Ngày N+… (kỳ 5)

Hồi ký của Hoàng Khởi Phong

Ngày N + 11, 7 giờ chiều

Đồ ăn đã nguội, tôi ngồi vào ghế thủ vị, bác sĩ Huấn bên tay phải, Trung úy Đại đội trưởng bên tay trái, ngoài ra có tất cả sĩ quan của trại cùng vài ba hạ sĩ quan của ban Điều hành, Tiếp liệu. Đây là bữa tiệc đơn vị đón tôi. Những dịp thay đổi đơn vị trưởng như thế này trước kia là một lễ nghi kiểu cách. Họ dềnh dàng, dò xét, thăm hỏi xã giao. Họ bồn chồn lo lắng vì sợ phải thay đổi địa vị, chức vụ. Dĩ nhiên nó cũng thịnh soạn chớ không đơn sơ, đạm bạc như bữa cơm hôm nay, trong hoàn cảnh này không ai có thì giờ để bày vẽ, nhưng tôi cảm ơn những người đón tôi vô cùng. Nó không có sơn hào hải vị, không chả phượng râu rồng, cũng không mổ bò, đãi trâu. Tôi đột nhiên thấy đói, đói như cả tháng nay chưa hề ăn.

Mới không đầy ba giờ trước, vợ tôi muốn đi mua đồ ăn cho tôi, tôi gạt phắt đi. Bây giờ là lúc tôi đói thật, tôi ăn tận tình, một mạch bốn chén cơm, trong lúc mọi người mới ăn một, hai chén. Có thể là họ giữ ý, có thể là họ LO, tôi đã có quá nhiều điều LO rồi, bây giờ tôi đói.

Lợi dụng một khoảng thời gian ngắn trong bữa ăn, tôi đề nghi duyệt xét lại toàn bộ khả năng đơn vị, đúng thật ra thì xét xem phải làm những gì cần thiết khi rút lui.

1. Trước tiên về phía tù binh, chúng tôi còn 27 tù binh bị bắt sau khi Hiệp định Paris ký kết, nghĩa là sau khi trao đổi hết tù binh vào năm 1973, rồi từ đó hai bên đều tố cáo nhau vi phạm đình chiến. Kết quả cụ thể của vụ vi phạm này là người vẫn tiếp tục ngã, lửa vẫn tiếp tục cháy và đạn vẫn tiếp tục bay. Có giao tranh là lại có tù binh, do đó chúng tôi có 27 tù binh này. Đây là điều phiền toái nhất cho đơn vị trong lúc này. Dẫu sao chăng nữa tôi sẽ cố tới mức tối đa, để bảo vệ sinh mạng của chính chúng tôi cũng như chu toàn nhiệm vụ được giao phó. Đây là vấn đề nát óc nhất, nhưng chắc chắn là tôi sẽ giải quyết được.

2. Về tiếp liệu: cái tôi cần là lương khô dự trữ, nhiên liệu đủ dùng cho toàn thể xe cộ, bây giờ không phải là lúc bàn giao, kiểm điểm về bàn ghế, tủ giường, máy đánh chữ, v.v. Tôi chỉ thị cho nhân viên lập một danh sách các quân nhân có gia dình sẽ di tản vào ngày mốt. Đồng thời Tiếp liệu có bổn phận phân phối hết số gạo dự trữ của đơn vị cho cái danh sách này. Tôi muốn mọi người yên tâm rằng cho dù vợ con họ có phải vào trại tị nạn ở Nha Trang, thì ít nhất vợ con họ cũng không đến nỗi sợ đói trong những ngày đầu bơ vơ nơi xa lạ. Tất cả lương khô quân đội, sẽ được phân phối đồng đều cho mọi quân nhân.

3. Một nội lệnh sẽ được gửi đến Ban chỉ huy cũng như Đại đội chuyên trách Tù binh, ấn định khi di chuyển trên xe mọi quân nhân chỉ được mang quần áo cá nhân, vũ khí, cũng như lương khô được cấp phát. Tuyệt đối không mang theo những vật dụng nặng nề, cồng kềnh như xe Honda, v.v. Nói tóm lại nhẹ nhàng và gọn ghẽ tới mức tối đa.

4. Riêng với bác sĩ Huấn, tôi muốn ông kiểm soát lại những thuốc men và dụng cụ y tế tối cần thiết, nếu cần sẽ đi Nha Trang, Cam Ranh, về các kho y dược, các đơn vị quân y lớn cung cấp cho đầy đủ. Tôi nhấn mạnh là ông lo được càng nhiều thuốc men càng tốt.

Tôi nhớ đến hầm binh Xích Bích. Chém giết sắp đến hồi trời sầu đất thảm, tên đạn lại vô tình làm sao tên đạn có thể biết phải mất mười hai năm học trung tiểu học và bảy năm y khoa mới sản xuất được một bác sĩ. Tôi nhớ đến cảnh Bàng Thống tung tin vịt để giúp Từ Thứ có cớ không phải hiện diện trong hầm binh Xích Bích. Tôi thấy sự có mặt của bác sĩ Huấn không thật cần thiết. Toàn đơn vị từ trên xuống dưới đều mạnh cùi cụi, còn khi hữu sự có lẽ chính bác sĩ Huấn cũng không giúp được chúng tôi nhiều nhặn gì. Tôi nghĩ đến con số thống kê cứ hai chục hay ba chục ngàn người Việt, mới có được một bác sĩ. Tôi tiếc những năm học này, bởi lẽ tôi lêu lổng từ nhỏ, xong trung học đã nghĩ rằng mình tài giỏi rồi giang hồ vặt, đúng là nhỏ mà không học lớn làm… đại uý. Tôi không thể chính thức nói bác sĩ Huấn ở lại trong đó, nhưng tôi nghĩ rằng Huấn đã đậu tới bác sĩ chắc phải hiểu ý tôi muốn gì: “Ông không cần gấp, cứ từ từ, kiếm chỗ để cho bà ấy trú ngụ xong, lo thuốc men càng nhiều càng tốt rồi hãy ra đơn vị. Có khi cũng cả tuần lễ.” Tình hình này làm gì có được một tuần lễ.

*

Ngày N + 11, 11 giờ đêm

Tôi lái xe chậm rãi trên vòng đai phòng thủ, hệ thống ánh sáng tốt, lính gác đầy đủ. Thiếu úy Đại đội phó cùng đi với tôi, anh có vẻ là một thư sinh, một thầy giáo hơn là một quân nhân.

Qua khỏi hàng rào là một bãi đất trống, dĩ nhiên đây là bãi mìn nhằm ngăn chặn Việt cộng len lỏi, đột kích vào đơn vị tôi để giải thoát tù binh. Tôi nghe những tiếng động ồn ào từ các đơn vị bạn. Tiếng động cơ xe gầm rú. Trong bóng đêm, phải nhìn qua bãi đất trống thế mà tôi vẫn thấy sinh hoạt ở hai đơn vị phải, trái của tôi rất nhộn nhịp. Tôi hỏi bâng quơ:

– Họ làm gì bên đó?

– Chắc họ cũng sửa soạn di tản đó, Đại úy.

– Mình lái xe sang họ coi được không?

– Bây giờ giới nghiêm rồi. Dĩ nhiên là mình đi được nhưng không biết ai sẽ tiếp Đại úy bây giờ.

– OK. Sáng mai tôi muốn qua các đơn vị bạn để thăm hỏi tình hình.

*

Ngày N + 12, 1 giờ sáng

Gấp tất cả các báo cáo chi tiết của ban lại, tôi đọc hờ hững những tập “Nhật ký đơn vị”, lật qua lật lại đọc những biến cố lớn nhỏ đến với đơn vị từ ngày thành lập. Tôi đọc để mà đọc, bởi không biết để làm gì. Lạ nhà khó ngủ, lo sợ, đủ mọi chuyện. Những tiếng động ồn ào từ các đơn vị bạn càng lúc càng dữ dội.

Tôi ngồi dậy, đi xuống ban quân xa. Thượng sĩ Trưởng ban cùng cả tiểu đội lính đang quần thảo với chiếc xe GMC có citern nước.

Họ đã tháo được hết các đai sắt. Bây giờ là lúc trục nó xuống. Thấy tôi người hạ sĩ già hơn hai mươi năm quân vụ chạy lại chào, tôi hỏi thêm về những chiếc xe còn lại, ông ta trả lời:

– Chiếc này coi như xong. Còn chiếc kia hơi rắc rối, nhưng tôi hứa với Đại úy chiều mai mình có ba chiếc GMC chạy ngon lành, không thua gì xe của Quân vận.

*

Ngày N + 12, 7 giờ sáng

Tôi choàng tỉnh dậy, mặt trời đã lên cao, đêm qua tôi trằn trọc mãi, tới gần sáng mới thiếp đi một giấc dài rất nặng nhọc.

Mới tháng ba mà nắng đã đổ lửa trên đầu. Đơn vị lại nằm lọt giữa một khu thấp, nên nóng dữ dội. Đã từ gần tháng nay, tôi quen ngủ với quân phục trên người. Những hôm nằm gần đập Đồng Cam, có hôm còn không cởi cả giày. Đánh răng, súc miệng xong tôi bước ra bàn giấy. Một tờ báo để ngay ngắn bên cạnh chồng hồ sơ trình ký. Ngay trang đầu là hình ảnh tơi tả của đoàn người về từ liên tỉnh lộ 7. Một bài thật dài về vụ rút lui này, một bài khác về tình hình vùng I, và sau cùng, một bài nữa về tình hình vùng IV.

Nói chung tình hình vô cùng đen tối. Tôi để ý một bài nhỏ nhưng nó không kém quan trọng tới Việt Nam, đó là quốc hội Mỹ đang biểu quyết ngân sách viện trợ. Quốc hội Mỹ thông qua một ngân khoản ba trăm triệu Mỹ kim mà họ gọi là “viện trợ nhân đạo”, nhưng viện trợ quân sự thì còn đang bàn cãi chờ biểu quyết. Đây là lần đầu tiên tôi thấy danh từ “viện trợ nhân đạo”. Trước giờ chỉ có “viện trợ kinh tế và quân sự”. Nam Việt Nam ngoài những bất lợi quân sự đối với kẻ địch là Việt cộng, đang chịu một trận chiến nữa với những người bạn, đó là trận chiến của những từ ngữ ngoại giao. Tôi e rằng trong khu rừng từ ngữ ngoại giao này chúng ta lại một lần nữa thất bại. Lại một lần nữa chúng ta lạc nẻo đường về.

Trung úy Đại đội trưởng đại đội Quân cảnh chuyên trách tù binh bước vào với vẻ mặt hốt hoảng:

– Đại úy, hai đơn vị bên cạnh mình họ rút hết rồi. Dân chúng đang hôi của ở đó. Để tôi đưa Đại úy đi một vòng chung quanh các đơn vị bạn.

– Không cần nữa. Ông gọi ngay hộ tôi ông Tiếp liệu và Quân xa lên gặp tôi. Mời cả bác sĩ Huấn nữa. Riêng ông thông báo cho đại đội của ông tôi sẽ cho di tản vợ con binh sĩ vào Nha Trang đúng 1 giờ trưa nay. Chỉ thị cho binh sĩ chỉ mang quần áo mà thôi.

*

Ngày N + 12, 8 giờ 30 sáng

Tất cả sĩ quan có mặt đầy đủ nơi phòng tôi. Tôi không rào đón gì cả, nói ngay:

– Tiếp liệu còn bao nhiêu gạo dự trữ, chia đều ra các bao cát, mỗi đầu người mười ký gạo.

– Mình còn nhiều hơn số đó, Đại úy.

– Càng tốt, phát cho mỗi người mười lăm ký. Nghĩa là mỗi người một bao cát đầy và một túi hành lý gồm quần áo, chăn màn, v.v. Ông cấp sự vụ lệnh cho bác sĩ Huấn Trưởng đoàn xe vào Nha Trang liên lạc với kho Y dược trong đó. Chọn cho tôi bốn tài xế để lái hai xe GMC và hai xe Dodge, với một sự vụ lệnh khác trở về vào ngày mai. Tôi muốn một sĩ quan đi vụ này, dẫn đoàn xe về trại tị nạn Cộng sản ở Nha Trang xong trở về vào ngày mai. Đừng quên là cả đơn vị chờ xe về mới có xe đi tản. Bất cứ thiếu úy nào đi cũng được ngoại trừ Đại đội trưởng, Điều hành và Tiếp liệu. Ban Điều hành thảo cho tôi một phúc trình về tình hình địa phương, xin lệnh Bộ Chỉ huy Quân cảnh cho phép rút toàn đơn vị vào Quy Nhơn. Ở Phú Tài bây giờ mình trống hai mạng sườn, sẽ là cái đích thu hút địch tấn công. Tôi không nghĩ là mình sẽ có công điện trả lời. Không một ai dám trả lời thuận đâu. Nhưng một cách gián tiếp, tôi muốn Bộ Chỉ huy biết tôi đang làm gì, định làm gì. Tôi cũng không nghĩ là phúc trình mình gửi về trong đó kịp. Bây giờ tôi vào Tiểu khu để xin rút lui vào trong đó.

– Mình sẽ giải quyết hai bảy tù binh như thế nào?

– Ngay bây giờ tôi sẽ xin Tiểu khu giải tán trại Quân kỷ. Giờ này phải tống mấy ông nội say rượu, vô kỷ luật, trễ phép, đào ngũ, v.v. đó ra ngoài mặt trận. Ít nhất mình có chỗ trống để nhốt tù binh an toàn. Đồng thời quân số tham chiến tại chỗ có thể tăng lên cả tiểu đoàn, nếu tôi thuyết phục được Tiểu khu mở cửa cả Quân lao ra. Tôi sẽ về lại trại trước một giờ. Đích thân tôi sẽ kiểm soát đoàn xe chở vợ con binh sĩ di tản trước khi khởi hành.

*

Ngày N + 12, 10 giờ sáng

Trung tá Tham mưu trưởng Tiểu khu Bình Định tiếp tôi tại văn phòng. Sau khi nghe trình bày lý do thăm viếng, tôi đi thẳng vào vấn đề:

– Xin Trung tá tăng phái cho đơn vị tôi một Đại đội Địa phương quân, để có thể phòng thủ đơn vị hữu hiệu, đồng thời giữ an ninh được một phía cho Tiểu khu Bình Định.

– Ông tưởng là tôi nặn ra người được à?

– Nếu vậy Trung tá cho tôi rút vào trong Quy Nhơn, tôi sẽ có cách tăng cường một tiểu đoàn cho Tiểu khu Bình Định.

– Quân số của ông có bao nhiêu?

– Hơn một đại đội, Trung tá.

– Thế thì ông nặn ra người à?

– Thưa Trung tá, không. Nhưng tôi đề nghị với Trung tá mình giải tán đám binh sĩ bị thọ phạt tại Đồn Quân cảnh Quy Nhơn, ở đó có cả trăm binh sĩ bị thọ phạt, cũng như những binh sĩ bị bắt vì quân phong quân kỷ ngoài phố. Nếu mình thả cả các binh sĩ đào ngũ, cũng như cưỡng bách những thanh niên trốn quân dịch trong quân lao ra, thì con số một tiểu đoàn đâu có thấm gì. Nhưng điều quan trọng nhất là vãn hồi trật tự và kỷ luật. Cả thành phố giờ này hỗn loạn vô cùng, phải đem một chút sinh khí lại cho dân chúng biết rằng quân đội còn hiện diện ở đây, phải trấn an mọi người. Tôi tin rằng đồn Quân cảnh Quy Nhơn không đủ sức để làm việc này, họ còn đang điên đầu lên ở ngoài bến tàu cũng như ở phi trường.

– Anh theo tôi vào gặp Đại tá Tiểu khu trưởng.

*

Ngày N + 12, 10 giờ 35 sáng

Tôi ngồi chờ ở phòng đợi. Trung tá Tham mưu trưởng vào gặp Đại tá Tiểu khu trưởng một mình. Mười phút sau, tôi được mời vào. Đại tá Tiểu khu trưởng hỏi ngay:

– Anh còn tù binh không?

– Thưa Đại tá còn, tôi còn 27 tù binh mới bị bắt trong những vụ chạm súng gần đây.

– Anh xử bắn họ hết xong rồi tôi cho rút vào trong này.

– Thưa Đại tá tôi không thể làm vậy được. Đó không những vi phạm quy ước Genève về tù binh chiến tranh, mà cũng không giải quyết được gì. Đó là việc riêng của đơn vị tôi. Xin Đại tá để tôi được phép tự lo liệu.

– Nếu anh rút vào sẽ nhốt họ ở đâu?

– Thưa Đại tá, như tôi đã trình bày với Trung tá Tham mưu trưởng, tôi sẽ nhốt họ ở phòng giam của đồn Quân cảnh Quy Nhơn. Nếu thiếu an toàn tôi sẽ nhốt họ ở quân lao, trong trường hợp Đại tá quyết định đẩy các đào binh ra ngoài mặt trận.

– Anh cho tôi biết qua kế hoạch vãn hồi trật tự lại thành phố.

– Thưa Đại tá, chúng tôi có đủ người và xe để đi tuần 24/24, mỗi lần đi là sáu xe Jeep do một sĩ quan đi trên xe dẫn đầu, và một xe gắn đại liên M60 đi sau cùng, chạy với tốc độ thật chậm, đồng thời phóng thanh một nội lệnh, một nhật lệnh hay thông cáo gì đó do Đại tá ký. Nội dung trấn an dân chúng, kêu gọi đồng bào bình tĩnh và kêu gọi quân nhân đào ngũ, cũng như thanh niên bất phục tùng trình diện tại đồn Quân cảnh Quy Nhơn. Cuối ngày tôi sẽ cho dẫn sang phòng 1 Tiểu khu làm thủ tục nhập ngũ. Ngoài ra, kể từ bây giờ, tôi cắt một xe Jeep hộ tống lúc nào cũng đi theo Đại tá. Đã đến lúc mình phải xử bắn tại chỗ những binh sĩ đào ngũ cũng như những quân nhân cướp bóc dân chúng. Binh sĩ của tôi sẽ làm việc này, giúp Đại tá củng cố lại cái uy vũ của quân đội. Phải chặn đứng sự hoảng sợ. Phải đứng lại chiến đấu chứ không bỏ chạy nữa.

– Rồi ông về thu xếp đơn vị đưa vào trong này, nhưng ông sẽ đóng ở đâu?

– Thưa Đại tá tôi sẽ tạm đóng ở đồn Quân cảnh Quy Nhơn. Tôi đã cho người liên lạc về việc đó rồi. Thưa Đại tá, một nửa tiếng nữa tôi sẽ cho xe Jeep hộ tống Đại tá trình diện ở đâu?

– Cho họ trình diện ở đây được rồi.

*

Ngày N + 12, 11 giờ sáng

Tôi tạt vội qua nhà, Phúc đương giúp vợ tôi và má tôi thu xếp nhà cửa, có một người lính nữa phụ với Phúc dùng những thanh gỗ đóng bít các cửa sổ và cửa sau. Mặt trước là cửa sắt kéo ra kéo vào, được trang bị với bốn, năm cái khóa to tướng. Vợ tôi mắt rươm rướm, chạy vô chạy ra nhưng chẳng làm gì ra hồn. Tôi thấy bà cụ xách theo một cái quạt máy, chắc định dùng đỡ khi vào Nha Trang. Tôi định cản nhưng lại thôi. Lát nữa mới đúng là lúc bỏ cái quạt lại.

*

Ngày N + 12, 12 giờ trưa

Đoàn xe đã nổ máy, một số vợ con binh sĩ đồn Quân cảnh Quy Nhơn và Đại đội D2 Quân cảnh cũng có mặt đi ké. Họ mang theo một số đồ cồng kềnh, tôi bảo họ bỏ xuống, vài người xuống xe, họ không muốn đi nữa. Tôi thầm cám ơn các binh sĩ của tôi, vợ con họ không một ai mang theo cái gì ngoài ít quần áo và mỗi người một bao gạo nhỏ. Ai nấy đều mang theo lương khô mới được cấp phát sáng nay. Mỗi người trên xe chỉ có một túi đồ. Tôi dịu dàng bảo vợ tôi:

– Em để cái quạt lại cho anh dùng, ở đây nhà tôn nóng quá. Vào trong đó em chỉ ở nhà bác Năm một, hai ngày mà đã có quạt trần.

Vợ tôi biết ý giao ngay cho Phúc mang xuống.

Tôi dặn bác sĩ Huấn:

– Đoàn xe sẽ trở về ngày mai, ông cứ yên trí lo thuốc men dụng cụ cho đầy đủ.

Quay sang Thiếu úy Đại đội phó tôi nói:

– Chậm lắm là bốn giờ chiều mai tôi muốn thấy ông mang bốn chiếc xe này về. Nó là sinh mạng của cả đơn vị trong những ngày sắp tới. Đồn Quân cảnh Quy Nhơn chỉ có toàn xe Jeep thôi. Chỉ trừ trường hợp ông bị phục kích, bị giật mìn thì không kể. Ông nhớ là chậm trễ lắm là bốn giờ chiều ngày mai phải có mặt. Đừng để mọi người thất vọng.

– Anh Ba yên tâm. Em sẽ về đúng giờ.

Xiết tay vợ tôi, hôn các con tôi xong, tôi trở về đứng ở đầu thềm, nhìn đoàn xe khuất dần, khuất dần về phương Nam cho tới khi khuất hẳn. Tôi quay vào bảo Phúc:

– Chú lái xe cho anh ra đồn Quân cảnh.

– Anh ăn hủ tíu xong sẽ đi. Em đã hâm nóng rồi. Hồi nãy chị đi mua phở cho anh không được. Anh ăn xong mình đi ngay.

Trong lúc tôi ăn, Phúc loay hoay với một khẩu súng M18. Đây là súng M16, nhưng có gắn thêm một khẩu M79 và dùng hai cò khác nhau. Tôi hỏi Phúc:

– Cái này ở đâu?

– Súng của Thiếu tá Thanh để ở trong tủ quần áo. Hồi sáng nay em dọn lại tủ để có chỗ cất đồ cho anh thì thấy nó.

– Thiếu tá Thanh còn gì trong đó không?.

– Còn toàn đồ lặt vặt, em lấy xếp lại một chỗ rồi. Bác có đưa em năm ngàn bảo lo đồ ăn cho anh. Em không cầm, song chị Hải cứ bắt em cầm. Bác muốn đưa nhiều nữa nhưng em nói sao Bác không đưa thẳng cho anh? Bác với chị thương anh dễ sợ đó.

– Ông già vợ tôi có hai vợ, bà cụ không hẳn đã thương tôi đâu. Lo tôi giống ông cụ thì có lẽ đúng.

Ngày N + 12, 2 giờ 30 chiều

Trung úy Trần Thanh Kiệm, Đại đội trưởng Đại đội D2 Quân cảnh kiêm Trưởng đồn Quân cảnh Quy Nhơn đón tôi tại đơn vị. Kiệm vốn là nhân viên cũ của tôi từ năm 1964 ở Quảng Ngãi. Cả hai cùng ra trường một dịp, Kiệm xuất thân khóa 1 Hạ sĩ quan Điều tra Tư pháp, còn tôi khóa 15 Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức, kế đó năm 1965 Kiệm cũng theo tôi đi Trung đội Kiểm soát tài nguyên ở Hậu Nghĩa. Sau cùng mỗi người một ngả, anh được theo học khóa 1 Sĩ quan Điều tra Tư pháp, ra khỏi ngành tư pháp về lại tiểu đoàn tôi từ khoảng một năm nay. Tôi cảm thấy an tâm khi gặp Kiệm ở đây hơn là một người khác. Tôi hỏi Kiệm:

– Anh có nhận được công điện bổ nhiệm tôi của Bộ Chỉ huy gửi cho anh một bản không?

– Có, Đại úy. Nói ngay không có công điện đó, tụi tôi cũng vốn là nhân viên cũ của Đại úy, huống hồ trong tình trạng này. Không biết mấy anh em trong Trại giam có trình cho Đại úy biết không? Tôi cũng nóng ruột chờ ông ra mãi. Ngày nào cũng hỏi thăm. Mãi tối hôm qua mới biết là Đại úy ra ngoài này rồi. Lúc đó đã chín giờ tối, muốn xuống đó gặp Đại úy lắm, nhưng nói thật Đại úy đừng cười. Đây xuống đó cả chục cây số, mà tình trạng này đi đêm cũng ngại lắm. Sáng nay tôi lại phải có mặt ở bến tàu. Tình hình bi đát quá. Tôi sợ mình thua mất. Mùa hè 72, tôi ở Sài Gòn, nên không rõ các nơi khác như thế nào, nhưng mấy hôm nay tôi quan sát ở bến tàu chỗ Bộ Chỉ huy Tiếp vận, di chuyển một số quân dụng nặng vào Nam, tôi thấy mình hết thuốc rồi, Đại úy.

– Nếu tôi hỏi qua tình hình đơn vị của anh thì có gì trở ngại không?

– Không, Đại úy. Vả lại, bây giờ theo công điện, Đại úy là cấp Chỉ huy của tôi ở ngoài này rồi. Bây giờ mà giao được luôn cho Đại úy tôi còn mừng nữa là khác.

– Tôi không muốn xen vào nội bộ của anh. Tôi chỉ muốn biết để phối hợp hoạt động với anh mà thôi. Chậm lắm là sáng mai tôi sẽ dọn cả đơn vị tôi ra ngoài này. Tôi đã trình với Đại tá Tiểu khu trưởng, anh cho phóng thích mấy thằng ôn vật bị giam quân kỷ trong đồn ra, không cần biết họ ở đâu. Ở đâu cũng là lính. Cho người dẫn họ sang phòng 1 tiểu khu, họ sẽ được tái võ trang, phân phối tới các đơn vị tại đây, đưa ra tham chiến tại mặt trận Bồng Sơn ngay chiều nay.

– Đại úy để tôi làm tờ trình về Bộ Chỉ huy đã.

– Tôi chịu trách nhiệm về việc này. Mình đâu có thả họ lấy tiền. Mình mang họ qua phòng 1, giờ này là lính thì phải chiến đấu. Mình có bao nhiêu quân phạm cả thảy?

– Còn cả hơn trăm người. Đủ mọi thành phần. Mà tôi sợ rằng mình có giao cho phòng 1 đưa họ ra mặt trận, họ cũng sẽ chuồn luôn. Đã mất người lại mất luôn cả súng nữa.

– Đó không phải việc của mình. Tiểu khu khi giao cho các đơn vị tác chiến chắc họ cũng có cách của họ. Vả lại mình sẽ lập một tuyến trì binh1 ở đằng sau mặt trận. Kể từ ngày mai

1 Tuyến trì binh là một danh từ hoàn toàn có tính cách quân sự. Trì binh tức là những binh sĩ trì hoãn ra mặt trận. Tuyến trì binh là một hoạt động của quân cảnh nhằm bắt những binh sĩ lén lút ở lại đằng sau mặt trận. Anh sẽ có thêm cả trăm nhân viên do tôi cung cấp. Vả lại súng mất nhiều rồi, mất thêm ít nữa cũng không sao.

– Đại úy còn bao nhiêu tù?

– 27 người, tôi sẽ nhốt ở trại quân kỷ của ông. Tôi sẽ xin với Đại tá phóng thích cả quân phạm ở trong quân lao ra mặt trận. Nếu ông ấy đồng ý tôi sẽ nhốt tù ở đó an toàn hơn. Và nếu phải rút lui thì còng họ ở lại đó. Chiều nay tôi muốn nói chuyện với toàn thể binh sĩ của ông được không? Vào khoảng sáu giờ.

– Được, Đại úy. Đại úy định nói về vấn đề gì vậy?

– Tôi cho họ một ít kinh nghiệm về cuộc rút lui liên tỉnh lộ 7 về đây. Tốt nhất là đừng rút lui. Mà nếu phải rút lui, tôi muốn đơn vị của ông và tôi đã được sửa soạn kỹ lưỡng, và tốt nhất là đoán đúng ngày giờ để rút trước. Chỉ cần ba tiếng đồng hồ thôi. Những hỗn loạn phút ban đầu là địa ngục. Tôi đã thấy địa ngục một lần kéo dài cả tháng rồi. Tôi không muốn thấy nó nữa. Thà đứng lại chiến đấu tới phút chót. Tôi thật nản cái cảnh kéo lê súng mà chạy mà chạy như một con chó cụt đuôi. Bây giờ tôi về lại Trại giam. Tối nay anh soạn thảo cho tôi một kế hoạch tuần tiễu đặc biệt. Anh dành hết binh sĩ của anh ở bến tàu để điều hòa ngoài đó. Số còn lại nhập với đơn vị tôi chia làm ba toán. Một toán đi tuần, một toán trừ bị ở tại trại, một toán hạ phiên được nghỉ, đi ăn uống lo thu dọn đồ đạc, v.v. Ngày mai tôi sẽ dọn hẳn ra và mình làm việc chung.

Phúc vừa nổ máy, xe dợm chạy thì Trung úy Kiệm chạy ùa từ trong văn phòng ra. Xe ngừng lại. Kiệm đưa cho tôi một gói giấy miệng nói:

– Anh em ở Đồn Quy Nhơn định mời anh Ba Râu đi ăn một bữa, nhưng giờ này chắc không được. Biếu Đại úy cặp rượu uống chơi.

– Cứ giữ ở đây, mai tôi ra mình uống suông cũng được.

– Kệ nó, ông cầm xuống đêm nay thỉnh thoảng tu một hớp đâu có chết ai mà Đại úy sợ.

*

Ngày N + 12, 5 giờ chiều

Thượng sĩ Trưởng ban Quân xa lên gặp tôi tại văn phòng, và báo cáo là đã sửa được thêm hai xe nữa. Nhưng ông chỉ bảo đảm một chiếc chạy tốt thôi. Chiếc còn lại ông ta không dám chắc.

Tôi thở ra nhẹ nhõm. Nếu ngày mai, ngày mốt xe ở trong Nha Trang về không kịp cũng có cái để mà lết đi. Suốt hai hôm nay tôi chạy đua với cái đồng hồ, bây giờ mới có một chút an ủi nhỏ. Tôi vỗ vai người hạ sĩ quan già đầy thân ái, miệng nói:

– Đâu có cần bốn ngày phải không ông? Chỉ sợ mình không có lòng làm công việc đó, đừng có nói bốn ngày, nếu ông không muốn sửa nó sẽ nằm đó thiên thu. Vợ con ông đi hết chưa?

– Đi rồi, Đại úy. Tội nghiệp bà ấy với mấy đứa nhỏ. Tôi ở lính đã hai mươi lăm năm, nhưng chưa bao giờ phải sống xa vợ. Hồi xưa đi thụ huấn thì đương nhiên ai cũng phải xa gia đình. Đi công tác nhiều lắm là vài ba ngày.

– Đừng có mong gặp sớm. Gặp sớm ngày nào là chạy ngày đó. Tôi muốn đứng lại. Đứng lại để chiến đấu như một người lính.

Tôi rủ ông xuống câu lạc hộ đơn vị kiếm một chai bia uống chơi.

Mấy binh sĩ đang ngồi chơi domino cho qua chuyện thấy tôi vào đều có vẻ mất tự nhiên. Tôi sà xuống ngồi gần ngay họ, và hỏi:

– Đánh ăn tiền hay ăn chơi?

Dĩ nhiên họ đánh ăn tiền song vài ba chục một ván domino một trăm điểm đâu có thể coi là cờ bạc. Một thiếu úy và một chuẩn úy thật trẻ đến ngồi bàn tôi. Họ cũng có vẻ lúng túng. Tôi nói chuyện bâng quơ với mọi người. Tôi rủ cả hai đi theo tôi ra Đồn Quân cảnh Quy Nhơn. Tôi dặn Trung úy Đại đội trưởng thay mặt tôi tập họp điểm danh quân số 100%. Kể từ bây giờ mỗi quân nhân phải có trong túi quân trang hai bộ quân phục, lương khô được cấp phát và vũ khí đạn dược đầy đủ.

Còn quá sớm để tới đồn Quân cảnh Quy Nhơn, tôi đi đường vòng hướng đông qua ngả kho đạn, qua những cánh đồng trống, qua một con sông nhỏ và ruộng hai bên đường lấp lánh ánh mặt trời. Cảnh tịch mịch một cách kỳ lạ. Vắng người, vắng cả chó, mèo, trâu bò, xe cộ. Bầu không khí sặc mùi ảm đạm thê lương. Xa về hướng tây, những ngọn núi đầu tiên của quận lỵ Phú Phong nhô lên ngạo nghễ. Tôi nghĩ đến ngọn cờ đào của anh em Tây Sơn. Tôi nhớ đến bài thơ của Ngọc Hân công chúa khóc chồng, tôi nhớ đến tướng Võ Văn Dũng, một tướng của Quang Trung Hoàng đế trên đường đi sứ Trung Hoa về đã khóc chủ soái mình bằng bốn câu thơ tự đáy lòng:

Bố y phất tích ngũ niên trung

Kim cổ tri vi sự bất đồng

………………………………………….

Bất ư Đường Tống thuyết anh hùng

Tôi giận mình không làm sao nhớ hết được bốn câu thơ chữ Hán này, nhưng tôi biết chắc ý của nó: “Từ áo vải phất cờ nổi lên có năm năm. Trước và sau không có ai như thế. Nếu Trời cho vua ta sống thêm một giáp nữa. Thì bọn Đường, Tống đâu có đáng xưng hùng.” Bối cảnh lịch sử hiện nay cũng Nam Bắc chiến tranh. Đằng sau lưng miền Bắc, chẳng những con cháu của bọn Đường, Tống, Hán, Mãn lại còn thêm bọn bạch quỷ Nga-la-tư. Đằng sau lưng miền Nam, bọn tài phiệt tư bản đang bỏ của chạy lấy người. Chiến tuyến của miền Bắc bây giờ là quận Bồng Sơn. Mắt tôi hoa lên, tôi nhìn những đám mây nổi cuồn cuộn giữa trời. Những đám mây tạo thành những hình thù kỳ lạ trên trời cao, có lúc những đám mây này trông giống như hình ảnh đoàn quân của vua Quang Trung hai thế kỷ trước, với voi lồng phía trước, ngựa hý đằng sau, những binh sĩ nằm cáng chạy lúp xúp trong đêm tối. Hãy đốt lửa lên, nổi trống trận lên, tôi muốn nghe tiếng trống thúc vang hồi, tôi muốn nghe nhạc võ Tây Sơn.

– Anh có muốn ghé qua nhà không? Em đưa anh về nghe.

– Nhà với cửa gì, chỉ sợ không còn mạng mà về nhà thôi.

Tôi sờ vào túi, chẳng còn một điếu thuốc lá, quay xuống dưới tôi hỏi:

– Có cậu nào còn thuốc lá cho tôi một điếu.

– Còn sớm mà anh, Bác với chị Hải dặn em là mỗi chiều ghé qua nhà vài phút thôi.

– Cái thằng này gặp bà cụ có hai ngày nay mà suốt ngày Bác với chị Hải. Cho anh lại đồn.

Tôi thấy mình vô lý, có thể vì Phúc hỏi đúng vào lúc tôi đang như thiếp đi và tưởng chừng như tôi đã lạc bước trở về hai thế kỷ trước, làm một tên lính chạy lúp xúp với cái cáng đè nặng trên vai, nhưng lòng vui bão táp. Tôi ân hận nên quay sang nói với Phúc dịu dàng:

– Mày cho anh với hai ông này xuống đồn Quân cảnh, rồi tạt qua nhà một chút độ nửa tiếng quay lại đón anh được rồi.

– Anh có muốn ăn gì không? Bác nói trong tủ lạnh có nhiều đồ ăn Bác mua sẵn cho anh đó.

– Lại Bác với chị Hải nữa rồi. Anh không thấy đói, nhưng có chai rượu ông Kiệm mới cho. Mày kiếm cái gì nhậu được đem về trại tối nay mấy anh em mình lai rai chơi.

*

Ngày N + 12, 9 giờ tối

Tôi chán chả muốn xuống câu lạc bộ ăn cơm nữa. Có chai rượu của Kiệm cho, tôi rủ một số lính cũ, cùng tất cả sĩ quan về phòng tôi nhậu. Phúc không biết đào ở đâu ra một con gà quay, câu lạc bộ mang lên một thố tôm khô, củ kiệu. Ly tách không có, tôi bảo mọi người uống bằng cái nắp chai vậy. Chuyền nhau mỗi người một tua. Hết tua này tới tua khác. Ai có việc thì đi làm, xong việc hãy trở lại. Đây là đêm cuối cùng của đơn vị này. Ông sĩ quan Tiếp liệu hỏi toàn những câu lẩn thẩn về sổ sách kế toán giải quyết làm sao, v.v. Tôi bảo một chuẩn úy trẻ:

– Cậu chạy ra ngoài, lấy cái xe của tôi đi một vòng coi lính gác, ráng giữ vững đơn vị cho tới sáng mai. Cũng chả có gì lo đâu, Việt cộng thì còn đang lo tấn công cỡ đại đơn vị, họ không thèm tấn công các doanh trại đâu, nhưng cứ cẩn thận là hơn.

– Đại úy, mai mình rút vào trong Quy Nhơn, có phải phá hủy những máy điện không?

– Phá hủy làm gì, máy điện để cung cấp ánh sáng chứ Việt cộng có dùng nó để cho điện giật bọn mình chết đâu mà sợ. Có mấy khẩu đại liên 50, anh đem hết hộp cơ bẩm, vất xuống giếng, đạn cũng bỏ xuống giếng luôn. Biết đâu mình có ngày về trại còn biết chỗ vớt lên mà xài.

– Mai mấy giờ mình đi Đại úy?

– Mình không rút luôn một lần đâu, cứ thong thả mỗi lần đi như đi chợ mười, mười lăm người một chuyến GMC, dẫu sao mình chỉ thực sự bỏ khi đoàn xe ở Nha Trang về. Sáng mai cho thiêu hủy hết những hồ sơ không cần thiết. Dặn lính đừng có từ biệt người quen, chủ nợ gì cả. Cứ tà tà mà đi. Sáng mai bảy giờ đại đội cho tôi một trung đội tăng phái đồn Quân cảnh Quy Nhơn trước. Trung úy Kiệm sẽ giao cho ông năm chiếc xe Jeep để đi tuần, cộng với một chiếc của mình là sáu.

Ông Thiếu úy ở ban Nhân viên là trưởng toán này. Tôi có đặn Trung úy Kiệm ở ngoài đó rồi. Anh gắn cho tôi hai khẩu M60 trên xe chạy đầu và xe chạy cuối. Giữ tốc độ tuần tiễu độ mười cây số giờ. Đi khắp hang cùng ngõ hẻm.

– Hết rượu rồi Đại úy.

– Hết thì đi ngủ. Đào đâu ra nữa bây giờ?

*

Ngày N + 13, 8 giờ 30 sáng

Xuất phát từ đồn Quân cảnh Quy Nhơn một toán tuần tiễu gồm sáu xe Jeep. Một xe có gắn đại liên M60 đi đầu và một xe gắn đại liên đi đoạn hậu. Mỗi xe bốn nhân viên quân cảnh trang bị sắc phục Quân cảnh hành sự, băng Quân cảnh tay trái, nón sắt hai lớp có lưới, đi thật chậm quanh những khu đông đúc nhất. Viên thiếu úy ngồi trên xe đầu, dùng loa phóng thanh đọc một bản thông cáo:

– Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Đây là thông cáo đặc biệt của Đại tá Tiểu khu trưởng Tiểu khu Bình Định kiêm Thị trưởng thị xã Quy Nhơn:

“Cùng toàn thể đồng bào của thị xã Quy Nhơn. Như toàn thể đồng bào đã biết, Bắc quân đang dốc toàn lực để xâm lăng miền Nam. Sau những bất lợi ban đầu, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã củng cố lại hàng ngũ, chúng ta đang chặn đứng đà tiến của Bắc quân tại Bồng Sơn. Chúng ta sẽ phản công để chiếm lại những phần đất đã mất. Tôi kêu gọi toàn thể đồng bào hãy bình tĩnh, giới hạn các di chuyển không cần thiết. Lệnh giới nghiêm bắt đầu từ 8 giờ tối tới 6 giờ sáng hôm sau. Tôi tha thiết kêu gọi toàn thể đồng bào triệt để thi hành thông cáo này, ngõ hầu mang trật tự về cho thị xã chúng ta, để quân đội rảnh tay chặn đánh những đạo quân tiền phong của Cộng sản Bắc Việt đang xuất hiện ở ngưỡng cửa thị xã chúng ta.

Quy Nhơn, ngày… tháng… năm…

Đại tá Tỉnh trưởng Quy Nhơn, kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Bình Định.”

Từ một xe Jeep khác, một giọng đặc biệt Bình Định vang lên, tôi chọn Trung úy Đại đội trưởng để đọc bản văn thứ hai này, bởi lẽ ông là người Bình Định, sinh ra và lớn lên ở đây:

“Cùng toàn thể thanh niên của thị xã Quy Nhơn nói riêng và tỉnh Bình Định nói chung!. Chính nơi đây hai thế kỷ trước Quang Trung Hoàng đế đã phất ngọn cờ đào để dựng lên nghiệp lớn. Chính nơi đây ca dao tục ngữ đã xác định tinh thần thượng võ của chúng ta:

Ai về Bình Định mà coi

Đàn bà cũng biết múa roi đánh quyền.

Hỡi các con cháu của Quang Trung Đại đế! Chúng ta không thể để cho phương Bắc, tay sai của con cháu Tôn Sĩ Nghị đặt chân chúng lên phần đất của Quang Trung Hoàng đế. Chúng ta phải chặn đứng bọn tay sai của đế quốc Cộng sản lăm le thôn tính chúng ta. Đất nước đang lâm nguy, và Quy Nhơn, Bình Định thân yêu của chúng ta đang nằm trong tầm đại bác của bọn Cộng sản vô thần.

Hỡi thanh niên của Bình Định! Các bạn là con cháu chẳng những của Quang Trung Đại đế, lại còn là hậu duệ của những Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, những danh tướng xa xưa đã từng đem máu xương mình, trộn vào mảnh đất cắt rốn chôn nhau. Hỡi các quân nhân còn đang nghỉ phép tại nhà, hỡi các thanh niên bất phục tòng và đào ngũ! Các bạn hãy mạnh dạn đứng lên bảo vệ chính đất đai của các bạn, chính gia quyến của các bạn. Hãy mạnh dạn đứng lên, những lỗi lầm cũ nếu có sẽ được xóa bỏ. Hãy đứng lên, an nguy của tỉnh nhà không phải chỉ nằm trong tay quân đội mà thôi. Nó còn nằm ngay trong tay của chính các bạn. Phòng tuyển mộ nhập ngũ của Tiểu khu Bình Định cũng như Quân trấn Quy Nhơn lúc nào cũng mở cửa để đón các bạn tình nguyện trong đoàn quân chống giữ tỉnh nhà.”

Tôi chưa bao giờ viết diễn văn, thông cáo, và đã phải mất bốn tiếng đồng hồ đêm qua, viết và xé không biết bao nhiêu lần mới thành hai bản văn tương đối tàm tạm này. Đọc lại nó tôi rất ngượng, dầu thế nào cũng phải làm một cái gì. Ít hay nhiều tôi rất thành thực trong hai bản thông cáo đó, tôi không bưng bít sự thật, Cộng sản hiện mới chỉ ngấp nghé ở Bồng Sơn, tôi không nói láo là quân ta đang chiến thắng. Tôi ngượng ở chỗ không nói hết sự thật là chúng ta đang bại. Tôi có ý tìm ông sĩ quan Trưởng phòng 5 của Tiểu khu Bình Định, nhưng không thể gặp được ông ta. Chính ra loại văn chương thông cáo này là nhiệm vụ của phòng Tâm lý chiến. Lẽ ra họ phải có một xe phóng thanh đi với chúng tôi, cực chẳng đã tôi đành phải viết hai bản thông cáo này và sử dụng máy phóng thanh xách tay của đơn vị.

*

Ngày N + 13, 11 giờ sáng

Trung tá Tham mưu trưởng Tiểu khu Bình Định muốn gặp tôi ở đầu dây điện thoại. Ông ngỏ ý khen ngợi và kêu tôi tiếp tục như vậy, ông ghi nhận thành phố có vẻ có trật tự lại. Ông đã chỉ thị cho Cảnh sát dã chiến gác trên các cao ốc trong thành phố.

Ông hỏi có cần ông giúp gì không? Được dịp, tôi xin ông lương khô và nhiên liệu càng nhiều càng tốt. Ông cho biết nhiên liệu thì nhiều vô số kể, nhưng lương khô thì ông không biết có hay không. Tuy nhiên ông cũng vẫn ký giấy cấp phát cho đơn vị tôi 500 khẩu phần lương khô. Lãnh được hay không là do còn hay hết.

(Xem tiếp kỳ sau)

Comments are closed.