hoạn đẹp trai khỏe mạnh như Lương Đăng là niềm mơ ước của các cung tần, mỹ nữ và các mệnh phụ. Hầu hết những cung tần trước khi được tuyển vào cung vua đều đã phải lột trần truồng trước mắt Lương Đăng để kiểm tra, sát hạch, đều phải qua vòng tay ma mị, bàn tay diệu nghệ và cái lưỡi thần kỳ như rắn, như cá của Lương Đăng để được huấn luyện những ngón nghề trước khi dâng hiến mình rồng.

Cho nên, khi thoáng thấy nàng Nguyễn Thị Anh trong dinh thự của quan Nội mật viện Nguyễn Phù Lỗ, thì Lương Đăng choáng váng. Trong óc ông ta vụt hiện lên cuộc tình đầy ma mị của Lã Bất Vi với nàng ái thiếp Triệu Cơ. Khi thấy Tử Sở, con vua nước Tần mê nàng, Lã Bất Vi liền gán nàng Triệu Cơ đang mang thai cho kẻ si tình. Ô, Lã Bất Vi buôn vua, sao ta lại không biết buôn mĩ nhân?V à Lương Đăng lại nhớ đến Mao Diên Thọ, kẻ đã hoạ bức hình người đẹp Vương Chiêu Quân để dâng cho vua Hung Nô. Bây giờ, chẳng cần hoạ hình, người đẹp Nguyễn Thị Anh đã ở ngay trong nhà quan Nội mật viện đây rồi.

Lại nói về Nguyễn Thị Anh.

Nàng vốn tên cha sinh mẹ đẻ là Nguyễn Thị Ẻ. Cái tên Nguyễn Thị Anh là do Lê Nguyên Sơn đặt cho nàng khi nàng từ biệt làng quê, theo Sơn xuống đò.

Chuyến đi từ Bố Vệ trấn Thanh Hóa ra Thăng Long là một cuộc hải giang hành kỳ ảo. Lê Nguyên Sơn đón Thị Anh đi từ bến sông làng, lúc theo thuyền buôn chuyến dọc bờ biển, vượt qua cửa Thần Phù, lúc lên bộ băng qua những cánh rừng, những xóm nghèo vắng vẻ, lúc nằm đò dọc ngược sông Thanh Quyết, qua Dục Thúy sơn, Kẽm Trống…, sơn kỳ thủy tú, thật không bút nào tả xiết.

Cuộc hành trình hơn một tuần trăng. Ban đầu Ẻ còn e lệ, cách bức. Lê Nguyên Sơn thấy Ẻ quá đẹp, nhiều lúc không cầm lòng được, nhưng nghĩ đến việc sẽ dâng thị cho đức vua, nên đã hết sức kìm nén. Sau rồi, những bài hát rí ren trên sông nước quyến rũ, cảnh sơn thủy hữu tình, những đêm trăng bát ngát, khiến cả hai luôn nghĩ về nhau, nhìn nhau đắm đuối với nỗi khát thèm tưởng không thể kìm nén được. Lê Nguyên Sơn đã có vợ, xa đàn bà lâu ngày, nhiều khi cơn thèm trỗi dậy cào xé. Còn Thị Ẻ đang tuổi bẻ gãy sừng trâu, sự thèm khát lúc nào cũng dâng lên nóng bừng mặt, bỏng khô lưỡi. Nhìn vồng ngực, cánh tay Sơn cuồn cuộn, khiến Thị Ẻ càng ham muốn Sơn đến ngây dại.

Rồi một đêm trăng. Lừa lúc chủ thuyền cắm sào nơi bến vắng, Sơn đưa cho lão một nén bạc sai vào trong làng mua rượu thịt. Thế rồi con thuyền trở thành tổ uyên ương. Họ chèo thuyền ra giữa dòng, lao vào nhau như hai kẻ khát thèm nhau cực điểm. Lần đầu tiên trong đời, nàng Ẻ không hề biết thẹn thùng, trái lại, nàng tự cởi váy áo, phô bày trước trăng một toà thiên nhiên ngồn ngộn, nõn nà, non tơ. Còn Lê Nguyên Sơn, chàng ngây ngất đến tột cùng. Chàng bỗng thấy mình lên ngôi đế vương, một ông vua “bất chiến tự nhiên thành”. Như mãnh thú thưởng thức con mồi, chàng cúi xuống đặt một nụ hôn vào giữa huyệt đạo, nàng Ẻ liền run rẩy cong mình lên và bật tiếng rên…

Từ đêm trăng ấy, nàng Ẻ có tên là Nguyễn Thị Anh và được Lê Nguyên Sơn truyền dạy cho những ngón nghề tình ái. Đến lượt Sơn, chàng có thể chết được mỗi lần yêu.

Thị Anh có người chú họ là quan Nội mật viện Nguyễn Phù Lỗ. Ông Lỗ theo Lê Lợi từ Lam Sơn, chuyên theo hầu trong màn trướng, rất được tin dùng. Việc quan Lỗ bộ Đô giám Lương Đăng xuất hiện ở nhà quan Nội mật viện là một cơ may nghìn vàng đối với cả Thị Anh và Lê Nguyên Sơn. Khi Nguyễn Phù Lỗ giới thiệu cô cháu gái và có ý nhờ quan Đô giám tiến cử Thị Anh vào cung, trong lòng Lương Đăng đã khấp khởi mừng, nhưng ngài vẫn lắc đầu:

– Khó lắm. Trong mắt Hoàng thượng lúc này chỉ có Hoàng hậu Dương Thị Bí mà thôi. Cô nương đây trông cũng sắc nước hương trời, nhưng vẫn còn quê mùa lắm…

Nguyễn Phụ Lỗ vào nhà trong, đút mấy thỏi vàng trong tay áo, rồi ra nói riêng với Lương Đăng:

– Tôi coi con bé như con đẻ. Quan Đô giám không giúp thì cháu nó lại đành phải trở về Bố Vệ để làm ruộng, thì khổ bà chị họ tôi, mà tôi cũng không còn mặt mũi nào về quê… Ngài nói một tiếng với Hoàng thượng là con bé sẽ được đổi đời. Tôi tuy nghèo, nhưng gọi là có chút lễ mọn, nhờ quan lo giúp.

Lương Đăng nhận lễ, nhưng vẫn tỏ ra chần chừ.

Lê Nguyên Sơn nói:

– Bẩm hai quan. Trước khi về quê, kẻ hèn mọn này đã tâu với đức vua về nàng Thị Anh. Hoàng thượng hứa khi nào dâng người đẹp lên, người sẽ ban thưởng …

Lương Đăng chợt nhớ ra quan hệ thân tình giữa tên lính cận vệ đẹp trai này với ông vua trẻ sau cái lần con voi con của nhà vua sa xuống giếng, vội nói:

– Thôi được. Nể quan nội mật viện lắm, tôi sẽ tiến cử cô cháu gái ngài với đức vua. Sau này nếu được Hoàng thượng sủng ái thì cả tôi và ngài đều được nhờ…

Quan nội mật viện nói:

– Dạ, ơn quan ngài như trời biển. Thị Anh con, đến lạy quan Đô giám đi.

Thị Anh liếc nhìn Lê Nguyên Sơn rồi đến quỳ trước mặt Lương Đăng.

Lương Đăng đỡ Thị Anh dậy và nói:

– Lần gặp Hoàng thượng đầu tiên sẽ vô cùng trọng đại. Vì thế không thể vội vàng. Muốn được lọt vào mắt xanh của Hoàng thượng thì phải học lễ nhạc, học cách đi đứng và lời ăn tiếng nói. Rất may là sắp tới xưởng thêu may của ta sẽ dâng lên Hoàng thượng và Hoàng hậu mẫu triều phục mới. Nàng sẽ mặc bộ xiêm y đẹp nhất để đức vua thưởng lãm.

Ngay ngày hôm đó, Nguyễn Thị Anh được đón vào tư dinh của quan Đô giám Lương Đăng.

Trong ba bà vợ của vua Lê Thái Tông, trong hàng trăm phi tần hiện thời, không ai đẹp bằng Nguyễn Thị Anh. Nàng có một thân hình kiều diễm, làn da ngà ngọc và những đường cong bất hủ. Nhìn nàng khỏa thân trong bồn tắm, soi mình trong gương, quan hoạn Lương Đăng không kìm nổi dục vọng. Nàng đã đánh thức toàn bộ bản năng của ngài, cào cấu tim gan ngài, rậm rựt từng li ti huyết quản của ngài, buộc ngài phải hiện nguyên hình một con đực lâu nay bị giấu kín.

Với danh nghĩa một thầy dạy, truyền những ngón nghề luyến ái để nàng phục dưỡng đức vua, nhưng thực ra chính ngài lại là kẻ chiếm đoạt, khám phá. Ngài rền rĩ, kêu the thé vì quá mãn nguyện.

Thế rồi đã đến ngày nạp cung.

Vua Lê Thái Tông ngây ngất, đờ đần trước vẻ đẹp kiêu sa lộng lẫy của Nguyễn Thị Anh.

Ngay đêm ấy, trong cơn say chuếnh choáng, ông vua trẻ 17 tuổi sai bọn Lương Đăng, Đinh Phúc, Đinh Thắng đưa quý phi Nguyễn Thị Anh vào nội tẩm của ngài.

Chú thích

(1) Đại Việt sử ký toàn thư.

(2), (3) Đại Việt sử ký toàn thư.

Comments are closed.