Ngày N+… (kỳ 14)

Hồi ký của Hoàng Khởi Phong

Ngày N + 43, 7 giờ sáng

Tàu đã ra tới Hải phận Quốc tế. Từ đài chỉ huy của chiếc HQ 8, tôi dùng ống nhòm quan sát tứ phía. Cả một hạm đội què quặt dìu nhau trên con đường vô định. Trên vùng biển này, hạm đội Mỹ với những tàu chiến khổng lồ xuất hiện rải rác trong tầm quan sát. Qua máy truyền tin, hạm đội Việt Nam liên lạc với nhau, sắp xếp lại đội ngũ. Chiếc HQ 8 có bốn máy liệt hai, được chiếc khác dòng dây kéo phụ.

*

Ngày N + 43, 9 giờ sáng

Một phi đội trực thăng của Không quân Việt Nam bay quần trên chiến hạm Mỹ, và tuần tự đáp xuống, cứ đổ hết người trực thăng bị hất xuống biển, lấy chỗ cho chiếc khác đáp. Tôi thấy một máy bay quan sát thả một vật to xuống biển, mới đầu tôi tưởng là bom, tới khi thấy ca nô Mỹ cấp cứu, tôi mới biết đó là người phi công bỏ máy bay nhảy xuống nước. Anh ta nhảy không có dù ở một độ cao cách mặt biển chừng hai, ba chục thước. Chiếc máy bay không người lái tiếp tục bay về phía trước, rồi mất hút trong khoảng tiếp giáp giữa trời và biển.

*

Ngày N + 44, 2 giờ chiều

Tàu tới hải phận Phi Luật Tân. Tôi nghe được trên máy truyền tin một giọng chỉ huy, ra lệnh cho hạm trưởng chiếc HQ 8 phải hạ cờ Việt Nam Cộng Hòa xuống, treo cờ Mỹ lên để tiến vào hải cảng Subic.

*

Ngày N + 44, 3 giờ chiều

Bạn tôi, Hải quân Thiếu tá Nguyễn Trường Yên, trong vị trí chỉ huy cuối cùng của anh, trước sự chứng kiến của hơn hai trăm người “may mắn” có mặt, xếp hàng trên boong tàu. Phía đối diện là thủy thủ đoàn với quân phục đầy đủ. Chúng tôi làm lễ hạ kỳ lần chót, chúng tôi hát bài quốc ca lần chót với đúng lễ nghi quân cách. Bạn tôi co tay mặt để lên vành mũ két. Tôi thấy những giọt nước mắt lặng lẽ chảy trên khuôn mặt rám nắng của anh. Không phải chỉ riêng Yên khóc. Dường như bất cứ ai có mặt trên tàu, ý thức được chuyến hải hành lần cuối này đều hát lạc giọng. Lời ca bị gió biển át đi, và lá cờ dường như rực rỡ hơn trong nắng chiều.

Lá cờ Mỹ được kéo lên, những ngôi sao trắng nhảy múa bay lượn dưới bầu trời xanh của miền nhiệt đới.

Tôi thấy một vài thủy thủ liệng nón của họ xuống biển, có cả một hai cái mũ két sĩ quan với cặp lon vàng chói. Cảnh hệt như đoạn cuối của phim: “Tant qu’il y aura des hommes”. Có khác chăng là người. Chúng tôi bỏ lại những gì xác định vị trí của chúng tôi, vị trí của những kẻ đã làm mất quốc gia mình, để đi vào vùng trời vô định của những kẻ lang thang vô tổ quốc. Còn người thiếu phụ trong phim, liệng xuống biển một vòng hoa cuối cùng cho người tình, và cũng đồng thời giã biệt vùng đất bất ổn của chiến tranh, của bom đạn, để trở về với xứ sở thanh bình, yên vui bên những người thân yêu của bà.

*

Ngày N + 44, 9 giờ tối

Một đám thanh thiếu niên, gây một đống lửa nhỏ trên boong tàu. Họ tình cờ gặp nhau trong hoàn cảnh bi đát này. Họ hát với nhau những bản nhạc nói về quê hương, nói về chiến tranh, họ hát với nhau những bản nhạc tình. Gió biển thổi nhẹ làm ngọn lửa nhảy múa trên boong. Đôi lúc tôi muốn xuống ngồi với họ, nghe những giọng hát học trò, hát bằng trái tim tinh khôi của họ. Nhưng rồi tôi vẫn ngồi yên trên đài chỉ huy, như tôi đã ngồi suốt ba ngày nay. Tôi thiếp đi giữa gió biển, giữa lời ca, giữa những ánh sáng bập bùng. Tôi thiếp đi giữa những tiếng tiêu huyền diệu của anh lính Biệt động quân ngày nào trên đập Đồng Cam, trong lúc con tàu tiến dần về bến.

Thay đoạn kết

Thư gửi các em học sinh

Trường tiểu học Vườn Hồng

California, tháng 8, năm 1988

Thân gửi các em học sinh của trường Tiểu học VƯỜN HỒNG

Đáng lẽ trường của các em tên là Nguyễn May, để kỷ niệm một binh sĩ Quân cảnh của Tiểu đoàn 7, chết trong lúc anh canh gác tù binh, đang triệt hạ những cây cao su, khai quang khoảnh đất để dựng lên ngôi trường đặc biệt này. Tôi phản đối cái tên này, thứ nhất nó không hay, lại cũng không may gì cả. Hạ sĩ Nguyễn May, dù đã được huấn luyện kỹ lưỡng kỹ thuật canh gác, áp tải tù binh, trong một phút lãng mạn nhớ nhà, anh bỏ cái nón sắt xuống, ngồi tựa vào gốc cây hút thuốc. Một tù binh, trong lúc đốn cây cao su, đã bất ngờ bổ một búa vào đầu Nguyễn May. Anh chết tức khắc, đám tù binh túa ra chạy trốn. Sự kiện xảy ra đột ngột đến độ khi hai người binh sĩ cùng toán với Nguyễn May, bắn được loạt đạn chỉ thiên lên trời, thì mười bảy người tù đã khuất trong những lùm cây tứ phía. Có ba người tù già không dám chạy ngồi lại sợ mặt cắt không còn hột máu. Tôi không muốn dùng tên trường Nguyễn May, bởi lẽ sau này, khi chiến tranh tàn, sẽ không còn lính, không còn tù, nhưng ngôi trường còn đó, vẫn là chỗ học hành của các trẻ em xã An Thới. Cái tên gợi chết chóc, lính, tù và thù hận đó không nên tồn tại với những trẻ em sẽ theo học vỡ lòng tại trường này.

Đó là việc hai mươi năm trước, cũng khoảng tháng 8, ngôi trường khai giảng lần đầu, có độ ba mươi, bốn mươi em đủ các trình độ từ lớp Một đến lớp Năm, chen chúc, xúm xít trong hai phòng học rộng. Hai ông thầy bất đắc dĩ là hai binh sĩ Quân cảnh có dáng thư sinh, có bằng Trung học đệ nhất cấp, bởi vì trường của các em không phải do Bộ Giáo dục dựng lên, cũng không phải do Cục Xã hội, Cục Tâm lý chiến của Tổng cục Chiến tranh Chính trị làm ra. Đó là ý kiến của tôi, được Thiếu tá Đoàn Đức Hải Chỉ huy trưởng đời thứ ba của Trại giam Tù binh Phú Quốc chấp thuận. Trại giam được thành lập chưa được một năm mà đã đến đời Chỉ huy trưởng thứ ba, đủ hiểu những biến cố xoay quanh hơn một ngàn binh sĩ Quân cảnh, Công binh, Địa phương quân, mười cố vấn Mỹ, tám ngàn tù binh trong một khoảng đất dài năm cây số, ngang bốn cây số đó nó phức tạp, đa dạng như thế nào.

Do đó, một buổi sáng hai mươi năm trước, không có cắt băng khánh thành, ngôi trường âm thầm khai giảng với bảng tên kỳ khôi có bốn hàng chữ. Hàng chữ đầu, khổ vừa ghi “Bộ Chỉ huy Trại giam Tù phiến Cộng Trung ương Phú Quốc”, hàng chữ thứ hai to hơn gồm: “Trường Tiểu học Vườn Hồng”. Ngay dưới bảng tên trường có hai câu thơ với khổ chữ nhỏ nhất:

Khi sương mai long lanh trên đọt cỏ Là lúc vườn hồng hé nở nụ tươi.

Sự kiện có hai câu thơ ngay trên cái bảng tên trường, đủ hiểu mọi người còn bận tối mặt với những sinh hoạt của một trại tù, vừa khai phá rừng, vừa thành lập trại, vừa tiếp nhận, quản trị, canh gác. Không một ai để ý đến con cái binh sĩ không có chỗ học. Nên ý kiến của tôi khi được chấp thuận, tôi muốn thực hiện ra sao chẳng ai buồn ngó ngàng, đếm xỉa. Tôi dù bận mờ người, giữ một lúc ba, bốn chức vụ, nhưng tôi vẫn thiết tha đến ngôi trường này.

Trong sân chơi, các em có cầu tuột, có xích đu, có cả những khóm hoa cúc dễ coi sóc và những cây mai rừng được bứng về trồng ngay trước cổng. Có tới gần mười ngàn tù binh thì vấn đề nhân công đâu có khó gì. Bên trong các lớp học, tôi treo một bức bản đồ Việt Nam suốt từ mũi Cà Mau tới ải Nam Quan, trên tấm bản đồ này là câu châm ngôn: “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”.

Ngày đó tôi hai mươi lăm tuổi, phải làm một sĩ quan cai tù bất đắc dĩ, còn các em là con của các binh sĩ phục vụ cho miền Nam, cũng vì tai trời ách nước, nên có mặt ở nơi góc bể chân trời này, thiếu cả ánh sáng đèn điện mỗi đêm. Tôi cũng muốn nhắc tới những ngư dân Quỳnh Lưu, đã một lần đứng dậy đòi quyền làm người, phát động một cuộc nổi dậy chống bạo quyền ngoài Bắc năm 56, và phiêu dạt từ xứ Nghệ An tới chót cùng hải đảo này. Các em con của các ngư dân này chưa hề một lần thấy ánh sáng đô thị, chưa bao giờ thấy xe hỏa, chưa một lần thấy được con báo, con voi. Đó là bối cảnh chung của ngôi trường kỳ dị Vườn Hồng, nó được khai sinh bởi những tình cờ của cuộc nội chiến nồi da xáo thịt. Nếu muốn chính danh hơn nữa, thì đây là cuộc chiến ủy nhiệm của hai khối quyền lực Tư bản và Cộng sản, mà ở đó, những kẻ lãnh đạo của hai miền Nam và Bắc, đã đẩy hai nửa phần dân tộc vào một cuộc chiến tranh mà cả hai đều rêu rao giương cao ngọn cờ dân tộc, nhưng sự thật, cả hai guồng máy lãnh đạo đều không một bên nào đích thực đại diện dân tộc.

Chính nơi đây, tôi đau buồn thấy cái vô lý của đời người, cái vô nghĩa của cuộc chiến. Chính nơi đây, tôi thấy người anh là lính Công binh, góp phần kiến thiết trại giam để nhốt người em ruột của mình. Chính nơi đây, Nguyễn May trong lúc nhớ nhà, châm điếu thuốc, không có khói buồn bay lên cây, mà nhận một nhát búa bổ đôi sọ. Chính nơi đây, tôi thấy tù binh Nguyễn Mạnh cũng chỉ vì nhớ nhà, muốn xin hồi chánh, đã được các bạn đồng tù của Mạnh tặng một cái đinh đóng xuyên qua màng tang. Rồi những em bé con của các ngư dân An Thới, cứ sàn sàn năm một, cứ mỗi ngày hai lần giải trí bằng cơm, và việc học ngừng lại ở hai năm đầu của bậc tiểu học.

Tôi nghĩ tới cụ Phan Bội Châu cả đời bôn tẩu, những mong giành được quyền tự quyết cho dân tộc Việt, và tôi nghĩ tới cụ Phan Chu Trinh cũng cả đời lặn lội với ý tưởng phải cải tiến dân sinh trước, để làm bàn đạp cho các cuộc vận động lớn của dân tộc. Tôi hiểu rằng cả hai cụ Phan đã thất bại, bởi quan điểm của hai cụ đều có chỗ cực đoan, quan điểm của hai cụ phải được dung hòa, bồi bổ lẫn cho nhau. Nên tôi yêu ngôi trường đó biết dường nào, nên tôi treo ở các phòng học bản đồ nguyên vẹn của nước ta, bởi vì Nam hay Bắc nếu còn chấp nhận di động trong quỹ đạo của đế quốc đỏ hay đế quốc trắng, thì tâm nguyện của cụ Phan Sào Nam sẽ chẳng bao giờ thực hiện được. Tôi treo câu châm ngôn: “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời” để tưởng nhớ cụ Phan Tây Hồ. Ngày nào còn giặc dốt, ngày đó chúng ta còn khó thực hiện được chuyện thống nhất xứ sở.

Thời của chúng tôi và các em quả là khó hơn thời của hai cụ. Hai cụ chỉ cần chống một lực lượng ngoại bang, còn

chúng ta phải cố gắng thoát ra khỏi ảnh hưởng của cả hai khối Tư bản, Cộng sản. Họ đâu có tử tế gì hơn thực dân Pháp, nếu không muốn nói họ tệ hại hơn. Bởi lẽ thời của các cụ, nước ta chỉ có một kẻ thù rõ rệt trước mặt. Bây giờ cùng một lúc chúng ta có hai kẻ thù, lộ dạng dưới hình thức hai người bạn, giúp chúng ta thật nhiều bom, đạn, súng ống, và máu của cha anh, bằng hữu chúng ta đổ ra từ Nam Quan tới mũi Cà Mau, chỉ để cho những tập đoàn lãnh đạo tại Nga, Mỹ chia chác những quyền lợi, những tài nguyên trên khắp địa cầu.

Các em thân mến,

Ngày đó, các em tuổi từ năm đến mười, tôi hai mươi lăm tuổi, mỗi lúc mỗi xót xa cho thân phận những kẻ trong hàng rào. Họ là những thí dụ tuyệt hảo của phản ứng Pavlov. Họ gật đầu và lắc đầu y hệt nhau trước một sự việc. Họ tuyệt thực, biểu tình phản đối không nhận quần áo cũ của lính “ngụy”, bởi vì quần áo họ còn lành, rồi chỉ vài tháng sau, họ lại biểu tình đòi phát quần áo cũ của lính “ngụy” vì quần áo họ đã rách. Họ là những con người khác nhau về vóc dáng, nhân dạng, nhưng bên trong họ là những cái máy phản ứng như nhau với những điều kiện, hoàn cảnh giống nhau.

Những xót xa của tôi không dừng ở đó, đối với những người ngoài hàng rào như ba của các em, như tôi, tôi đau buồn thấy hàng ngũ của chúng ta rời rạc quá, những bất công không phải chỉ lẩn quất ở Sài Gòn, ở Cần Thơ, ở Nha Trang. Chính ngay nơi đây, tôi thấy khoảng cách của giàu, nghèo quá xa, tôi thấy những binh sĩ của tôi phục vụ tổ quốc qua hai thái độ: kẻ thì du lịch đủ năm trở về nhận một chỗ tốt hơn, người thì mong cho chóng hết hạn đi đày, trở về nguyên quán. Chúng ta vạch ra một con voi, khi nặn xong, nó… không phải là con chuột, nó là con mèo cũng chẳng to hơn con chuột là mấy. Tôi càng bất lực trong hiện tại, tôi càng để tâm tới ngôi trường của các em nhiều hơn. Bởi lẽ đó, nhiều hôm rảnh rỗi, tôi lái xe tới quan sát các em, nghe tiếng cười đùa hồn nhiên của các em. Mỗi lần như vậy, tôi như có đủ sức chịu đựng thêm một ngày hay một tuần, những công việc bên hàng rào kẽm gai trùng điệp, cùng với những phản ứng đồng bộ của tù binh mỗi ngày mỗi nhiều.

Tôi không được dự ngày khai trường thứ hai của các em, trước đó một tháng, tôi đổi về đất liền. Hôm ra phi trường giã từ nơi đây, tôi ngừng xe tại cổng trường, nhìn các em chơi đùa hồn nhiên nơi cầu tuột, nơi xích đu. Cửa lớp đóng trong những tháng hè, nên tôi không nhìn được một lần chót bản đồ nguyên vẹn đất nước ta, và câu “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời” vốn ám ảnh tôi từ ngày còn là một cậu bé học trường Tiểu học Hải Dương. Vả lại bất cứ căn phòng nào, lớp học nào đóng kín cửa ra vào, cửa sổ, đều là những căn nhà buồn bã. Tôi lên phi cơ với tấm lòng của lớp học đóng cửa trong những ngày hè.

Các em thân mến,

Năm nay tôi bốn lăm tuổi, xa nhà mười ba năm. Các em, từ những bé năm đến mười tuổi, ngày nay đã trở thành những thanh niên từ hai mươi đến ba mươi. Ngôi trường xưa nếu còn, chắc cũng mang tên khác. Cái bản đồ chắc đã được tô màu đỏ và dĩ nhiên cái câu “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời” đã được thay bằng những câu khác như “Yêu nước là yêu Chủ nghĩa xã hội”. Những người mặc áo nâu trước kia bây giờ mặc áo xanh, còn những người trước mặc áo xanh như ba các em và tôi, giờ đây có lẽ chỉ mặc trần trụi một chiếu quần đùi trong ban ngày, ban đêm dùng cái áo mỏng để thay chăn. Chiến tranh đã tàn, nhưng khoảnh đất cũ vẫn đầy thù hận, máu vẫn đổ ra, bởi vì những con người phản ứng đồng bộ trước kia, đột nhiên chạm mặt chiến thắng, chạm mặt sự thật: họ mất hoàn cảnh chung, điều kiện chung, họ mất luôn cả điểm tựa chung là chiến tranh, do đó họ mất luôn cả sự đồng bộ về phản ứng. Mỗi cá nhân phản ứng một khác. Mỗi một tỉnh ủy, đảng ủy, chính ủy chạm mặt với một thực tế khác, lại có một sự hiểu biết khác, nhưng tựu trung những sự hiểu biết của họ đều quá lỗi thời, vì đã từ lâu họ được tôi luyện trong chiến tranh, và hầu như họ đã quên hết tất cả thế giới bên ngoài.

Do đó họ lạc hậu so với nhân loại, họ quản trị toàn bộ quốc gia mười ba năm nay, họ có được một kỳ công khác là kéo quốc gia thụt lùi lại nửa thế kỷ so với toàn nhân loại. Tôi không có gì để viết cho các em còn ở lại quê nhà, vì tôi không có đủ can đảm nói về những khổ đau mà bản thân tôi không có mặt. Điều tôi biết chắc là những em còn ở lại mỗi ngày mỗi chịu những khó khăn hơn. Vả lại không có gì vô lý cho bằng ngồi an toàn ở xa quê hương nửa vòng trái đất, lại muốn những người ở lại làm điều này, làm điều khác. Chỉ có những kẻ vô sỉ mới có thể ngoạc mồm ra rao giảng về những điều họ không hoàn toàn biết, lại càng vô sỉ hơn nữa khi rao giảng về những điều không có thật.

Vả chăng nữa, những dòng chữ này không thể chắp cánh bay qua đại dương được. Tôi chỉ biết gửi tới các em còn ở lại lòng khâm phục của tôi đối với những khó khăn, những bất trắc mà các em đang hứng chịu, đang đương đầu.

Chắc hẳn một số em đã theo cha mẹ tị nạn ngay khi miền Nam sụp đổ, đôi kẻ chậm chân hơn là những thuyền nhân đến rải rác trong những năm phong trào vượt biên lên cao, nhiều kẻ bây giờ đã nằm im đâu đó trong lòng đất, dưới đáy biển. Tôi mong gửi những dòng chữ tâm sự này đến với các em hiện đang “may mắn” có mặt ở ngoài phần đất quê nhà.

Đã mười ba năm nay, những kẻ ly hương như chúng ta, cứ đến tháng tư lại tổ chức thật nhiều lễ lạt. Mấy năm xa nhà đầu tiên, tôi rất hăng tham dự những buổi lễ này, những đoàn thể mọc lên như nấm, những tổ chức được khai sinh nhiều như những tổ hợp tác xã nơi quê nhà. Thế hệ của tôi, bốn mươi đến năm mươi tuổi hiện đang nắm giữ “diễn đàn” chống Cộng ở ngoại quốc, thế hệ của tôi đang hô hào trên “diễn đàn” bảo tồn văn hóa, thế hệ của tôi hiện nay đang đứng ở đầu ngọn sóng ly hương, thế hệ của tôi hiện đang chống đỡ với sức hút của hội nhập, đồng hóa nơi xứ người. Do nhu cầu thực tế, thế hệ của tôi đã lập nên hàng ngàn tổ chức, đoàn thể ở khắp bốn biển năm châu. Điều đau buồn nhất là dường như những hoạt động ồ ạt của thế hệ chúng tôi phóng vào khoảng không, bởi vì nó không hữu hiệu. Bởi vì chính chúng tôi chưa bao giờ sống thực, bởi vì chính chúng tôi chỉ là những con người giả do nhu cầu xã hội tạo thành. Năm 1963, khi có cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm, chúng tôi tưởng chừng đã đóng góp rất nhiều cho lịch sử, và rồi chúng tôi dừng lại ở đó, đóng góp tuổi trẻ của chúng tôi cho một chế độ còn tồi tệ hơn cả cái chế độ mà người ta gọi là “gia đình trị”. Đôi kẻ hài lòng với cái danh vọng nhất thời, trở thành những lãnh tụ sinh viên, chuyên xuống đường hoan hô đả đảo. Đôi kẻ trở thành dân biểu, những công cán ủy viên, những thứ trưởng rất trẻ trong một bầu không khí hỗn loạn của chính trị.

Trong một thời khoảng ngắn ngủi từ cuối 63 đến đầu 66, miền Nam chúng ta thay đổi lãnh đạo bốn lần và dễ chừng đến năm, sáu nội các góp mặt. Những năm đầu 60, chiến tranh chỉ là những hoạt động lẻ tẻ, phá rối trị an, Cộng sản ban đầu chỉ có một số rất nhỏ còn mai phục tại miền Nam sau hiệp định Genève 1954, thấy rõ sự suy yếu chính trị của miền Nam, nên bọn đầu sỏ ở Hà Nội quyết định dựng lên tổ chức Mặt trận Giải phóng miền Nam, nhưng kỳ thực Bắc Việt đã dồn hết nỗ lực vào trận chiến này. Thời điểm này, Nga và Trung hoa chỉ có những xung đột ngầm, nên cả hai hỗ trợ miền Bắc tối đa. Để có thể giữ vững vai trò của mình tại Đông Nam Á, Hoa Kỳ vận động với một số các quốc gia khác tham chiến. Năm 1965, khi thế hệ chúng tôi ngẩng mặt lên, phía trước đã là cả khối Cộng sản và quay sang hai bên phải trái, tám quốc gia trong khối tự do đã hiện diện ở miền Nam.

Chiến tranh, từ những hoạt động quấy phá lẻ tẻ vài năm trước, đột nhiên vươn mình lớn dậy nơi Đồng Xoài, Bình Giã, nơi Đỗ Xá, Pleime. Trong không khí chính trị, chúng tôi bị nhào nặn thành những con người giả, bây giờ trong chiến tranh, chúng tôi bị cuốn đi bởi bom, đạn và xác người, nên không còn có dịp để nhìn kỹ lại con người đích thực của thế hệ chúng tôi, cũng như những đóng góp đích thực của chúng tôi. Chúng tôi có những ngộ nhận đáng tiếc, hệt như một cậu bé nhìn bóng mình trong vách tường, và tưởng chừng như mình vụt to lớn như Phù Đổng. Chúng tôi tham dự một đêm hát cho quê hương trong khuôn viên đại học, và tưởng chừng như chúng tôi đã sống và thở cho quê hương. Chúng tôi làm vài bài thơ, dăm bản nhạc tranh đấu, đã tưởng chừng như chúng tôi đang phản kháng. Chúng tôi làm một vài bài thơ, viết một vài bài văn thơ đả kích chế độ, đã tưởng chừng như chúng tôi đang đối lập. Chúng tôi tham dự vài buổi xuống đường đã tưởng chừng chúng tôi đang làm cách mạng…

Các em thân mến,

Tôi không hề chối cãi sự bất phục nơi các em dành cho thế hệ chúng tôi, bởi vì miền Nam mất không hoàn toàn do lỗi của những người lãnh đạo miền Nam, càng không phải do lỗi của người Mỹ đã bỏ rơi chúng ta. Chính “thế hệ chúng tôi” đã đóng góp một phần không nhỏ cho sự thất bại ê chề nhục nhã này. Phải mang các em từ đường phố vào trường học thì một số “giáo sư” trong thế hệ chúng tôi lại mang những em đang ở trong lớp xuống đường. Phải nói tiếng nói bất khuất của tuổi trẻ trong diễn đàn quốc hội thì nhiều dân biểu trẻ tuổi lại “gật” trước những yêu sách của chính quyền, của nhà thờ, của chùa chiền. Phải nói tiếng nói chí công của pháp luật thì nhiều thẩm phán của thế hệ chúng tôi lại nói tiếng nói của cường quyền. Phải nói lên những thống khổ của dân chúng thì nhiều ký giả của thế hệ chúng tôi lại nói lên tiếng nói của tiền bạc. Phải viết những tác phẩm cổ võ, hô hào cho sự chiến đấu bảo vệ tự do thì nhiều nhà văn của thế hệ chúng tôi lại viết những tác phẩm để phục vụ thị hiếu tầm thường của con người. Phải tố cáo những bất công, những nhũng lạm trong quân đội thì nhiều người trong thế hệ chúng tôi lại làm ngơ trước tệ trạng làm suy yếu quân đội, chạy chọt lấy một chỗ an nhàn. Nếu những người lãnh đạo quốc gia là cột trụ của căn nhà, những cơ quan trung ương là những cái đà chính, thế hệ chúng tôi chính là những cái đà phụ, những tấm ván. Căn nhà của chúng ta có những cột trụ bị mối đục luỗng, những đà chính bị mọt ăn, những đà phụ rời rạc, gãy vụn. Một căn nhà như thế không thể nào đứng vững trước trận bão của chiến tranh.

Đã mười ba năm nay, mỗi lúc tôi một thấy “thế hệ chúng tôi” đang dựng lại ngày cũ. Những năm ngơ ngác ban đầu trên xứ người qua đi, những con người ngụy tín cũ dần dần hồi phục. Nên vì vậy mà mười ba năm nay, cho dù “thế hệ chúng tôi” thành lập cả ngàn đoàn thể, tổ chức, chúng tôi lăn xả vào chống Cộng, nhưng bọn Cộng sản vẫn mạnh khỏe ở bên kia bờ biển. Chúng tôi còn bận giành quyền lãnh đạo lẫn nhau, chúng tôi còn bận đổ tội lẫn cho nhau, chúng tôi còn bận chống lẫn nhau, trước khi có dịp chống Cộng.

Hãy nhìn kỹ những vết xe chúng tôi để lại, hãy nhìn kỹ những con đường chúng tôi đi, dấu vết xấu xí nham nhở chúng tôi để lại khắp miền Nam và giờ đây chúng tôi mang sang xứ người những ví dụ tuyệt hảo của lòng háo danh, ích kỷ, hời hợt, tự mãn, đố kỵ, giả trá. Xưa kia, chúng tôi được xã hội nặn thành những con người giả, bây giờ tồi tệ hơn, chúng tôi tự phết thêm một lớp sơn lên những con người giả hình cũ, những mong lớp sơn mỏng biến chúng tôi thành con người mới không vết tích.

Hãy nhìn kỹ những gì thế hệ chúng tôi làm, tôi không muốn vạch cái áo vá víu trên lưng chúng tôi cho các em xem đầy những nhọt bọc, tôi viết những dòng chữ này cũng hệt như nghiến răng bóp vỡ một cái ngòi. Trên lưng chúng tôi có cả trăm cái nhọt bọc này, và dường như nó đã lây sang các em. Có rất nhiều dấu hiệu của sự truyền nhiễm tính xấu. Hãy ngừng lại tự kiểm. Hãy sống đích thực, yêu ra yêu, ghét ra ghét. Muốn ăn chơi cứ ăn chơi cho thỏa, không giấu giếm, không ngụy tạo. Muốn hội nhập với đời sống nơi đây, hãy lao vào đời sống mới với hết khả năng. Nơi đây chính là nơi pha trộn mọi chủng tộc, mọi màu da. Nước Mỹ có hình ảnh của một con bạch tuộc, nghìn cánh tay, nó ngấu nghiến mọi nền văn minh, cả cái tốt lẫn cái xấu. Nó nghiền nát mọi quá vãng con người, để cải biến thành một con người khác máy móc hơn, ít cảm tính hơn.

Các em thân mến,

Tôi cố hình dung ra các em nơi xứ sở này. Có thể tôi đã gặp các em đâu đó trong những dịp lễ lạt, hội họp. Nếu các em “may mắn” rời khỏi nước vào tháng 4-75, và được sự hướng dẫn tận tình của cha mẹ, giờ đây các em có thể là những người trung lưu trong xã hội Mỹ, một kỹ sư, một bác sĩ hay một người thợ tiện như tôi.

Các em có thể đã yên bề gia thất, có một mái nhà và đang mờ người giữa những đống “bill” đầu tháng. Chậm chân hơn và mới thoát hiểm một vài năm, các em có thể còn đang lặn lội trong các trường, đang tìm một nghề nghiệp nào đó nuôi thân. Cũng có thể các em đang hoạt động trong cộng đồng, hoạt động trên lãnh vực văn hóa, chính trị, cách mạng. Các em có thể đang mưu cầu một đường về, một ngày về. Tôi thiết tha yêu cầu các em một điều duy nhất: hãy sống thực với chính mình, bởi lẽ chúng ta có thể dối trá với mọi người, nhưng không thể dối trá chính mình, và dối trá chính là khởi đầu của sự hèn hạ.

Không một ai có thể cưỡng bách các em về, nếu lòng các em đã chọn nơi đây là đất lành. Các em có thể cư xử như một người Do Thái đối với quốc gia họ, người Do Thái đã lưu vong hơn hai ngàn năm, họ lập lại quốc gia với dân số chưa đầy năm triệu người, nhưng hàng chục triệu người Do Thái ở khắp nơi trên trái đất đã đóng góp tích cực cho quốc gia họ đứng vững trước làn sóng thù nghịch, của hơn một trăm triệu người Ả Rập vây quanh khoảnh đất quê hương của họ. Chuyện về hay ở là chuyện của mai hậu, đó không phải là việc làm của một người, của một nhóm người, đó cũng không phải là việc làm của một năm, hai năm, năm năm. Đó là việc của nhiều thế hệ, đó là việc làm của mọi người, làm với lòng thành của mình tin vào tương lai của quốc gia chúng ta. Tôi không bao giờ lo sợ nước Việt bị mất đi trên bản đồ thế giới. Tiền nhân chúng ta đã đứng vững được suốt mười thế kỷ đô hộ của Bắc phương, cha ông chúng ta cũng đã đuổi được người Tây phương ra khỏi bờ cõi. Người Mỹ, Nga, Nhật, Pháp, Anh, Đức… có thể sau này sẽ thiết lập những cộng đồng con người trên những hành tinh xa xôi. Song trên mặt địa cầu này, tôi vẫn vững tin quốc gia chúng ta sẽ còn đó mãi mãi. Điều mà tôi băn khoăn, chính là trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước hiện tại, các em và chúng tôi sẽ đóng góp, sẽ phục vụ cho quốc gia một cách hữu hiệu. Chúng ta không những chỉ chống Cộng, mà phải chống lại mọi chế độ đi ngược lại đại khối dân tộc. Nếu “thế hệ chúng tôi” ý thức được điều này sớm sủa hơn, nếu chúng tôi can đảm chỉ trích, vạch rõ những sai lầm của miền Nam từ hai, ba thập niên trước, có lẽ giờ này các em và chúng tôi đang ở một nơi khác, làm một công việc khác.

Dường như “chúng tôi” đang đi lại những vết xe cũ, do đó cộng đồng Việt nơi đây mỗi lúc mỗi giống như miền Nam thu nhỏ lại, hãy cứ mở những tờ báo phát hành ở khắp nơi, những con người giả hình cũ đang xuất hiện, với một lớp sơn mỏng hào nhoáng bên ngoài, họ có mặt ở mọi nơi, từ các công xưởng tới các văn phòng, từ cơ sở thương mại tới các đoàn thể. Họ ủng hộ người này, đả kích người khác, họ quyên tiền, họ gây quỹ, họ làm cho tôi có cảm tưởng một khi đại cuộc chống Cộng đã xong, các em và chúng tôi lại một lần nữa phải chống lại những sai lầm gây nên bởi lòng háo danh, ích kỷ, hời hợt, tự mãn, đố kỵ và giả trá. Tôi không chấp nhận chống ngoại thù trước mặt, và dung túng nội thù ngay sát nách mình. Bài học năm 75 còn đó, trong hàng ngũ chống Cộng của chúng ta đã dung dưỡng những kẻ nguy hiểm không thua gì Cộng sản. Giờ đây chúng ta phải đặt một nền móng suy nghĩ khác, không thể dễ dãi với những kẻ đội lốt chống Cộng mà mưu lợi cho cá nhân mình.

Đối với các em đã nhận nơi này là quê hương, đã quay lưng lại với phần đất cũ, các em có lý của các em, các em không có trách nhiệm gì trong việc mất miền Nam, các em không có bổn phận chuộc lại những lỗi lầm cũ, tôi chỉ xin các em một điều, hãy lương thiện và thành thật, hãy sống trung thực với những yêu, ghét của chính mình, hãy sống với quả tim chân thật, yêu đời và yêu người. Tôi cầu chúc các em bắt gặp được cái bóng hạnh phúc nơi xứ người, mặc dù tận trong thâm tâm tôi, tôi biết con đường các em chọn rồi cũng không dễ dàng.

Đối với các em nghĩ đến ngày về, nghĩ đến những trách nhiệm liên đới với cha, anh, với bằng hữu, đồng bào, chắc chắn con đường đó không phải chỉ có hoa và bướm. Các em đã chấp nhận chông gai, các em đã nhận lãnh trách nhiệm, ngoài trái tim phải có để yêu mãnh liệt con đường các em chọn, các em còn cần phải có một bộ óc đủ để phân biệt chân, giả. Đừng thấy người ta tụ họp chào cờ, hát quốc ca và nghĩ ở đó toàn là người yêu nước. Ông Thiệu và đàn em ông ngày nào mà chả chào cờ. Đừng thấy người ta họp hành chống Cộng, mà nghĩ ngay ở đó một đường về đã mở. Đã nhiều kẻ đăng đàn cổ võ chống Cộng, một thời gian ngắn sau hiện nguyên hình là một kẻ nằm vùng. Nếu họ nằm vùng vì lý tưởng, các em còn không đau, có khi chỉ vì bọn Cộng sản quăng cho chút tiền, là có thể liếm được những bãi nước miếng chính họ vừa nhổ. Tôi chưa nói tới những kẻ có máu lái buôn trong người, họ hiện diện ở khắp nơi, chỗ nào đông người là có họ, cái họ chú tâm, để ý không phải là mục đích của đám đông, không phải là chống Cộng, không phải là văn hóa… Họ cần đám đông, đó là vấn đề “business” thuần túy. Đã chọn con đường chông gai, ngay cả tính mạng các em cũng không tiếc, nhưng cần nhất đừng lầm, mỗi một lần chúng ta lầm, là một lần cái đích dang xa, là một lần chúng ta mòn mỏi. Đời người dài được là bao, chúng ta không thể đem trái tim nồng nàn của chúng ta, giao cho bất cứ tổ chức nào, đoàn thể nào chúng ta chưa biết rõ. Tôi biết chắc ngọn lửa chống Cộng vẫn âm ỉ trong lòng mọi người trong nước cũng như ngoài nước. Tôi biết chắc chắn còn rất nhiều người trước thế hệ chúng tôi, những người trong thế hệ chúng tôi và cả thế hệ các em yêu nước thật sự, đương tìm tòi một đường hướng mới hữu hiệu hơn, đang tìm cách ngồi lại với nhau trong tinh thần mới.

Các em thân mến,

Tôi vững tin vào lịch sử, tôi vững tin vào tương lai, mọi đế quốc rồi sẽ sụp đổ như băng tuyết tan dưới ánh mặt trời, càng lúc tôi càng có cảm tưởng đó. Tư bản cũng như Cộng sản hoặc nó phải biến đổi cho hợp với nguyện vọng của nhân loại, hoặc nó phải sụp đổ nếu nó cưỡng lại đà tiến chung của nhân loại. Ngày đó có thể là năm năm, có thể là mười năm, có thể là hai mươi năm, nhưng những dấu hiệu thay đổi bắt đầu ló dạng. Chúng ta không chờ ngày đó, cả nhân loại đang thúc cho ngày đó tới sớm, và chúng ta sửa soạn cho ngày đó.

Hơn nửa thế kỷ trước, khi đặt nền móng cho cuộc đấu tranh của dân Việt, hai cụ Phan vẽ ra hai con đường, một là giành lại chủ quyền cho quốc gia, hai là cải tiến dân sinh, cả hai quan niệm đó phải được thực hiện song phương. Những khó khăn của chúng ta so với các cụ đã không ít đi, lại còn nhiều hơn dẫu chúng ta không bị đô hộ bởi Nga, Tàu nhưng Nga, Tàu đã chi phối quốc gia chúng ta tới tận cỗi rễ. Cách dạy dỗ và đào tạo của người Cộng sản đã cho thấy dân trí ngày nay so với thời các cụ cũng không hơn mấy chút. Chúng ta còn có thêm một khó khăn mới trong thời đại chúng ta, đó là khoa học kỹ thuật tiến những bước của đôi hia bảy dặm, sự tiến bộ khoa học này đưa đến việc hình thành những đế quốc kinh tế như Nhật Bản, Tây Đức. Trong mai hậu, việc của chúng ta chẳng những phải đối phó với Cộng sản, Tư bản, chúng ta còn phải đối phó với những tính toán của các con buôn quốc tế, sẽ nhảy vào khai thác đất nước chúng ta.

Với những em đã chọn được con đường, đã chọn được tổ chức, tôi cầu chúc các em đã chọn đúng, có một con đường đúng. Hãy lên đường bằng con tim quả cảm của các em và bằng trí óc sáng suốt, minh mẫn, hãy yêu mãnh liệt sự chọn lựa của các em và đủ sức đi suốt con đường các em đã chọn. Dẫu có chết, các em đã sống đích thực với những điều các em trân quý ở trong lòng. Với các em không chấp nhận nơi đây là quê hương, lại chưa tìm được cơ hội đóng góp tuổi trẻ cho đại cuộc, tôi tha thiết mong các em bình tĩnh, cùng tôi quay lại lớp học cũ đọc lại câu: “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”, dẫu ở đâu chăng nữa chúng ta cũng có một phần đời trên lưng, một xã hội trước mặt, hãy tìm tòi, hãy học hỏi. Các em hãy cùng tôi lật lại một trang sử cũ viết về phong trào Đông Du, bao xương máu đã đổ ra, bao tâm trí đã hao mòn, bao thân xác đã ngã gục và cụ Phan Bội Châu chỉ có thể mang được vỏn vẹn vài trăm người lén lút cầu học nơi xứ người. Trăm cay nghìn đắng, rốt cuộc Nhật cũng lấy lòng Pháp, cụ phải giải tán phong trào lếch thếch dìu nhau về Trung Hoa, và từ đó điều động công cuộc chống Pháp để giành lại chủ quyền cho nước nhà. Cũng chính nơi đây cụ Phan và những người đồng chí đã “dưỡng hổ di họa”, đã làm ngơ cho Hồ Chí Minh nưong tựa nơi xứ người, để rồi cụ bị thực dân Pháp bắt do sự chỉ điểm của những người Cộng sản.

Trong tận cùng của bất hạnh, nước mất, nhà tan, hàng triệu người chết trong lao tù, chết ở Lào, Miên, chết trong lòng biển, chúng ta có một điều an ủi nhỏ, là sự có mặt của hàng triệu người Việt lưu vong khắp địa cầu, các em cùng tôi tính nhẩm một điều, cứ một trăm người mới có một người về, thì mai này chúng ta cũng có mười ngàn người trở về từ khắp mọi nơi, đã ra đi với lòng buồn bã, nhưng sẽ trở về cùng với những điều học hỏi được nơi xứ người để đóng góp vào việc kiến thiết lại xứ sở. Cho dù cả ngàn người mới có một người về, chúng ta vẫn có hàng ngàn khoa học gia, hàng ngàn chuyên viên, trí thức. Ngay cả nước Nhật khi bắt đầu canh tân dưới thời Minh trị đâu có được nhiều chuyên viên, trí thức như thế. Ngày mà lịch sử xoay dòng chắc chắn không xa. Hãy bình tĩnh học hỏi, đừng trở về với đầu óc rỗng, e rằng chúng ta sẽ chỉ giúp đất nước chúng ta những sự khốn cùng.

Các em học sinh trường Tiểu học “Vườn Hồng” thân mến,

Tôi gửi tới các em những dòng chữ này, không cổ võ các em hội nhập đời sống nơi đây, không thúc bách các em phải nghĩ đến chuyện trở về. Chỉ tha thiết mong mỏi nơi các em một điều: hãy trung thực với hoàn cảnh các em đang sống, như Phùng Quán đã viết: “Yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét”. “Thế hệ chúng tôi” đáng bị các em bày tỏ lòng chán chường, oán ghét. Bất cứ ai dính dự vào miền Nam, đều có lỗi. Lớn có lỗi lớn, nhỏ có lỗi nhỏ. Hãy nhìn những kẻ đang vỗ ngực tự hào mình vô tội. Một là họ ngu, hai là họ tưởng mọi người ngu. Cả hai điều đó đều không chấp nhận được. Điều tôi đau buồn chính là gần đây, trên những diễn đàn nổi, sự tham gia của lứa tuổi các em mỗi lúc mỗi nhiều. Tôi bắt gặp bóng dáng “thế hệ chúng tôi” nơi các em, từ khuôn viên một trường đại học, đến một buổi nói chuyện văn nghệ, từ một đoàn thể xã hội, tới một buổi họp mặt thân hữu, những quần áo đẹp, những bắt tay xã giao, những nụ cười thớ lợ, những câu nói nước đôi, những thủ đoạn vặt vãnh, những tiểu xảo, những đãi bôi, những lừa lọc, những bon chen… Tất cả chỉ là những hư danh phù phiếm.

Hãy ngừng lại các em, cuộc đời nơi đây dẫu không hoàn toàn đẹp, nhưng vẫn có ý nghĩa của nó, vẫn có cả triệu con đường mở ra trước mặt, chọn con đường nào cũng vậy: Đời sống chỉ hoàn toàn có nghĩa khi nó được điều động bởi một khối óc minh mẫn, cởi mở và một trái tim chân thành, lương thiện. Hãy nhìn lại mới ngày nào các em năm, mười tuổi, giờ đây đã hai mươi, ba mươi, chẳng mấy chốc đợt sóng của “thế hệ chúng tôi” tan biến đi, đợt sóng của các em tiến tới. Tôi mong nó tiến tới mãnh liệt, xóa hết những dấu vết xấu xí “chúng tôi” để lại. Tôi không bao giờ mong một đợt sóng lăn tăn, èo uột, hờ hững, chưa kịp tiến vào bờ, đã tan biến mất tăm trước khi chạm đất.

Các em thân mến,

Nếu có dịp tình cờ nào đó, các em đọc lá thư này, đọc quyển sách này, xin hãy coi đây như là một lời xin lỗi chân thành nhất của tôi gửi đến các em, bởi chính tôi đã đóng góp một phần, cho dù chỉ là một phần rất nhỏ trong trang sử u buồn này. Sau cùng, tôi xin gửi lời chúc tâm nguyện nhất tới tất cả các em, và hy vọng một ngày nào đó không xa, khi lịch sử xoay dòng, các em và tôi có dịp về thăm ngôi trường cũ để chứng nghiệm một lần trong đời câu châm ngôn: “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”.

H.K.P.

California, tháng 10, năm 1988 (Nhà xuất bản Văn Nghệ, California, 1988, bản đăng trên Talawas với sự đồng ý của tác giả)

(Xem tiếp lời bạt kỳ sau)

Comments are closed.