Tiếng Gáy Gà

Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc truyện ngắn của tác giả lần đầu cộng tác với Văn Việt. Nguyên Yên là bút hiệu của tác giả, hiện sống tại Nam California. Cô đang cộng tác với Da Màu, Hợp Lưu và Việt Báo.

Văn Việt

Truyện

Nguyên Yên

Người đàn ông ngồi nhìn theo bóng vợ và con trai khuất sau cánh cửa đóng chặt, căn nhà thoáng chốc chìm vào im ắng. Gã mở email lặng nhìn vào hộp thư. Hệt như mọi ngày, hộp thư gọn gàng chỉ vài cái email còn sót lại từ những năm tháng cũ. Hộp thư sạch sẽ, ngay ngắn, đơn điệu như đời sống tẻ nhạt hàng ngày của chính gã. Gã nhìn vào đó đăm chiêu, đợi chờ, như thể cuộc đời gã tuỳ thuộc vào sự sống còn của cái hộp thư ấy. Ánh mắt gã trở nên xa xăm bất thần, tâm thân vô hướng như rơi chìm vào một khoảng không mù mờ, vô định.

Từ bao giờ, mọi ngày của gã đều như thế. Kim đồng hồ trên tường chỉ mới hơn 7 giờ sáng, gã uể oải đứng dậy bước về phía phòng ngủ. Bên khung cửa sổ, từng vạt nắng sớm quệt dài những vệt sáng loang lỗ trên bệ tường. Bên ngoài, tiếng xe cộ rình rang của thế giới thường nhật vừa thức giấc, hối hả tất bật vào ngày.

Ðưa tay kéo sập tấm màn chắn cửa xuống, gã ngã tấm thân mỏi mệt nặng trĩu xuống giường. Nằm yên trong cái mền đen dày cui trùm kín đầu, gã bắt đầu cuộc chiến tách rời thân xác khỏi cái thế giới tạm bợ nơi vợ con gã cùng với 7,3 tỷ người trên trái đất đang hăm hở chen chân. Chẳng bao lâu sau, cơn động kinh của ngày sẽ không còn tác động đến gã nữa; những mưu sinh, bận rộn của cuộc đời sẽ tạm thời gác lại. Trong cơn mê của giấc ngủ ngày, linh hồn gã sẽ thức tỉnh; trái tim gã sẽ vực dậy, sống lại nhịp đập của những tháng ngày còn ước mơ.

Bao giờ cũng vậy, giấc mơ xưa nay luôn bắt đầu từ một tiếng gáy gà. Chàng trai thức dậy trên cánh đồng thênh thang, nơi chàng mơ thấy mình thành chim sải cánh trên bầu trời. Ước ao tự do từ thuở ấu thời vẫn không ngừng thôi thúc. Chỉ để khi lớn khôn người ta mới nhận ra con người từ khi sinh ra đã được ném vào cái nhà tù cuộc đời, loay hoay mở hết cánh cửa này sang cánh cửa khác, rốt cuộc nhận ra ảo mộng thoát ly cũng hệt như niềm tin ngây thơ vào một đấng giải thoát tối cao.

Gã vẫn bay lượn trên bầu trời, những cánh đồng ngút ngàn biến thành những cột cầu thép đen hun hút đan nối chiếc cầu treo dẫn vào thành phố. Mùi lúa mạ bốc hơi chuyển sang mùi muối mặn. Gã bay cao theo cơn gió, là là qua các khung cửa sổ, nhìn vào những căn phòng, thấy chính mình sống lại một ngày mùa xuân ở thành phố sương mù này.

Buổi trưa hôm ấy, từ căn phòng tràn ngập ánh sáng trên dốc núi này, gã đã một lần thoát ly. Lần đầu tiên bỏ mặc vòng quay cuộc đời, bỏ lại đằng sau cơn bão tuyết và cái lạnh kinh niên đóng băng từ bên trong, gả nhẹ hẫng xách túi đến con phố nắng vàng gặp nàng. Chính từ không gian này, đúng giây phút thân xác gã tự do hòa quyện, tâm hồn gã bay cao. Ngắn ngủi nhưng bất tận, như giấc mơ hằng đêm vẫn đưa gã trở về. Tình yêu. Một lần có thật, có khuôn mặt, bằng da bằng thịt. Thật như cái đầu đã một lần thoát hèn. Như trái tim có khúc tự do. Như đôi cánh đêm của gã đang dang rộng trên bầu trời. Trong cơn mớ ngày, gã tự cấu vào da thịt xem mình đang tỉnh hay mơ.

Ai đó đã nói, chỉ trong giấc mơ người ta mới dám sống không sợ bị phán xét.

***

Mùa xuân năm Ất Tỵ 1965, trong không khí chan hòa ngày Tết tại một làng quê thôn dã miền Trung, đôi vợ chồng son trẻ thắp nhang vái tạ tổ tiên đã ban cho họ đứa con trai đầu lòng kháu khỉnh, đặt tên nó là Văn Hưng, như một lời cầu mong chinh chiến chóng tàn cho quê hương sớm có ngày văn hưng khí thịnh. Chiến tranh leo thang, hàng ngàn thanh niên trai tráng tử trận, thằng bé lớn khôn đã mồ côi cha, vẫn sống còn trong những tháng ngày làng quê tan tác.

Hơn hai mươi mùa xuân sau, từ biệt Mẹ và tuổi thơ, chàng trai trẻ lên tàu vượt biển mang theo ưu tư và hoài vọng thanh xuân. Con tàu nổi trôi chở theo vận mệnh của mấy trăm con người phó thác mạng sống mình cho trời đất. Trong những ngày tháng tuyệt vọng trôi dạt trên biển, người thanh niên luôn khấn nguyện, thề sẽ sống cho ra sống nếu có cơ may sống sót.

Bản năng sinh tồn của con người vượt trên tất cả. Như hàng triệu người Việt ra đi, gã cũng may mắn vẫn sống sót. Những ngày đầu đặt chân đến đất Mỹ, gã học tiếng Anh, học nghề, rồi đâm đầu đi làm ngày làm đêm kiếm tiền gởi về nhà. Có lẽ khi không còn tin chắc vào bản thân, người ta sẽ dựa vào những thứ có thể cân đo đong đếm để xác định giá trị bản thân. Ở vùng đất xa lạ cách quê hương nửa vòng trái đất, cái cây bị bứng rễ không được uống nước từ gốc, không phát triển từ trong ra ngoài, mà nảy nở sinh sôi từ ảnh hưởng môi trường.

Ở Mỹ đầu thập niên 90, gã thấy mình lạc lõng, sinh sau đẻ muộn. Phần đông người Việt đi trước đã an cư lạc nghiệp. Dạo ấy gã như con ngựa non háu đá, hùng hục chứng tỏ khả năng “có” của mình qua công ăn việc làm, nhà cửa, xe cộ… Như cái ngày gã quyết định có vợ và sinh con đẻ cái, cũng chỉ để lấp đầy cái khoảng trống ngày càng loang lổ; hay trần trụi hơn, chỉ để thực hiện bản năng gieo giống của gã đàn ông.

Ngày cưới vợ, gã gặp lại một người bạn cũ khá thân thiết từ những ngày đầu mới xa quê hương. Nàng có cặp mắt đen láy sâu thẳm như mặt nước con sông quê gã vào những đêm sáng trời. Lần gặp nhau sau cùng, nàng trở lại trường học theo đuổi giấc mộng làm y sĩ trong khi gã bỏ mộng chữ nghĩa đi học nghề để kiếm tiền. Lần đầu tiên sau chục năm miệt mài theo đuổi giấc mơ Mỹ, trong thoáng chốc, gã mơ hồ nhận ra chiếc bóng của sự mất mát.

Cuộc đời là những cuộc thỏa hiệp. Người đàn bà bước vào cuộc hôn nhân cũng giống như gã, cả hai cùng thực hiện một cuộc đổi trao kiếm chác. Nàng gái quê tìm visa đi Mỹ. Gã Việt kiều về quê tậu mái ấm. Mùa đông đầu tiên lấy vợ, gã ôm thân thể người vợ tròn trịa ấm áp trong tay, hiểu ra mình đang ôm một nỗi cô đơn tổ chảng vào lòng. Đây cũng là mùa đông đầu tiên gã thấy cơn bão tuyết xứ sở này lạnh đến mức không thể chịu nỗi.

***

Chiếc giường gỗ không ngừng cọt kẹt. Người đàn ông lăn qua lăn lại như cố gắng tìm một tư thế dễ chịu hơn. Bên ngoài tiếng còi hú ầm vang, chiếc xe cứu hỏa chạy ngang nhà đánh thức gã dậy giữa ngày. Nhìn đồng hồ, đã gần 2 giờ chiều. Gã đưa tay tắt chiếc đồng hồ báo thức. Ngày nào gã cũng để đồng hồ, nhưng bao giờ cũng bị đánh thức bởi những tiếng động inh ỏi từ đường phố. Căn nhà nằm ngay mặt tiền, ngoài những tiếng ồn ào còn biết bao nhiêu phiền nhiễu khác. Đã bao nhiêu lần gã định bán nhà dọn đi nơi khác, nhưng cũng như nhiều thứ khác trong cuộc sống, gã thấy mình như cá mắc cạn, càng vùng vẫy lại càng lún sâu.

Gã đưa tay kéo tấm màn nhìn ra ngoài, bầu trời quang đãng không một gợn mây. Từ ngày đổi ca làm việc, đối với gã ngày cũng như đêm. Gã thấy mình không còn có khả năng phân biệt sáng tối. Khi gã về đến nhà, vợ gã đã ngủ say. Khi vợ về đến nhà, đã đến giờ gã đi làm. Như mặt trăng mặt trời, vợ chồng gã cùng hít thở một bầu không khí nhưng chẳng mấy khi chạm mặt nhau. Như vậy có lẽ tốt hơn cho cả hai. Con người khi đã một lần bằng lòng thỏa hiệp, sẽ tiếp tục đi từ dàn xếp này sang dàn xếp khác, cho đến khi người ta không còn băn khoăn mình đang sống hay đang dần mòn thối rữa trong guồng máy.

Gã bật dậy chuẩn bị đi đón con tan học. Trường học cách nhà chỉ vài góc đường, nhưng gã tập thói quen đi đón con về rồi ăn uống, trò chuyện với chúng mỗi ngày. Con cái thời đại này không dễ dạy dỗ. Hai thằng con trai mỗi thằng mỗi tính. Thằng lớn chậm rãi mơ mộng chừng nào thì thằng nhỏ ranh ma nhanh nhẩu chừng đó. Cả hai đều nhìn y khuôn vợ gã, với khuôn mặt trái soan tròn trịa, môi dày, mắt đen, ngược với khuôn mặt cả dòng họ nhà gã góc cạnh, gò má cao, môi mỏng, mắt nâu. Có lẽ nào khi vợ chồng ăn ở thiếu gắn bó, con cái sinh ra không mang diện mạo hòa hợp của cả hai, còn tìm cách giải thích một cách khoa học hơn thì gã hoàn toàn không nghĩ đến.

Đón con về đến nhà, gã vào bếp hâm nóng thức ăn. Ngày nào cũng vậy. Ba cha con. Ba cái bánh pizza nướng. Hôm nay mở tủ lạnh, thấy có tô thịt kho trứng, cái bao tử của gã reo hò. Có vậy thôi mà bỗng dưng cảm động. Đã từ lâu lắm rồi, bếp núc trong nhà lạnh tanh. Người vợ lâu nay chẳng còn ngó ngàng gì đến chuyện ăn ở của chồng con. Bỗng dưng gã nhớ đến những ngày đói khát sau 75. Ban đầu khi mới đói, người ta nhớ và hiểu mình mất mát cái gì, vì ai, cho đến khi được xếp hàng đi mua gạo ở hợp tác xã, người ta chỉ biết vui mừng cảm ơn cách mạng đã ban cho họ bát cơm đầy sạn. Con người thật ra dễ huấn luyện hơn con vật. Lấy đi tất cả rồi cho lại chút xíu, trái tim người ta đã lại sướt mướt.

Hai thằng con trai hôm nay thấy gã tươi tỉnh cũng thích thú ra mặt. Ba cha con ăn xong, chúng lấy sách vở ra học bài xong dụ gã cho chúng xem phim. Gã ngồi vào máy, những hình ảnh xưa nay như bộ phim quay đi quay lại. Vài năm gần đây, gã bắt đầu viết trở lại. Cũng chẳng để làm gì, nhưng khi viết, gã thấy mình như cầm lại chiếc gương soi vào cuộc đời. Đâu đó trong mỗi câu chuyện, gã đặt vào đấy những mảng mộng. Nếu cuộc sống thực tại của gã không có lối thoát, thế giới giả tưởng này may ra có thể cưu mang gã. Ít ra thì gã cũng không thấy điều này là một cuộc thỏa hiệp bi đát.

Gả chìm vào những ý tưởng. Gã ngấu nghiến gõ, như sợ những hình ảnh trong đầu giống như ký ức rồi cũng sẽ bỏ gã đi mất. Hôm nay gã không muốn đi làm, gã muốn ở nhà viết về một cảm xúc, về mùa xuân trong lòng. Từ lâu lắm, gã mới sống và nhớ lại. Hình ảnh tình yêu trong giấc mơ hiện rõ hơn bao giờ hết. Gã nhớ rõ một khuôn mặt. Cái cảm xúc ngắn ngủi nhưng bất biến. Nhớ lời thề sống cho ra sống nếu còn được sống sót trên chiếc thuyền sắp đắm ngày nào…

***

Trời chuyển sáng. Dưới mái nhà trú ẩn hai linh hồn dị mộng. Người đàn ông nằm cạnh tiếng ngáy đều đặn của vợ bỗng nghe trong lòng mình một tiếng gáy gà. Ngoài kia, đàn chim trốn tuyết đã bay về thành phố. Tia nắng đầu ngày quét ngang chiếu sáng một góc phòng, rồi nhanh chóng trả không gian lại cho bóng tối.

Như mùa xuân đã bao nhiêu lần tạt ngang qua đây, nhưng chưa một lần đủ hơi ấm ở lại.

Gả bật dậy mở email bần thần nhìn vào hộp thơ.

Một ngày mới cũ rích lại bắt đầu.

Comments are closed.