Ruột đau chín khúc

 Thích Nhất Hạnh

1.

tôi đến đây để cùng khóc với các anh và các chị,

xứ sở ta đau thương và cảnh tình ta bi đát

bàn tay tôi đây xin các anh nắm lấy, xin các em nắm lấy.

tôi muốn được nói cùng các anh và các chị: dù sao thì chúng ta cũng phải can đảm để mà lo lắng cho trẻ thơ, cho ngày mai.

2.

đã một tháng rưỡi trời sau khi nước rút, em tôi nhận được của cứu trợ hai lần, một lần chưa đầy lon gạo.

ba ngày mới có một bữa cơm, chiều nay tới thăm em, tôi được em cho biết rằng tối nay em phải ăn đọt cau và bắp thối

thương thay em tôi

(và biết bao chiếc đầu xanh vô tội

một đàn trẻ con da vàng mặt bủng)

đi kiết từ hơn một tuần nay, không thuốc không men.

nước cuốn mất mẹ em rồi, nước cuốn mất cả cha em, nước cuốn mất cả em em nữa

trên chiếc đầu thơ ngây, khăn tang không có

nhưng nắng chiều vàng vọt trên cánh đồng tan hoang xác xơ khốn khổ

đã là chiếc khăn tang phủ trọn tâm hồn tôi.

3.

hãy tới đây mà chứng kiến cảnh những người thương của tôi trong trận bão lụt Giáp Thìn, đến để ẵm trong tay em bé xanh xao đã rủi ro còn sống.

để thấy người cha trẻ sau khi tìm biết rằng vợ và bốn con đã chết, trong ba ngày ba đêm đã ngồi yên nhìn vào khoảng không, và thỉnh thoảng cười lên sằng sặc

ở xa xăm anh có nghe thấy tiếng cười ấy không?

hãy đến đây để thấy cụ già râu bạc, sau những ngày cô đơn tuyệt đối trên mảnh đất hoang, đã quỳ xuống đỡ lấy nắm cơm cứu trợ trên tay một em thiếu nhi ngơ ngác

cụ đã quỳ trước tình tơng, trong khi em bé khóc

“cụ ơi, con chỉ bằng cháu của cụ mà thôi!”

nhưng dù sao, thông điệp tình thương đã tới nơi rồi

tôi có quyền đặt lòng tin nơi ngày mai nhân loại.

4.

chồng chị đã mất rồi, con chị đã mất rồi,

vườn dâu tan nát

bếp lửa làm sao nhóm lại, mảnh đất nghèo ơi?

trời cho, rồi trời lấy lại,

tôi sợ chị tôi chiều nay không còn kiên nhẫn,

mà mở miệng ra, nguyền rủa hiện sinh mình.

tôi khóc khi nghe chị nói rằng:

“tuy một phút khó khăn

mà khỏe thay những gia đình chết trọn.”

nhưng hôm nay còn tôi, còn anh, còn bạn

ta chung lưng gánh đầy hiện hữu trên hai vai

hãy nương vào nhau, và gắng đừng bật lên tiếng khóc; con đường còn dài, vì thế hệ tương lai, hãy cúi đầu đi tới.

5.

người nông dân ngửng đầu lên khi nghe lời tôi hỏi

và chua xót trả lời, không e dè, ngần ngại:

“tôi ghét cả hai bên

tôi không theo Quốc gia

tôi không theo Giải phóng

tôi chỉ theo người cho tôi sự sống.”

cuộc tồn sinh! ôi tủi nhục không chừng!

6.

trên thượng lưu sông Thu Bồn

đứng giữa dòng

tôi cắt đầu ngón tay cho giọt máu đào rơi, hòa tan vào dòng nước

máu tôi đã được hòa với dòng sông

thôi hãy nằm im

tất cả những ai đã vong thân oan ức!

còn những người sống, và còn dòng sông đây –

nghe tiếng trẻ thơ từ muôn trùng đồng vọng

tôi đã trở về giữa những thành núi cao

để đêm nay nhìn đỉnh núi nghiêng đầu nghe dòng sông kể chuyện

chúng tôi còn đây, trong cuộc đời hằng chuyển

sẽ xin đứng bên nhau mà dựng lại quê hương

7.

có những trì địa tay còn lấm mực nhà trường

xẻng cuốc trên tay

đào đất bắc cầu

cúi xuống vừa khóc vừa chôn những thây người sình thối

có những bóng hình Quan Thế Âm, với vừng trán thơ ngây vô tội

áo nâu

chân đất

nón lá che đầu

lặng lẽ đặt từng bước chân non trên vùng đá sạn thương đau

chui vào những túp lều con mới dựng

bất chấp hiểm nguy “Quốc gia, Việt cộng”

tìm tới

những người thoi thóp

đang ngửa cổ chờ trông.

8.

tôi đã thấy rồi bàn tay các em

tuy bé nhỏ, nhưng hiền như tơ trời Đâu La Miên thuở trước

vừa đưa ra để ẵm lấy trẻ thơ

thì đứa bé bỗng nhiên lặng thinh, nín khóc

và mắt người mẹ khốn khổ sáng lên như hai viên bích ngọc

khi nhìn hộp sữa đã từ nghìn trùng sông nước đem đến cho con

9.

tôi ngồi đây, trước cánh cửa thiên đường

đương khép chặt

tôi cúi đầu mong đợi

nơi vườn cũ chắc hương cau còn nhẹ tỏa

nhưng các em sao lặng lẽ chiều nay

hãy cất tiếng lên, trên mảnh đất đau thương này

cất tiếng lên, cho chim xanh ngàn nơi bay về quy tụ

cho nước non này mãi còn cẩm tú

nói lên đi em

hiện hữu sẽ bừng sinh sau ngôn thuyết nhiệm mầu.

Về tới chùa Từ Hiếu ở Thừa Thiên, sau khi đi cứu trợ bão lụt ở Quảng Nam về, Thầy viết bài thơ này. Đó là vào năm Giáp Thìn (1964). Hồi đó tuy đã đi dạy bên trường Đại học Khoa học Sài Gòn nhưng tôi vẫn còn theo học bên phân khoa Phật học tại Đại học Vạn Hạnh. Tôi đã đi theo đoàn cứu trợ với tư cách Phó chủ tịch Ủy ban Cứu trợ của sinh viên Vạn Hạnh.

Trước chuyến đi, Ủy ban Cứu trợ của chúng tôi gồm tăng sinh, ni sinh và sinh viên cư sĩ đã đi lạc quyên tiền bạc và áo quần tại Sài Gòn và Chợ Lớn. Gần hai trăm thanh niên tăng ni và khoảng năm trăm sinh viên cư sĩ chia nhau thành từng nhóm năm người, đã đẩy xe ba gác đi khắp các đường phố Sài Gòn và Chợ Lớn. Mỗi xe có mang theo một thùng “phước sương” có niêm phong bằng ấn của Đại học Vạn Hạnh. Chuyến đó chúng tôi quyên góp được, ngay trong năm ngày đầu, trên ba trăm ngàn đồng tiền mặt và bốn tấn áo quần và chăn mền. Tôi còn nhớ, tuy Ủy ban Cứu trợ chúng tôi đứng ra tổ chức, sắp xếp mọi việc, nhưng nếu không có sự đôn đốc của thầy Nhất Hạnh thì chúng tôi cũng khó mà động viên được tất cả các thành phần sinh viên của Viện lúc ấy. Những tốp sinh viên được phái đi về các khu người Việt gốc Hoa ở Chợ Lớn, thay vì mang theo biểu ngữ viết bằng tiếng Việt, đã mang theo những dòng chữ viết bằng Hán ngữ do chính tay Thầy viết. Mỗi nhóm sinh viên có ít nhất là một tăng sinh hoặc ni sinh đi theo, thể theo lời đề nghị của Thầy, và đó là một trong những nguyên nhân thành công lớn trong cuộc quyên góp. Hồi đó đã mời được thầy Minh Châu từ Ấn Độ về để phụ trách Vạn Hạnh nên Thầy có nhiều thì giờ hơn với sinh hoạt của sinh viên. Và cũng chính vì vậy cho nên Thầy đã đi theo đoàn cứu trợ của chúng tôi lên tận vùng thượng lưu sông Thu Bồn. Chuyến đi khá nguy hiểm, bởi vì những cuộc đụng độ giữa hai bên hồi đó thường xuyên xảy ra ở vùng này. Muốn đi tới tận quận Đức Dục hay những làng Sơn Khương, Sơn Mỹ, chúng tôi chỉ có thể đi bằng ghe, vì đường liên xã đã bị chiến tranh và bão lụt làm đứt nhiều đoạn. Ghe phải đi ngang qua nhiều trạm, khi thì do bên này khi lại do bên kia kiểm soát. Các thầy Như Vạn và Như Huệ lúc ấy phục vụ ở Ban Xã hội Giáo hội Phật giáo Quảng Nam nói rằng nếu đoàn cứu trợ có tăng sĩ đi theo và có mang cờ Phật giáo thì có thể qua lọt. Chúng tôi thuê bốn chiếc ghe chở theo gạo, thuốc men, áo quần và xoong nồi rồi theo sông Thu Bồn đi ngược lên miền núi. Càng lên cao càng khó đi. Núi càng cao gió càng lạnh. Có lúc hai bên bắn nhau, đạn bay vèo vèo qua đầu chúng tôi. Đoàn ghe chúng tôi bị chặn lại kiểm soát bốn lần. Có một lần gặp bên Quốc gia, thầy Nhất Hạnh hỏi vị chỉ huy trưởng: “Trong trường hợp chúng tôi bị bên kia chặn lại và đưa truyền đơn thì chúng tôi phải làm thế nào?” Vị chỉ huy ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: “Thì quý vị cứ nhận, nhưng ra tới giữa sông quý vị sẽ đem thả xuống nước.” Thầy lại hỏi: “Giả dụ như chưa kịp thả xuống nước mà bị phía Quốc gia chặn lại xét thì có nguy không?” Vị chỉ huy kia chỉ cười, không nói gì.

Cảnh tượng Đức Dục sau khi nước rút thật là thê thảm, nhất là những xã ấp xa quận lỵ. Nghe nói chỉ mới tuần trước đây, xác chết còn vướng trên ngọn tre. Khe núi và bờ sông còn nồng mùi hôi thúi. Dân chúng đói đi mót những nắm bắp và gạo đã sình thối còn lại trong các vựa để ăn. Họ ăn rễ cây, đọt dừa. Gần một nửa dân số bị kiết lỵ. Những hình ảnh trong bài thơ là những hình ảnh có thực, một trăm phần trăm. Chúng tôi có gặp một ông già, đi đâu cũng dắt theo con trâu như một người bạn. Ông nói nhờ trèo lên ngồi trên mình trâu khi nước cuốn phăng phăng cả trâu đi mà ông không chết. Lúc nước rút, trở về, vợ con chết hết, nhà cửa không còn, ông lơ lơ lửng lửng như người mất hồn, cứ dắt trâu đi ra đi vào, ai nói gì ông cũng không nghe thấy.

Khởi hành từ lúc trời lờ mờ sáng chúng tôi phải đi chuyến hàng cứu trợ từ tỉnh lỵ Quảng Nam xuống quận Điện Bàn bằng xe hàng vận tải. Từ bến đò Điện Bàn chúng tôi mới lên bốn chiếc thuyền nặng khẳm gạo muối, đường, đậu, quần áo và xoong nồi, thuốc men, theo sông Thu Bồn đi ngược lên mạn núi. Chuyến đi thật vất vả, phải ngủ luôn  hai đêm trên thuyền vì thuyền phải ghé rất nhiều nơi. Cứ ngồi ghe được vài giờ, chúng tôi lại cặp thuyền, đi thăm từng xóm nhỏ, heo hút trên núi, bên khe. Chúng tôi đem theo gạo, áo quần, sữa và thuốc men, tới từng nhà, tùy theo nhu cầu của từng gia đình mà cấp phát. Chia nhau thành nhiều nhóm, chúng tôi làm việc suốt từ sáng sớm tới khi không còn thấy đường nữa. Chúng tôi hỏi thăm cả tình hình chiến tranh và chính trị từng nơi. Dân chúng ở đây ở vào tình trạng trên đe dưới búa. Cảnh tượng mà tôi không bao giờ quên được là cảnh tượng giờ phút biệt ly ở một ấp heo hút thuộc quận Đức Dục. Lúc đó đã sáu giờ rưỡi chiều, nắng chiều vàng vọt chiếu trên bờ sông. Đồng bào ra đưa tiễn chúng tôi tận bờ sông đứng thành những hàng dài. Bốn chiếc thuyền chúng tôi đã nổ máy; chúng tôi chắp tay chào từ giã. Bỗng nhiên một bà mẹ trẻ ẵm một đứa bé trong tay, lội xuống nước, định trao đứa bé cho tôi. Thiếu phụ nói chị không nuôi nổi con, muốn cho tôi làm con nuôi. Tôi đang còn lúng túng chưa biết trả lời cách nào thì một bà nữa, rồi một bà nữa, rồi mười mấy bà mẹ ẵm con lội xuống bến. Tất cả đều đưa con cho chúng tôi. Hầu hết chúng tôi đều là sinh viên, ni cô hay thầy tu. Chúng tôi làm sao có thể nuôi con được. Hai hàng nước mắt tôi trào xuống. Bọn tôi đứa nào cũng khóc. Thầy Như Vạn lên tiếng: “Chúng tôi sẽ cố gắng trở lại với đồng bào, để giúp đồng bào nuôi con. Chúng tôi không có thể nhận các em bé này được; chúng phải được ở với cha má chúng.” Thầy Như Huệ ra lệnh cho tàu rời bến. Bọn tôi đứa nào cũng một tay đưa lên vẫy, một tay chùi nước mắt. Nắng chiều trên bến sông sao mà buồn thê thảm quá.

Bài Rut đau chín khúc được đăng trên tuần san Thin M số 13 ra ngày 9 tháng 2 năm 1965. Có một buổi sáng tới Vạn Hạnh sớm để nhận chỉ thị về việc cứu trợ, tôi thấy anh bác sĩ Anh Tuấn (Trần Tuấn Phát) với một cái máy ghi âm. Anh nói anh đọc bài Rut đau chín khúc đêm hôm qua và anh cảm động quá. Không biết làm gì, anh đọc bài ấy vào băng nhựa, và đem lên cho Thầy nghe. Tôi hơi tức cười. Nhưng khi được nghe băng, tôi hiểu. Giọng anh chuyên chở được tất cả sự rung cảm của tâm hồn anh khi đọc bài thơ.

Xin lưu ý các bạn đến hai hình ảnh trong Thánh Kinh được dùng trong bài thơ. Hình ảnh đầu:

tôi sợ chị tôi chiều nay không còn kiên nhẫn

mà mở miệng ra, nguyền rủa hiện sinh mình

Nhắc tới Job trong Cu Ước (Après cela, Job ouvrit la bouche et maudit le jour de sa naissance). Hình ảnh thứ hai:

nói lên đi em

hiện hữu sẽ bừng sinh sau ngôn thuyết nhiệm mầu.

Nhắc tới câu đầu của Phúc Âm theo Jean (Au commencement était le Verbe). Thầy nói với chúng tôi: “Mình muốn chấm dứt chiến tranh để có hòa bình thì việc trước hết là mình phải nói rõ ra là mình muốn chấm dứt chiến tranh để có hòa bình.”

Chơn Không Cao Ngọc Phượng

Nguồn: https://langmai.org/tang-kinh-cac/tuyen-tap-tho-nhat-hanh/thu-tim-dau-chan-tren-cat/ruot-dau-chin-khuc/  

Comments are closed.