Vũ Thư Hiên
Thế là Như Phong Lê Văn Tiến không còn nữa.
Nhà báo Nguyễn Xuân Nghĩa viết cho tôi: "Ông Như Phong đã ra đi lúc 21g30 tại Virginia, tức là cách đây đúng một giờ. Tôi không gọi cho ông, vì bây giờ là 4 giờ sáng của ông".
Vào lúc những ngón tay Nguyễn Xuân Nghĩa mổ cò trên bàn phím thì tôi đang ngủ say trong nhịp rung khe khẽ của con tàu tốc hành Paris-Berlin. Sau e-mail của Nguyễn Xuân Nghĩa là một loạt e-mail khác báo tin buồn của các anh Trần Huy Bích, Trần Thanh Hiệp, Trọng Kim, Phạm Trần, Tưởng Năng Tiến…
Linh tính dựng tôi dậy. Tôi đọc. Tôi ngơ ngác. Tôi bần thần.
Trên cửa kính tuyết tan nhoè nhoẹt như những dòng nước mắt đục. Tôi tì trán lên kính cửa lạnh mà nhìn ra những mảng tuyết bẩn trên nền cỏ xơ xác vùn vụt trôi mà ngán ngẩm cho kiếp phù du của đời người.
Tôi biết Như Phong ngã bệnh từ nửa năm nay. Anh không còn làm việc được với cường độ trước kia, một cường độ làm cho các bạn cầm bút phát ghen. Bệnh của anh là nan y – ung thư phổi. Trong lần nhập viện đầu tiên người ta đã đoán trước cho anh một kết cục bi đát. Tôi gọi điện hỏi thăm thì Như Phong bảo y học hiện đại đã chữa khỏi khoảng 50% trường hợp ung thư. Tức là, như người ta thường nói: năm ăn năm thua.
Tôi chờ đợi một phép mầu – Như Phong vốn có sức khoẻ dẻo dai trong một thân hình mảnh khảnh.
Mới tuần trước, tôi tiễn anh Ðặng Văn Long tới nơi yên nghỉ cuối cùng. Anh nằm gọn trong quan tài, gương mặt gầy và chòm râu bạc, tay đặt lên vành mũ phớt trên bụng, dáng thanh thản, nhàn nhã trong chuyến viễn du cuối cùng.
Ra đi từ một làng quê ở Hải Dương, anh lính thợ ONS Ðặng Văn Long chưa một lần trở về nơi chôn nhau cắt rốn. Tổng cộng các đợt có khoảng 20.000 người Việt Nam được chính quyền thuộc địa mộ sang Pháp để làm việc trong các xưởng công binh vào đầu thế chiến II.
Sống cả đời trên đất Pháp, lấy vợ Pháp, tham gia cuộc kháng chiến của người Pháp chống phát-xít Đức, hết chiến tranh thì tự học vẽ, tự học viết, để rồi tặng lại cho đời vài cuốn sách, vài chục bức tranh khi rời khỏi cõi trần. Xa nước lâu như thế, nhưng Ðặng Văn Long vẫn là một người Việt từ bề ngoài cho chí bề trong.
Khác Ðặng Văn Long, Như Phong Lê Văn Tiến xa nước chưa lâu. Bụi đường Sài Gòn còn vương trên áo anh. Nếu tình yêu cố quốc của Ðặng Văn Long là nỗi nhớ khôn nguôi, thì trong Như Phong nó là nỗi khắc khoải của con người hành động. Anh yêu mảnh đất quê hương bằng một tình yêu mãnh liệt, khó giải thích. Ðối với anh quê hương không phải một khái niệm. Anh nghĩ về nó như nghĩ về một con người.
Tôi không biết Như Phong mặc bộ đồ gì khi ra đi và có ai bỏ vào quan tài cho anh cái bút bi và một tập giấy trắng không?
Mới tuần trước Như Phong còn gọi sang Paris hỏi tôi về nhân cách những người trong ban lãnh đạo đảng cộng sản. Mặc dầu anh chẳng tin một người cụ thể nào trong cái đám ăn hại đái nát ấy, nhưng trong anh vẫn sống dai, sống khoẻ, một hi vọng rằng rồi đây sẽ có một người nào đó trong bọn họ bất ngờ tỉnh ngộ sẽ đứng lên đưa đất nước rẽ sang ngả khác.
Như Phong nổi tiếng là một người chống cộng. Nhưng anh chỉ chống cái lý thuyết không tưởng thuần tuý đã gây ra vô vàn bi kịch trên đất nước chứ anh không chống người cộng sản. Anh không có khả năng ghét bỏ hay căm thù để chống bất cứ con người cụ thể nào. Trong anh không có trái tim thù hận. Bằng chứng là anh không ngớt hi vọng ở điều kỳ diệu: rồi sẽ có một lúc nào đó những người cộng sản đang nắm chính quyền sẽ nhận ra rằng đánh đồng quyền lợi của một đảng với quyền lợi của Tổ quốc là ngớ ngẩn, là mù quáng. Còn mù quáng hơn nữa khi họ đặt đảng của họ lên địa vị cai trị dân tộc.
Về chuyện lý thuyết cộng sản giữa hai chúng tôi có nhiều cuộc tranh luận, những bất đồng cũng nhiều không kém. Trong thâm tâm, tôi thèm có được khả năng hi vọng như anh.
Những người có tuổi không hay khóc.
Không mấy ai biết rằng ở những người có tuổi, nếu ta tránh chữ già, khóc theo cách của họ – nước mắt chảy vào trong.
Ở Paris tôi luôn bị những người nhầm lẫn các múi giờ đánh thức bằng những hồi chuông điện thoại khi thì nửa đêm, khi thì gần sáng.
Như Phong là một người như thế. Trong cơn ngái ngủ, tôi giật mình ngỡ là anh Như Phong ở Hà Nội. Chuyên không quen nhau đến nỗi anh phải bỏ tiền túi ra gọi điện cho tôi. Cước điện thoại viễn liên đắt khủng khiếp. Mấy phút sau tôi biết là tôi nhầm. Ðó là một Như Phong khác.
Trong thời gian dài đất nước bị chia làm hai mảnh, tôi hầu như chẳng biết gì về những người trong làng văn làng báo miền Nam. Vào cái thời xa lắc xa lơ ấy ở miền Bắc người ta cũng chỉ thỉnh thoảng nhắc tới một Vũ Hoàng Chương, một Ðinh Hùng, một Nhất Linh, một Vũ Bằng… Mà cũng chỉ trong những bữa rượu nghèo giữa những người tin nhau, nếu có chợt đả động tới những nhà văn nọ thì cũng phải ghé vào tai nhau mà thì thào.
Như Phong không lấy sự tôi không biết anh làm buồn.
Anh vui vẻ tự giới thiệu anh là nhà báo, một nhà báo vô danh ở một quốc gia đã chết. Anh hỏi tôi về cuốn hồi ký của tôi mà anh Từ Mẫn chủ trương nhà xuất bản Văn Nghệ ở California vừa chuyển bản thảo cho anh đọc, nhờ anh đánh giá.
Chúng tôi nhanh chóng bỏ qua những lời khách sáo để nói về công việc. Khi tôi đặt ống nghe xuống thì bình minh đã rạng – một tiếng rưỡi đồng hồ đã trôi qua trong cuộc trò chuyện giữa hai người trước đó không hề quen biết.
Như Phong làm tôi ngạc nhiên vì sự hiểu biết nhiều và rộng về tình hình đất nước. Chí ít thì anh cũng hiểu biết hơn bất kỳ ai tôi từng gặp ở hải ngoại. Anh không chỉ hiểu biết kỹ về lịch sử đảng cộng sản Việt Nam, mà cả của phong trào cộng sản quốc tế với những ngõ ngách tăm tối của nó.
Trong hơn một giờ điện đàm anh đặt ra một số vấn đề về tình hình đất nước, hỏi tôi một số điều mà anh cho rằng anh chưa rõ. Ở những khoảng trống ngắn ngủi của cuộc đối thoại thuần tuý công việc, tôi nghe tiếng anh ậm ừ, tiếng giấy sột soạt. Tôi hiểu: anh vừa nghe vừa ghi chép.
Nửa tháng sau, đúng như anh hứa, tôi nhận được một máy ghi âm để gắn vào điện thoại. “Cần phải ghi lại những cuộc nói chuyện dài, không ghi thì dễ quên lắm, dễ bỏ qua những tình tiết quan trọng lắm”, anh bảo thế. Tôi nghe lời anh, nhưng không được lâu. Tôi không phải nhà báo. Tôi tin ở trí nhớ. Cái gì còn lại sau khi nó đã quên đi tất cả mới là cái đáng quý.
Như Phong là thế. Anh không chỉ quan tâm tới bè bạn. Anh còn lo cho họ có phương tiện làm việc, và bằng cách đó anh thúc giục họ làm việc cho đất nước.
Rồi cuối cùng chúng tôi cũng gặp được nhau.
Mùa thu năm 1999 anh từ Mỹ bay sang Pháp. Mục đích của chuyến đi là đến Aix-en-Provence. Ở thành phố này có một thư khố lớn, chứa nhiều tài liệu có liên quan tới đảng cộng sản Việt Nam.
Như Phong có thói quen tìm hiểu đến nơi đến chốn cái mà anh quan tâm. Không mấy người trong những nhà báo mà tôi biết có được phong cách thực sự cầu thị đó. Anh nhắn tôi bỏ Paris để gặp anh. Anh sẽ đặt phòng khách sạn cho tôi, còn bữa ăn cho cả hai thì anh sẽ làm đầu bếp tại nhà một người bạn.
Tôi ngần ngại. Khách sạn ở Pháp rất đắt, ở Paris cũng như ở các tỉnh nhỏ. Anh an ủi tôi rằng anh không có tiền, nhưng một người anh em của anh là anh Vũ Văn Lê ở Houston sẽ thanh toán mọi chi phí cho cuộc gặp gỡ với tôi. Anh tin rằng tôi cũng là một cuốn sách mà anh cần đọc.
Để tôi yên tâm, Như Phong chìa cho tôi xem cái thẻ tín dụng Visa Gold:
– Ông cứ xài thoải mái cho công việc – Vũ Văn Lê nói – Tôi đến nước Mỹ trên người chỉ có cái quần xà lỏn. Cái gì tôi có là do tôi làm ra.
Hoá ra Vũ Văn Lê là Mạnh Thường Quân của anh. Vũ Văn Lê sẵn sàng bỏ tiền cho ông anh yêu quý làm công việc mà anh biết, không phải cho cá nhân, mà vì đất nước.
Trong mấy ngày ngắn ngủi, Như Phong khéo léo đan xen những buổi làm việc với những buổi du ngoạn. Chúng tôi lang thang trong những công viên tĩnh mịch và những vườn hoa, bàn đủ thứ chuyện, nhiều nhất là về tương lai quê hương. Trong tay anh có rất nhiều tài liệu quý mà bất cứ nhà Việt Nam học thời cận đại nào cũng phải thèm.
Ðể có được hiểu biết đầy đủ về đường đời một nhân vật lịch sử mà anh quan tâm, trong sổ ghi của Như Phong có trăm thứ bà rằn. Mục tiểu sử Hồ Chí Minh có đủ các dữ liệu linh tinh: tiền lương thuỷ thủ, lương đầu bếp trên tàu thuỷ đường dài, lương thợ "tút" (retouche) ảnh, các khoản trợ cấp không thường kỳ mà Liên Xô đài thọ cho ông Hồ Chí Minh… và các nhà cách mạng Việt Nam do Liên Xô đào tạo.
– Các ông ấy được Liên Xô chu cấp rất đầy đủ, rất hào phóng – anh nói – Còn nhiều hơn là cần thiết.
Nghĩa là anh thu thập tất tần tật, không bỏ sót một chi tiết cỏn con nào. Với những tư liệu cụ thể như thế, các giả thuyết của anh mới có xương có thịt.
Sau Aix-en-Provence chúng tôi đáp tàu đi Marseille, tự chụp ảnh kỷ niệm ở những tượng đài và công trình kiến trúc cổ. Chúng là một mảng riêng rẽ, chẳng ăn nhập gì với cái cảng tấp nập và ồn ào, nhưng tuyệt đẹp.
Chúng tôi la cà quán xá, uống rượu vang Alsace với mồi là những con "moules" Bouchot béo mẫm. Hình như giống moules này có họ hàng xa với giống trùng trục ở quê nhà. Những cột buồm dĩ vãng lắc lư bên cạnh bàn ăn của chúng tôi. Trong quán ăn với tấm lưới chài rách rưới giăng trên đầu thực khách, Như Phong lơ đãng ngắm bầu trời xanh bồng bềnh mây trắng và những cánh hải âu chao lượn.
Ði dạo trên bờ biển, chúng tôi vứt mọi đề tài chính trị qua một bên, dành thời gian cho văn chương.
Trước chuyến đi Pháp không lâu anh có gửi cho tôi mấy truyện ngắn của anh. Tôi không biết ở Sài Gòn anh có viết truyện không? Hay chỉ đôi khi rảnh rỗi mới rẽ ra ngoài ngả văn chương để bình luận các sự kiện chính trị. Chẳng ai nói với tôi về một Như Phong nhà văn cả. Tôi đọc mấy truyện ngắn đó và ngạc nhiên vì bút pháp độc đáo và duyên dáng của anh. Chả trách trong cách nhìn nhận thời cuộc của anh, ở đôi chỗ tôi bắt gặp những chỗ không mấy tỉnh táo, thậm chí ngây thơ (đừng giận tôi nhé, Như Phong).
Tôi tiếc hùi hụi những truyện ngắn ấy trong một lần nhà bị ngập do vỡ ống nước. Giấy mủn ra, chữ còn chữ mất.
Đọc anh tôi mới biết trong đáy sâu của tâm hồn, anh không cứng rắn bao nhiêu, và thường để cho ước mơ lấn lướt thực tế.
Có hồi anh đặc biệt quan tâm tới một anh chàng uỷ viên trung ương đảng cộng sản, thái tử của một cựu hoàng đã chết. Thì ra anh nghe ai đó nói rằng anh chàng này có quan điểm cấp tiến. Thế là trong cuộc đi tìm một Gorbachev cho Việt Nam, anh đặt ngay vào cửa chàng thái tử nọ một kỳ vọng. Anh hỏi tôi về quá trình công tác của anh ta, xin số điện thoại của anh ta. Tôi không chơi với thái tử, nhưng vợ anh ta là bạn vợ tôi, cho nên tôi cũng biết chút ít về anh ta. Tôi cung cấp cho Như Phong mọi dữ kiện mà tôi biết, không giấu nụ cười của người tỉnh nhìn người say.
Như Phong hiểu. Anh giận. Chỉ tới khi anh chàng nọ đã bị văng khỏi Trung ương đảng cộng sản rồi mà vẫn còn cố lập công với đảng bằng những bài chửi bới những người đấu tranh cho dân chủ hoá đất nước như tướng Trần Ðộ, anh mới tỉnh.
Thế mà rồi ngay đó anh lại đặt kỳ vọng khác vào một nhân vật khác, để rồi lại được thêm một thất vọng khác.
Tôi quan sát Như Phong ở khoảng cách gần cũng như ở khoảng cách xa để có một kết luận không vội vàng rằng chúng tôi, bạn anh, không may: chúng tôi có một bình luận gia chính trị, nhưng chúng tôi mất đứt một nhà văn. Tôi thì tôi thích có một Như Phong nhà văn hơn. Nó đúng với anh hơn, và rất có thể, nó làm cho anh bớt bất hạnh hơn. Chính sự dính líu với chính trị đã làm cho anh đi tù hơi nhiều lần, và ở tù hơi nhiều năm.
Nhưng thôi, nói chuyện tù làm gì. Từ khi có chính quyền cộng sản người Việt Nam đi tù như đi chợ.
Con người ta thường như vậy. Chúng ta ít nhiều đều mơ mộng, thậm chí cảm thấy được ve vuốt trong sự tự huyễn hoặc. Nếu chúng ta tỉnh táo hơn, thực tế hơn, chắc sự đời đã có thể khác.
Soi trong tấm gương Như Phong tôi thấy bóng mình.
Như Phong Lê Văn Tiến đã đi rồi.
Anh minh mẫn cho tới phút lên đường. Mà anh biết anh sẽ đi. Buổi sáng anh còn gọi điện cho anh Nguyễn Ngọc Bích, giám đốc trang tiếng Việt của đài RFA, dặn dò một số việc đã bàn nhau cùng làm. Anh còn nói đùa với chị Trương Anh Thuỵ vào thăm, nói dài, nói nhiều và cười ha hả. Anh nói với cô con gái nuôi mà anh rất yêu quý rằng anh không thích thấy trong đám tang mình những điếu văn, diễn thuyết, diễn văn… Anh không muốn những cáo phó, phân ưu và thông báo trên báo chí, càng không muốn những nghi lễ tôn giáo.
Tôi không coi những dòng này là lời đưa tiễn Như Phong.
Tôi viết mấy dòng này chỉ để nhắc tới một người ít ai biết nhưng là người đáng để biết.
Tôi viết trong nỗi nhớ người mà mình quý mến chợt rời đi, để rồi khi sực nghĩ đến nhau tôi không còn có thể bốc ống điện thoại để đùa cợt:
– Thế nào, cụ vẫn còn sống nhăn đấy chứ?
– Còn sống – anh trả lời – nhưng không nhăn đâu.
Paris 2010