NGUYÊN KHÍ

Tiểu thuyết

Hoàng Minh Tường


Nguyen khi Ba c_a NXB

Văn Việt: “Nguyên khí” là cuốn tiểu thuyết viết về hai nhân vật lịch sử nổi tiếng Nguyễn Trãi – Nguyễn Thị Lộ thời Lê sơ (thế kỷ XV) của nhà văn Hoàng Minh Tường, được Mạng Amazon và shop Người Việt xuất bản năm 2014. Là tiểu thuyết lịch sử nhưng thực chất lịch sử chỉ là điểm tựa tạo niềm cảm hứng cho tác giả thể hiện quan điểm thẩm mỹ thông qua hệ thống nhân vật và bối cảnh xã hội hư cấu. Lịch sử nhân loại thường được ghi chép không mấy trung thực, nhất là với lịch sử Việt Nam, qua hàng ngàn năm chống ngoại xâm và nội chiến khốc liệt giành vương quyền đã để lại nhiều điểm mù mờ, tạo nên những góc khuất, cho đến ngày nay vẫn còn là những câu hỏi lớn. Vì vậy, không lạ gì, khi cùng một sự kiện ghi trong Quốc sử, nhưng mỗi nhà văn lại có quan điểm khác nhau khi khai thác và sử dụng tư liệu. Vì thế, Alxandre Dumas (cha) khi viết tác phẩm “Ba chàng ngự lâm” (Les trois mousquetaires) đã từng tuyên bố Lịch sử chỉ cái đinh để nhà văn treo bức tranh vẽ theo trí tưởng tượng của mình. Có thể xem như đó là một tuyên ngôn của nghệ thuật.

Về mặt phương pháp sáng tác, “Nguyên khí” hầu như không chịu sự chi phối của thi pháp tiểu thuyết lịch sử truyền thống. Tác giả phá vỡ hệ thống quy phạm vốn đã được “tiêu chuẩn hóa”. Ông có vẻ như không coi trọng lắm các sự kiện lịch sử, mà tập trung khai thác bản chất lịch sử thông qua thao tác phản biện.

Có thể nói, viết “Nguyên khí”, Hoàng Minh Tường thay đổi hẳn bút pháp nếu so với “Gia phả của đất” và “Thời của thánh thần”. Mạch truyện không theo trình tư tuyến tính mà phát triển theo kiểu gián cách. Hệ thống nhân vật lịch sử và hiện tại đan xen vào nhau cùng với những bình luận ngoại đề của nhân vật hay của chính tác giả, tạo nên một văn bản nghệ thuật hấp dẫn, trong đó có không ít trường đoạn mang yếu tố trào lộng, giễu nhại của phương pháp sáng tác Hậu hiện đại.

Tính chân thực của “Nguyên khí” được dẫn dắt bởi mạch truyện linh hoạt kết hợp giữa các sự kiện lịch sử và hư cấu nghệ thuật xung quanh vụ án Lệ Chi Viên làm người đọc bị bất ngờ qua hàng loạt tình huống giầu kịch tính. Câu chuyện bắt đầu bằng việc ông trưởng tộc họ Đoàn xứ Đoài bất ngờ tìm được bộ “Long Thành tạp ký” bằng chữ Hán , ghi chép về vụ án Lệ Chi Viên do cụ tổ Ứng Nhân Đoàn Khâm để lại từ năm trăm năm trước. Và cũng từ bộ sách quý này mới nảy sinh ra chuỗi nhân vật giầu cá tính, đầy bản lĩnh nhưng cũng thấp thoáng chút hài hước là hai “nhà buôn văn hóa” Cao và Thấp, giáo sư Hán học Hoàng, tiến sĩ Bùi La Việt, chủ nhiệm Huỳnh Đạo. Tuyến nhân vật hiện đại này tuy mỗi người một vẻ, mỗi người một hoàn cảnh, một tâm trạng, nhưng tất cả đều có một mẫu số chung là đều kính trọng, tôn vinh Nguyễn Trãi – Nguyễn Thị Lộ, đồng thời tìm mọi cách trả lại danh dự cho hai danh nhân văn hóa sau cái chết oan khuất của họ cách đây hơn bảy trăm năm.

Có thể xem, “Nguyên khí” là một văn bản nghệ thuật kết hợp giữa quá khứ và hiện tại, được soi rọi bằng nhãn quan thấu thị của người cầm bút lách vào những góc khuất thời gian mà không bị chi phối bởi ý thức hệ, nhằm tìm ra được chân tướng lịch sử vốn bị mù mờ do các sử gia để lại.

Nguyên khí là bi kịch không chỉ một thời của giới trí thức Việt Nam. Nó là nỗi đau tận tâm can của nhiều thế hệ bởi chúng ta chưa tự thắng được sự hèn yếu của mình.

Văn Việt sẽ lần lượt trích đăng 12 trong số 19 chương cuốn tiểu thuyết này của nhà văn Hoàng Minh Tường.

Xin hãy mở đầu bằng lời đầu sách của tác giả.

VÌ SAO TÔI VIẾT TIỂU THUYẾT NGUYÊN KHÍ VÀ NHỮNG HUYỀN ẢO NGOÀI VĂN CHƯƠNG

Hoàng Minh Tường

Cuối năm 2011, trước khi nghỉ hưu, tôi làm nốt công việc thư ký vòng Chung khảo cuộc thi tiểu thuyết năm 2008 -2012 của Hội Nhà văn Việt Nam. Mặc dù kéo dài thêm một năm, cuộc thi tiểu thuyết này vẫn chưa tìm thấy bóng dáng trạng nguyên đích thực. Hình như các nhà văn vừa viết vừa sợ. Và để an toàn, họ đã tự kiểm duyệt mình, vì thế những đứa con tinh thần của họ có vẻ èo uột, thiếu vắng hơi thở của đời sống. Trong bối cảnh đó, mảng tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử lên ngôi. Có lẽ bởi các nhà văn ngại đụng chạm đến những vấn đề đương đại? Có lẽ lẩn vào lịch sử, người viết dễ an toàn mà lại gửi gắm được nhiều ẩn ức? Cho nên dễ dàng nhận ra các cây bút tiểu thuyết lịch sử sừng sỏ đều có tác phẩm dự thi lọt sâu vào vòng chung khảo. Ngoài tiểu thuyết “Hội thề” của nhà văn Nguyễn Quang Thân viết về những ngày cuối cùng của bại quân nhà Minh ở Đông Quan, mà hầu hết giám khảo của vòng sơ khảo, rồi vòng chung khảo đều xếp giải cao, còn có cuốn tiểu thuyết “Nguyễn Thị Lộ” của nhà văn Hà Văn Thuỳ cũng rất được chú ý.

Nhà văn Hà Văn Thuỳ là người khá am tường lịch sử. Nhiều năm nay ông đã bỏ thời gian, công sức sưu tầm và nghiền ngẫm những vấn đề về cội nguồn người Việt; tiến trình phát triển của văn hoá người Việt từ thuở hồng hoang, qua các thời kỳ lịch sử; sự giao thoa văn hoá và bản sắc dân tộc Việt vv… Ở tiểu thuyết Nguyễn Thị Lộ, ông bộc lộ sở trường trong việc khắc hoạ nhân vật, tạo dựng ngôn ngữ sử thi, cuốn hút người đọc ở các chi tiết… Ban đầu, chính tôi cũng bị choáng ngợp bởi cách dẫn dụ của tác giả. Nhưng càng đọc, tôi càng nhận ra tác giả đã phạm một sai lầm nghiêm trọng về phương pháp tiếp cận các tư liệu lịch sử và nhỡn quan của nhà văn khi nhìn nhận, tái hiện các nhân vật lịch sử. Đọc tiểu thuyết Nguyễn Thị Lộ, không thể nghĩ khác khi tác giả phục dựng chân dung Lễ nghi Học sỹ như một ả đào, một kỹ nữ phong tình, một người đàn bà đàng điếm, thậm chí một “con mồi” của Nguyễn Trãi để lung lạc vua Lê Thái Tông. Tác giả đặc biệt dựa vào lời kết tội của sử gia Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư: “…Nữ sắc làm hại người ta quá lắm. Thị Lộ chỉ là một người đàn bà thôi, Thái Tông yêu nó mà thân phải chết. Nguyễn Trãi lấy nó mà cả họ bị diệt, không đề phòng mà được ư?…” để phục dựng cả một trường đoạn “mây mưa” giữa Lê Thái Tông và Nguyễn Thị Lộ trong cái đêm ma mị Lệ Chi Viên…

May mà, rồi cuối cùng ban Chung khảo đã nhận ra mặt trái của tiểu thuyết “Nguyễn Thị Lộ”, và đã không đưa tác phẩm này vào giải.

Riêng tôi, cứ day dứt, phẫn nộ, trăn trở mãi về tiểu thuyết “Nguyễn Thị Lộ” và càng nghĩ đến trách nhiệm của người cầm bút. Không thể để một vụ thảm án oan khuất ngất trời gần sáu trăm năm rồi vẫn còn trong vùng sáng tối. Không thể im lặng khi những tác phẩm như Nguyễn Thị Lộ đang dần được mặc định trong các thế hệ độc giả.

Và tôi, một gã chỉ quen viết những vấn đề đương đại, quyết lấn sân sang lĩnh vực của các nhà tiểu thuyết lịch sử. Tôi bắt đầu truy tìm tư liệu, nghiền ngẫm về thời kỳ mạt Trần; về cuộc kháng chiến do Lê Lợi lãnh đạo đánh đuổi giặc Minh; về cuộc chấn hưng Đại Việt của những anh hùng áo vải Lam Sơn buổi đầu… Giữa muôn vàn biến cố của lịch sử, với hàng trăm nhân vật, hàng ngàn sự kiện, tôi quyết tập trung vào hai nhân vật: Ức Trai tiên sinh Nguyễn Trãi Lễ nghi Học sỹ Nguyễn Thị Lộ. Đây là hai nhân vật lớn, được nhiều nhà văn, nhà sử học đã viết. Thậm chí, một nữ văn sỹ Pháp, là Yveline Feray…. còn bỏ ra hàng chục năm để viết bộ tiểu thuyết “Vạn Xuân” đồ sộ tới hơn nghìn trang. Tôi biết sở đoản của mình. Tôi không viết về toàn bộ cuộc đời của hai vị. Tôi chỉ tách một lát cắt tiêu biểu, đó là quãng thời gian 27 ngày, bắt đầu từ ngày 20 tháng 7 Nhâm Tuất, 1442, ngày Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao sinh Lê Tư Thành, tức vua Lê Thánh Tông sau này và kết thúc vào ngày 16 tháng 8 Nhâm Tuất, 1442, ngày Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ cùng ba họ phải án trảm.

Cuốn sách có tên là “Nguyên Khí”, để luận về thân phận kẻ sỹ thời khởi Lê, cũng như thân phận kẻ sỹ của mọi thời.

Ngày 16 tháng 8 năm Quý Tỵ, 2013, bản thảo Nguyên Khí hoàn thành, đúng vào ngày giỗ Ức Trai tiên sinh và Lễ nghi Học sỹ.

Tháng 12 năm 2013, nhân khánh thành khu văn hoá tâm linh – đền thờ Ức Trai tiên sinh Nguyễn Trãi và Lễ nghi Học sỹ Nguyễn Thị Lộ tại Lệ Chi Viên, mà người có công đầu là nhà giáo Hoàng Đạo Chúc và những thành viên trong Hội yêu kính Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, cùng chính quyền, nhân dân xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, bản thảo tiểu thuyết “Nguyên khí” của tôi được dâng lễ tại đền hai Ngài. Cùng dự lễ dâng sách với tác giả, có Giáo sư Chu Hảo và Tiến sỹ Nguyễn Quang A. Sau khi dâng lễ tại tượng đài Lễ nghi Học sỹ Nguyễn Thị Lộ, tác giả đã xin được hoá bản thảo tác phẩm tại chân tượng Đức Bà, trên gò cao, dưới bóng cây cổ thụ để dâng lên các Ngài. Giáo sư Chu Hảo và Tiến sỹ Nguyễn Quang A cùng tác giả đã châm lửa cùng hoá tác phẩm. Do sơ xuất, vào phút cuối, tác giả đã lấy chiếc vòi ấm vỡ phía sau tượng đài để vun cho ngọn lửa cháy đượm. Không may, trong vòi ấm còn nước. Vậy là một vài mảnh sót cuối cùng không cháy hết. Không ngờ, việc làm bất cẩn ấy, hoặc cái tâm chưa sáng ấy, lại nảy sinh một tai họạ.

Đầu tiên là việc Nguyên Khí bị rút giấy phép xuất bản tại Nhà xuất bản Tri Thức, một địa chỉ tin cậy của giới trí thức, học giả. Đã có bản can tại nhà in. Chỉ cần bấm máy là một tuần sau, một nghìn bản in đầu tiên đã ra thị trường. Chuyến ấy, tôi tham gia đoàn nhà văn đi Điện Biên Phủ để viết nhân kỷ niệm 60 năm chiến thắng lừng lẫy địa cầu sắp diễn ra, lòng khấp khởi mừng thầm, khi về Hà Nội sẽ có Nguyên Khí phát hành. Nào ngờ, khi đang trên đồi A1 lộng gió thì nhận được điện: Nguyên Khí bị ngừng xuất bản.

Tôi không bất ngờ. Cũng lại giống như Thời của Thánh Thần sáu năm trước. Nhưng Thời của Thánh Thần may hơn, chui qua được khỏi nhà in mới bị ngừng lưu hành. Cũng là lệnh bất thành văn. Nhưng ai cấm? Văn bản đâu? Bó tay chấm com…

Từ Điện Biên về, tôi gặp giáo sư Chu Hảo, giám đốc Nhà xuất bản Tri Thức để biết lý do ngừng xuất bản Nguyên Khí. Giáo sư nhún vai, cười buồn: “Cục xuất bản nói: Nhà xuất bản Tri Thức không có chức năng in tiểu thuyết.” “Nhưng bản thảo Nguyên Khí có ghi thể loại tiểu thuyết đâu? Đây là loại sách khảo cứu lịch sử, hoặc chuyên luận lịch sử…” Tôi thắc mắc. Giáo sư Chu Hảo xua tay: “Cấm cãi. Lệnh ngầm. Bất thành văn…”

Tôi buồn ngơ ngẩn cả tháng ròng.

Nhưng rồi, thời đại @. Thế giới phẳng và bé như ao làng. Nguyên Khí được in và bán trên mạng toàn cầu.

Khi “Nguyên Khí” được xuất bản trên mạng Amazon và shop Người Việt, (vào giữa năm 2014), một người bạn từ Canada đã gửi về cho tác giả một bản in. Ấn phẩm thật đẹp và trang trọng. Nhưng khi đọc qua, thì thật kỳ lạ: có trang mất 2 dòng, một số trang mất vài dòng, có ba trang mất trắng, tổng cộng mất 25 đoạn của rải rác 25 trang, với 2663 từ, trong số 421 trang toàn tác phẩm. Không thể hiểu nổi. Maket dàn trang đã gửi đến NXB bằng bản pdf, không thể chỉnh sửa. Vậy mà không hiểu sao lại có sai sót tày trời này?

Truy tìm mãi cũng không ra nguyên nhân. Chỉ có thể giải thích bằng tâm linh: Tác phẩm đã không được hoá hết (sự cố khi đốt bản thảo như đã nói trên). Và ở cõi thiêng kia, Ức Trai tiên sinh và Lễ nghi Học sỹ đã không nhận được tác phẩm hoàn chỉnh.

Ngày giỗ hai Ngài năm nay (16 tháng 8 Giáp Ngọ, 2014), tác giả đã sửa lễ tại đền Lệ Chi Viên để kính cáo lỗi với tiền nhân.

Nay tác giả xin cáo lỗi cùng độc giả đã đọc và mua bản “Nguyên khí” bị lỗi trong thời gian trước tháng 10-2014, do shop Người Việt và mạng Amazon. US phát hành. Do tác giả và NXB Dân Khí yêu cầu, sau hai tháng ngừng phát hành để chỉnh sửa, từ ngày 20-11-2014, bản in chính thức tiểu thuyết Nguyên Khí đã lại sẵn sàng phục vụ bạn đọc.

1. ỨNG NHÂN ĐOÀN KHÂM

Tình thư một bức phong còn kín

Gió nơi đâu gượng mở xem

(Cây chuối – Quốc âm thi tập – Nguyễn Trãi)

Có khách lạ từ Hà Nội về thăm ông thủ từ đình làng Động.

Chiếc xe Vios màu bạc từ đường nhựa đi thẳng vào cửa đình. Hai ông khách, một trung niên một trẻ, ông trung niên cao gầy, tương phản đến hài hước với ông trẻ béo lùn đeo kính cận, giống hệt như hai thầy trò Don Quixote và Sancho Panza của văn hào Miguel de Servantes nước Tây Ban Nha. Hai ông khách thông thạo đường đi nước bước còn hơn cả người làng, đến tận phòng cụ thủ từ, thì thào với cụ điều gì đó khoảng nửa tiếng đồng hồ, rồi phóng xe đi ngay.

Ngày hôm sau, một đoàn năm người, do cụ thủ từ dẫn đầu, đón taxi ra gặp hai vị khách. Được hai ông tận tình hướng dẫn, đưa đi gặp ban này, phòng nọ, sở kia, nhưng quan trọng hơn cả là họ được gặp sư trụ trì chùa Thái Cực.

– A di đà Phật – Sư trụ trì cung kính chắp tay đáp lễ và nói – Làng ta phúc lộc cao dày. Phải có duyên có phước lắm mới được đức Phật độ trì.

Nói rồi sư trụ trì đưa người làng Động vào hậu cung, tận mắt nhìn thấy một tấm bia đá hình chữ nhật chi chít chữ nho, bề rộng chừng hai gang tay, chiều cao hơn ba gang tay, xung quanh chạm nổi hoa dây và rồng phượng. Tấm bia dựng áp tường, phía dưới là một ngăn tủ chìm, xếp vừa một hòm sắc cổ, trong đó có những bảo vật của làng Động từ hơn năm trăm năm trước.

Công việc xác nhận, bàn giao và đưa tấm bia đá cùng hòm sắc cổ về làng được tiến hành lặng lẽ, khẩn trương, nhưng cũng phải kéo dài hai mươi mốt ngày mới hoàn tất.

Một lễ mở cửa đình bất thường giữa mùa hè đã được các cụ phụ lão làng Động tiến hành suốt ba ngày ba đêm. Sau kỳ lễ, tấm bia đá được gắn vào chân tường phía bên tả nhà bái đình, còn chiếc hòm sắc cổ phủ vải điều đã được trang trọng đặt vào hậu cung, trước ngai thờ Thánh, nơi lưu giữ các báu vật linh thiêng của làng.

Vì sao lại có cuộc rước bia đá và hòm sắc cổ ấy?

Lớp trẻ trong làng có thể không biết. Nhưng từ lứa trung niên trở lên đều biết làng Động từng có một ngôi đình vọng, gọi là đình Bái Động, giữa khu phố cổ Hà Nội. Người già kể lại rằng, từ thời Lý – Trần, làng Động đã có người sinh sống ở kinh kỳ. Họ buôn và bán rượu, tạo ra hẳn một phố hàng Rượu, thuộc phường Khán Xuân, ven hồ Thái Cực, nay là địa phận khu phố Hàng Ngang, Hàng Đào. Công việc làm ăn ngày càng phát đạt. Vào cuối thời Trần, phường rượu làng Động góp tiền mua đất, rồi dựng lên một ngôi đình thờ vọng để cho những con em xa quê có nơi thờ cúng thành hoàng, tổ tiên.

Trải mấy trăm năm, thế gian biến cải, phố phường lấn lướt, khuôn viên đình Bái Động thu hẹp dần. Cho tới sau ngày giải phóng Thủ đô năm 1954, ngôi đình chỉ còn lại tam quan và gian hậu cung. Năm 1961, đình Bái Động được chuyển thành kho chứa của Công ty lương thực Quyết Thắng và Cửa hàng Thực phẩm số 7. Năm 1972, bom Mỹ làm sập gian trái đình, sạt mái tam quan. Rồi bẩy nhà dân từ đâu nhảy vào lấn chiếm. Khu đất vốn linh thiêng ngày xưa, nay trở thành xóm tập thể, mạnh ai người ấy cát cứ.

Khi một mét vuông đất quanh Hồ Gươm có giá tới bốn mươi cây vàng, thì đình Bái Động bỗng thành một núi vàng. Biết bao con mắt lăm le. Thành phố mấy lần ra quyết định giải tỏa vẫn không thành. Sáu năm dòng dã cò cưa thương lượng, đền bù, cưỡng chế… Năm 1997, một công ty địa ốc bỏ ra mấy trăm cây vàng di dời được các hộ dân, rồi cho xây tại đây một tòa nhà 12 tầng với cái tên vừa khó đọc, vừa khó hiểu: Tòa nhà TBD Cty.

Theo sư thầy Thích Quảng Nhân, người trụ trì và gắn bó 42 năm với chùa Thái Cực thì tấm bia đá và hòm sắc là cổ vật của đình Bái Động được tốp công nhân đưa sang gửi chùa từ khi khởi công tòa nhà TBD Cty. Năm 2009, chùa Thái Cực được nhà nước đại tu để chào đón đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Khi lên danh sách kiểm kê, trật ra tấm bia và hòm sắc lạ. Báu vật của làng Động có dịp hạnh ngộ quê nhà.

Sau bao năm thất lạc, châu lại về Hợp Phố.

Trong chiếc hòm sắc cổ rước về đình làng Động, không có vàng bạc châu báu, mũ mãng cân đai, mà chỉ có cuốn thần phả, mấy tờ sắc phong các triều Lê, Nguyễn và năm quyển sách chữ Nho, giấy dó làng Bưởi đã ngả vàng, ghi số từ quyển Nhất đến quyển Ngũ, bìa bồi một thứ nhựa nâu đen, hai quyển rách bìa, mép sách mòn quăn, nhiều trang mất chữ. Người duy nhất ở làng biết đọc chữ nho là cụ thủ từ đình làng, đeo mục kỉnh nhìn hàng tiếng đồng hồ, cũng chỉ luận ra được hai chữ: “… THÀNH TẠP… ”. Cụ thủ từ bảo: “ Đây là năm pho sách của Thánh hiền cung tiến Thành hoàng đình làng ta”, rồi trân trọng đóng nắp hòm sắc, cung kính đặt lên giá thờ.

***

Cho đến một ngày đẹp trời, chiếc Vios màu bạc lại về làng. Lần này hai ông khách không vào đình gặp cụ thủ từ mà đến thẳng nhà ông Nghĩa, trưởng tộc họ Đoàn.

Ông Đoàn Nghĩa, 75 tuổi, cựu giáo chức hàng huyện, lĩnh sổ hưu đã mười lăm năm. Họ Đoàn có mấy ông cao tuổi hơn ông Nghĩa, nhưng về thứ bậc, học vấn, trường đời…, ông Nghĩa vẫn đứng đầu, có uy tín cao trong làng. Hai ông khách Hà Nội dường như biết điều đó. Ông trung niên hất hàm ra hiệu cho ông trẻ lấy từ trong chiếc samsonai có khóa inox sáng loáng một tập dày cộp đặt lên bàn.

– Thưa ông trưởng họ. Chúng tôi là dân văn hóa. Tôi tên Đỗ Chí Cao. Chú đây tên Ngô Tháp. Chính chúng tôi là người phát hiện ra tấm bia và hòm sắc cổ của đình Bái Động khi trùng tu chùa Thái Cực.

– Tôi nhận ra hai đồng chí rồi – Ông Nghĩa có thói quen gọi những ai có dáng dấp cán bộ đều là đồng chí. Với tính hài hước, ngay khi hai ông khách giới thiệu tên, ông đã tủm tỉm cười thầm đặt biệt danh cho hai người. Đỗ Chí Cao thì đúng là Cao rồi. Còn Ngô Tháp thì gọi béng là Thấp cho tiện.

Thấp rút bao ba số 5 vuông, lấy bật lửa zippo, gẩy tay một cách điệu đàng, vừa châm thuốc vừa nói:

– Bố ơi, chúng con mang lộc về cho họ.

Ông Nghĩa giọng hồ hởi:

– Vậy thì để tôi rước hai đồng chí ra đình, gặp cụ thủ từ.

Ông Cao khoát tay:

– Không nên. Chúng tôi đến gặp ông là có ý riêng. Không cần để cụ thủ từ và các phụ lão trong làng biết chuyện này. Chú Tháp đây có biết chút ít chữ Hán, chú nói cho cụ trưởng họ rõ đi.

Thấp hờ hững để bao thuốc và chiếc bật lửa trên bàn, khiến ông Nghĩa cứ dán mắt vào con zippo hình thù kỳ lạ, lại có cô gái cởi truồng, nằm ở tư thế rất chướng mắt.

– Cổ vật đấy ông ạ.Vỏ bằng đồng thau nguyên chất, ruột mạ vàng 18k – Cao cầm chiếc bật lửa đưa cho ông Nghĩa – Chủ nhân con zippo này là trung uý Richars Conney con thượng nghị sĩ Mc Uyliam Conney, hy sinh tại chiến trường Quảng Đà năm 1968. Đây là hàng độc, chỉ sản xuất một nghìn chiếc tại Mỹ.Con này số sery 02, lại khắc chìm tên chủ nhân. Hơi bị khủng. Thằng Lợi hói ở Sài Gòn, vừa sang tên cho chú Tháp đúng hai ngàn USD, không bớt một cắc.

Ông Nghĩa lè lưỡi, như vừa nuốt phải mật cá mè.

– Em sẵn sàng đổi một trăm con zippo để lấy bộ sách cổ này anh Cao ạ – Tháp kính cẩn đưa tập sách ra trước mặt ông Nghĩa – Mời bố xem di sản của họ Đoàn ta. Con zippo dù là kỷ vật của con trai ngài thượng nghị sĩ Mỹ, thì cũng không thể so được với cổ vật này – Vừa nói Tháp vừa lật dở những trang chữ nho sạm đen trên giấy photo, đôi mắt kính dày như đít chai loang loáng – Dạ, thưa bố, đây là bản chụp năm quyển sách giấy bản có trong hòm sắc cổ mà chúng con đã giúp làng mang từ chùa Thái Cực về. Ban đầu chúng con chỉ biết là thư tịch cổ chứ không biết sách viết những gì. Vì tò mò nghề nghiệp, chúng con đã trộm chụp phim rồi mang in ra bản này. Thưa bố, khi nhờ người thạo chữ Hán và chữ Nôm giảng giải, chúng con mới biết tác giả là cụ Đoàn Khâm, hiệu là Ứng Nhân, người làng Động ta…

Như có một luồng điện vừa chạy từ sống lưng lên gáy, ông Đoàn Nghĩa ngồi dựng lên, tròn mắt nhìn tập sách, rồi lại nhìn hai người khách.

– Các đồng chí nói sao? Của cụ thượng tổ nhà tôi?

Ông Cao nói:

– Chúng tôi về đây là muốn xác định xem cụ Ứng Nhân Đoàn Khâm, đỗ hương cống thời Lê sơ có phải là người họ Đoàn làng Động…

Ông Thấp bổ sung:

– Ở phần lạc khoản có ghi cụ Đoàn Khâm người phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Hạ.

– Vậy thì đúng là cụ thượng tổ nhà tôi rồi các đồng chí ơi ! Ứng Nhân tức là người phủ Ứng Thiên – Ông Nghĩa reo lên và lật đật đứng dậy châm đèn thắp hương. Sau đó ông mở chiếc tráp sơn son thếp vàng lấy ra cuốn gia phả dòng họ đưa cho hai ông khách.

– Đây là cuốn gia phả họ Đoàn mới được chúng tôi sắp xếp lại rồi cho vi tính, mỗi gia đình giữ một bản. Các chú xem đi. Cụ thượng tổ Đoàn Khâm nhà chúng tôi ở hàng thứ hai, sau cụ thủy tổ Đoàn Khang…

Trong khi hai ông khách xem gia phả, thì ông Nghĩa sẽ sàng lật giở từng trang sách chữ nho photo, tựa hồ như ông đang được hầu chuyện tiền nhân. Ông mường tượng thấp thoáng giữa những trang sách là một cụ già đầu đội mũ cánh chuồn, râu tóc bạc phơ, ánh mắt bao dung và đôn hậu. Cụ đang kể lại với hậu duệ của mình về lịch sử dòng họ Đoàn làng Động…

Họ Đoàn, trước cụ thủy tổ Đoàn Khang, không rõ ở đâu. Chỉ biết cụ Đoàn Khang cùng với hai cụ họ Hoàng và họ Nguyễn lập ra làng Động. Thuở ấy vùng này còn là đầm lầy. Ba họ chiếm ba khu đất cao, như ba con long mã chầu về một gò đất hình con quy, nơi sau này được làng dựng đình và thờ Định Quốc công Nguyễn Bặc làm Thành hoàng. Đoàn Khâm, con thứ của cụ Đoàn Khang là người đầu tiên của họ Đoàn đỗ hương cống, cũng là người khai khoa của làng Động. Đoàn Khâm sinh Đoàn Thuật, Đoàn Thuật sinh Đoàn Tín, Đoàn Tín sinh Đoàn Trí… Đến thời nhà Mạc, năm Minh Đức thứ 3 (1529), dòng họ Đoàn làng Động đã có người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân, đó là Đoàn Sinh, làm quan đến chức Tả thị lang triều Mạc Đăng Doanh.

– Không chệch đi đâu được nữa rồi – Ông Cao đưa cuốn gia phả cho chú Thấp, rồi nói với ông Nghĩa – Nếu cụ Ứng Nhân là thượng tổ đời thứ hai thì ông trưởng họ đây thuộc hậu duệ đời thứ 21 hay 22?

– Trong gia phả có ghi cả, đồng chí ạ – Ông Nghĩa nói – Họ Đoàn nhà tôi ở làng Động, tính đến bây giờ là đời thứ 24. Tôi thuộc đời thứ 21. Ông cụ thượng tổ Đoàn Khâm nhà chúng tôi kỵ nhật vào ngày mồng 8 tháng năm ta, mộ táng tại cánh Đồng Chằm.

– Vậy thì anh em chúng tôi xin báo với ông trưởng họ một tin mừng – Ông Cao cầm tập sách lên – Đây là trước tác của cụ Ứng Nhân Đoàn Khâm. Cụ chính là một nhà văn của làng Động. Bộ sách năm quyển đặt trong hòm sắc cổ mà chúng tôi giúp rước về đình làng vừa rồi chính là bản gốc, có tuổi hơn năm trăm năm…

– Có thật không các đồng chí? – Giọng ông Nghĩa run run. Tay ông cầm quyển sách cũng run run – Thế ra cụ thượng tổ nhà tôi đã dâng sách lên thành hoàng đình Bái Động? Nhưng là sách gì mà có hai chữ “Thành tạp” ngoài bìa hả các đồng chí?

– Hai chữ đầu và cuối bị nhòe, khó đọc. Chúng con đã phục chế lại – Ngô Tháp nói và chỉ vào bốn chữ đại tự mới viết bằng mực tàu đen ánh – Đây, tên sách là “Long thành tạp ký”, tập ghi chép về thành Thăng Long của Ứng Nhân Đoàn Khâm. Về thể loại, cũng giống như cuốn “Thượng kinh ký sự” của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, nhưng thời gian thì sớm hơn gần hai trăm năm.

Đỗ Chí Cao đưa đẩy:

– Loại thư tịch cổ như thế này đặc biệt quí hiếm.Thư viện Hán Nôm có thể mua tới mấy chục triệu đồng.

Ông Nghĩa lại tròn xoe mắt. Ông nhẩm một phép tính quy ra thóc. Vị chi là vài tấn lúa, chà chà, không ngờ mấy cuốn sách chữ nho cũ nát mà đắt giá đến thế.

– Nhưng không biết cụ thượng tổ nhà tôi viết những gì nhỉ? – Ông Nghĩa băn khoăn.

– Đây là loại thư tịch cổ, lại là bản viết tay, bây giờ ít người biết – Ông Thấp nói – Loại học Hán văn tập tọng như con, ôm từ điển cả ngày cũng không đọc nổi một trang.

– Thế này nhá – Ông Nghĩa chau mày như vừa thầm quyết một điều gì -Trưa nay hai đồng chí ở chơi với tôi. Ta làm món gì nhắm rượu. Nhân thể tôi gọi mấy anh em trong họ đến bàn chuyện. Tôi muốn nhờ hai đồng chí dịch quyển “Long thành” của cụ thượng tổ chúng tôi ra chữ quốc ngữ cho con cháu đọc. Giá cả thế nào, xin cứ nói. Họ Đoàn chúng tôi nguyện lo chu tất. Xin lỗi, để tôi gọi điện thoại. Anh em trong họ đến đây ngay.

Ông Nghĩa nhấc máy điện thoại bấm số, nói oang oang:

– Chú Hội, tôi có khách quí từ Hà Nội về có việc liên quan đến họ Đoàn nhà ta. Chú sang mời ông Tám, bác Lượng, bác Đường, chú Tại, cháu Mạnh đến tôi ngay. Nhân tiện chú ra nhà hàng Năm Sẹo bảo vợ chồng nó làm cho tôi một mâm tám người, vừa chó vừa vịt đặc sản quê mình. Tiền nong tôi sẽ tính với Năm Sẹo. À, thêm một đĩa lòng lợn, nhiều cổ hũ, dạ dày. Rượu nhà có rồi… Thế nhé. Khẩn trương lên. Bà nhà tôi ra trông con cho thằng Quang. Không có ai phục vụ đâu.

Trong lúc ông Nghĩa nói chuyện điện thoại, hai ông khách nháy nhau ra sân hút thuốc. Cao lấy trong túi áo ra chiếc tẩu gỗ óc chó, cán sừng trâu rừng, nạm vàng 24k và gói thuốc sợi Captain Black hảo hạng, nhồi thuốc, rồi cũng lấy ra một con zippo Mỹ còn khủng hơn cả con của Thấp, châm lửa.

– Riêng cái tẩu của tao giá cũng gấp ba con zippo của chú – Cao nói – Chiếc tẩu này, Bảo tàng Văn chương đang gạ mua tao năm ngàn USD. Chỉ thương cụ Nguyễn. Hồi ấy chắc bí quá Nguyễn mới đổi của độc này lấy mấy chai rượu ngoại…

– Anh nói thế nào – Thấp cãi lại – Cỡ nhà văn như Nguyễn mà lại thiếu rượu ngoại? Chắc là tay đạo chích nào thó của cụ…

– Thì bọn thằng Hạo đồ cổ nó bảo tao thế. Mà chú xem đây, cán tẩu có chữ đề tặng cụ Nguyễn rành rành …Thôi, tập trung vào việc. Ý chú thế nào?

Thấp bóp trán. Lâu lắm rồi họ mới gặp một món hàng “độc”. Mỡ đến miệng mèo rồi mà lại để trượt. Giống như vụ chiếc la bàn cổ của tượng nhân Bùi Thị Hý vùng gốm Chu Đậu. Lẽ ra trả tiền, lấy ngay thì lại chần chừ, hôm sau bảo tàng về, đưa vào kho cổ vật. Mất toi mấy chục ngàn đô. Bây giờ vụ sách cổ này, không khéo mà xôi hỏng bỏng không. Dọc đường về đây cả Cao và Thấp bàn nát nước mong vớt vát lại, không biết liệu có nên cơm cháo gì?

Thấp nói:

– Anh vào việc ngay đi. Chuyện dịch thuật cứ từ từ. Tay Lợi hói trong Sài Gòn vừa điện thoại, sẵn sàng trả giá hai chục ngàn nếu ngay tuần này giao cho nó bản gốc.

Cao thở dài:

– Ai học được chữ ngờ. Biết thế hôm ở chùa Thái Cực mình cuỗm luôn bản gốc, có phải bây giờ đỡ rách việc. Đúng là tự thả gà ra vườn mà đuổi…

Thấp chép miệng:

– Hôm mang sách đi chụp, em cứ ngờ ngợ, đến khi đọc thấy tên ông cụ em toát hết mồ hôi. Biết là sách độc vừa trượt khỏi tay mình…Thôi, anh cứ nói toạc ra đi. Mua đứt, năm mươi triệu.

Cao nháy mắt:

– Chú cứ để mặc tôi.

Rồi Cao vào nhà, bảo ông Nghĩa:

– Báo cáo ông trưởng họ. Việc này chúng tôi muốn bàn riêng với ông. Thế này nhá. Anh em chúng tôi đây là những người sưu tầm thư tịch cổ. Nói nôm na là chơi sách cổ, cũng ví như thú chơi cây cảnh, chơi chim, chơi tem, chơi chó…hà hà…

– Tôi hiểu – Ông Nghĩa gật gù – Ngày trước tôi cũng mê chơi diều sáo. Nhà tôi lúc nào cũng có hơn chục con diều…

– Ấy đấy. Còn hơn cả mê gái ấy ông nhỉ? – Cao cười khục khục tự thưởng cho câu nói hóm hỉnh của mình – Thế cho nên, báo cáo ông trưởng họ, chúng tôi muốn có tập trước tác của cụ tổ Đoàn Khâm. Không phải cuốn photo này mà là bản gốc trong hòm sắc cổ ngoài đình. Chúng tôi sẽ mua giá cao, đắt gấp đôi giá của thư viện Hán Nôm, tức là trả cho họ nhà ta bốn mươi triệu đồng.

– Ấy chết – Ông Nghĩa bỗng xua tay.

Thấp tiếp lời:

– Bố sẽ có quà riêng. Con bỏ tiền túi biếu bố năm triệu uống rượu.

– Không được đâu các đồng chí ơi – Ông Nghĩa nhăn nhó như đang bị chứng đau dạ dày – Sách cổ đang để thờ ngoài đình, bất khả xâm phạm.

Cao nói:

– Nếu lấy danh nghĩa họ Đoàn, đứng ra nói với làng, xin cụ thủ từ và các cụ cao niên được thay bản sách cổ bằng bản photo này, chắc làng sẽ đồng ý. Chúng tôi sẽ có thù lao riêng với cụ thủ từ và ban phụ lão…

Ông Nghĩa đã lấy lại bản lĩnh của một trưởng tộc họ, giọng bỗng lạnh lùng:

– Không được. Các đồng chí cỏ trả bốn trăm triệu hay bốn tỷ cũng không ai dám mang đồ thờ ra khỏi đình. Thành hoàng làng tôi thiêng lắm. Có kẻ khuân đá kê cột đình về nhà, hôm sau hộc máu ra chết. Hai đứa rủ nhau trèo lên nóc tam quan bắt tổ chim, một đứa rơi xuống chết tươi…Cụ thượng tổ nhà tôi đã hiến tặng sách cho đình, con cháu không thể bất tín. Thôi, ta dẹp chuyện bản gốc lại. Giờ ta bàn sang chuyện dịch sách ở bản photo. Nếu đúng là sách do cụ thượng tổ tôi viết, họ Đoàn nhà tôi sẽ chịu toàn bộ phí tổn để các đồng chí tìm giúp người dịch. Tôi thay mặt họ Đoàn nói thế này: Kể cả bốn mươi triệu tiền thù lao dịch sách, chúng tôi cũng quyết.

Hai người khách nhìn nhau. Họ biết rằng ông Nghĩa đã nói như thế, tức là không thể suy chuyển. Trong đầu Thấp và Cao đều xoay vần những con tính. Đừng già néo mà đứt dây, xôi hỏng bỏng không.

Đỗ Chí Cao nói:

– Chúng tôi biết chuyện này rất khó. Nhưng cũng nói để ông trưởng tộc bàn tính thêm với anh em họ mạc và cụ thủ từ. Nếu chúng tôi có được bản gốc quyển “Long thành tạp ký” để bổ sung cho bộ sưu tập cá nhân, thì xin gửi họ Đoàn một trăm triệu để lo việc họ hoặc cung tiến đình làng. Còn chuyện tổ chức dịch sách theo ý ông trưởng, chúng tôi xin ghi nhận và sẽ tiến hành ngay.

Ngô Tháp mở samsonai lấy ra hai bản hợp đồng đã in sẵn đưa cho ông Nghĩa.

– Đây là hai bản hợp đồng về việc dịch sách, xin bố trưởng họ ký để chúng con thực hiện.

Ông Nghĩa thoáng hoang mang, không hiểu ông Cao ông Thấp này chuẩn bị từ bao giờ. Nhưng rồi ông cũng đeo mục kỉnh, săm soi từng con chữ:

– Các đồng chí chu đáo quá…Nhưng phải thêm một khoản nữa. Như các đồng chí nói, nếu là sách cụ thượng tổ chúng tôi viết về đình Bái Động, về phường Hàng Rượu của người làng Động ở kinh kỳ thì họ chúng tôi mới tài trợ dịch. Còn cụ viết những đề tài xã hội khác thì cứ để thư thư đã, các đồng chí ạ.

Cao thấy lão già thật cao thủ. Vòng vo mãi, cuối cùng lại không dám chi tiền. Phải lật bài ngửa với lão thôi. Cao đưa mắt cho Thấp, rồi nói:

– Như tôi đã thưa với ông trưởng tộc. Cụ thượng tổ Đoàn Khâm nhà ta không phải là một người ghi chép vặt, hoặc thuần tuý viết gia phả, mà là một sử gia, một đại văn hào.

Thấp chen ngang:

– Nói chẻ hoe ra cho nó dễ hiểu. Cuốn sách này viết về Ức Trai tiên sinh, bố ạ. Bố có biết Ức Trai Nguyễn Trãi là ai không?

Ông Nghĩa tròn xoe mắt, tưởng nghe lầm. Rồi ông chắp hai tay kính cẩn:

– Dạ, biết chứ ạ. Đến Unesco còn tôn vinh cụ là Danh nhân văn hoá thế giới cơ mà…

Thấp càng cao hứng:

– Danh nhân văn hoá thế giới đầu tiên của Việt Nam. Đến như thi hào Nguyễn Du, tác giả kiệt tác “Truyện Kiều” cũng còn đang ở diện đề nghị. Mà cụ Đoàn Khâm nhà mình viết ngay sinh thời Ức Trai tiên sinh, mới độc chứ. Nếu “Long thành tạp ký” được dịch và công bố thì đây sẽ là sự kiện chấn động toàn cầu. Ứng Nhân Đoàn Khâm sẽ được xuất hiện như một nhà văn hóa lớn… Suốt mấy hôm nay, con cứ như người nhập đồng… Hình như cụ Nguyễn Trãi và cụ bà Nguyễn Thị Lộ hiển linh báo mộng ấy, bố ạ. Bố từng dạy học, biết quá rồi. Phải nói thế này: Gần sáu trăm năm qua, vụ thảm án Lệ Chi Viên với cái án tru di tam tộc đối với Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ là một ẩn số tàn độc chưa có lời giải. Thì đến nay, bằng tác phẩm “Long thành tạp ký”, nhà văn kiêm sử gia Đoàn Khâm đã xé toang bức màn đen dối trá và vô nhân tính của quyền lực để đưa sự thật ra ánh sáng. Bằng kiệt tác này, Ứng Nhân đã làm được một việc mà không ai làm nổi, đó là chiêu tuyết hoàn toàn cho Ức Trai tiên sinh, và đặc biệt là Lễ nghi Học sĩ Nguyễn Thị Lộ…

Ông Cao há hốc mồm kinh ngạc vì khả năng độc diễn tài tình của chú Thấp. Còn ông Đoàn Nghĩa bàng hoàng tưởng mình nghe lầm. Là một nhà giáo dạy môn sử học và chính trị, suốt bao nhiêu năm, vụ án vườn Vải và cái chết oan khuất của hai nhân vật lịch sử nổi tiếng, khiến ông luôn dằn vặt, đau xót. Không ngờ cụ thượng tổ Đoàn Khâm lại làm được công tích vĩ đại, là giải nỗi oan muôn đời ấy, thì phúc đức họ Đoàn nhà ông cao dày đến ngần nào?

– Nếu vậy thì tôi ký ngay đây – Ông giáo Nghĩa giương mục kỉnh và cầm bút – Chỉ riêng cụ thượng tổ Đoàn Khâm trở thành hiền tài, nguyên khí Quốc gia, một sử gia, một nhà văn của làng Động, đã là niềm vinh hạnh lớn lao của họ Đoàn chúng tôi rồi.

Comments are closed.