Tưởng nhớ nhà văn Chinh Ba

Nhà văn Chinh Ba đã từ trần lúc 22 giờ 30 ngày 12.7.2022, nhằm ngày 14.6 năm Nhâm Dần, hưởng thọ 89 tuổi. Linh cữu quàn tại nhà D19/4, đường Xóm Hố, ấp 4, xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh, TP. HCM. Lễ động quan lúc 8 giờ 30 hôm nay, ngày 16.7.2022, hỏa táng tại Nghĩa trang Đa Phước, huyện Bình Chánh.

Văn Việt xin đăng chùm bài dưới đây như một nén tâm hương tưởng nhớ đến ông.

Văn Việt

 

Nhà văn Chinh Ba qua đời

Huỳnh Như Phương

TTO – Theo tin từ gia đình, nhà văn Chinh Ba đã qua đời tối 12-7, hưởng thọ 89 tuổi. Lễ tiễn đưa nhà văn diễn ra ngày mai 16-7.

Nhà văn Chinh Ba qua đời - Ảnh 1.

Nhà văn Chinh Ba (trái) và nhà thơ Chinh Văn – Ảnh: H.N.P.

Nhà văn Chinh Ba tên thật là Phan Tân Nhựt, sinh ngày 10-12-1934, quê ở làng Bảo An, huyện Điện Bàn, Quảng Nam.

Ông là anh ruột của nhà thơ Chinh Văn – Phan Tân Minh. Vào Sài Gòn cuối những năm 1950, ông viết văn, làm báo dưới nhiều bút danh. Bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa bắt giam ba năm vì hoạt động báo chí khuynh tả, ông trốn sang Campuchia rồi qua Pháp năm 1967, định cư ở Montpellier.

Trọn đời văn, Chinh Ba chỉ viết khoảng 50 truyện ngắn, qua bút pháp cô đọng mà đa nghĩa, khiến cho thông điệp của tác phẩm có sức vang vọng và lan tỏa.

Nổi tiếng nhất là truyện Bài thơ trên xương cụt viết trong nhà lao Chí Hòa rồi bí mật chuyển ra ngoài và được nhà thơ Hoài Khanh chọn đăng trên tập san Giữ Thơm Quê Mẹ tháng 10-1965. Sau đó Nhà xuất bản Lá Bối in lại trong tập truyện Ảo tượng (in lần đầu 1966, tái bản 1971) cùng với tác phẩm của Sơn Nam, Hồ Hữu Tường, Thiều Chi, Nhất Hạnh, Võ Phiến, Tuệ Uyển.

Ngoài ra, Chinh Ba còn có một số tản văn và kịch bản ngắn in trên các báo thời kỳ đó.

Nhà văn Chinh Ba qua đời - Ảnh 2.

Tập truyện Bài thơ trên xương cụt của nhà văn Chinh Ba – Ảnh: V.QUÊ

Sau hơn một phần ba thế kỷ sống trên xứ người, Chinh Ba trở về quê hương để tìm lại những dấu tích của quá khứ, mồ mả tổ tiên, khu vườn tuổi nhỏ.

Được người em là nhà thơ Chinh Văn và các văn hữu động viên, Chinh Ba đã sưu tầm những tác phẩm nằm rải rác trong sách báo cũ để Nhà xuất bản Trẻ ấn hành tập truyện Bài thơ trên xương cụt vào năm 2011, với lời tựa của Bùi Văn Nam Sơn và được tái bản ngay sau đó.

Có thể nói đây là những "đóa sen vàng" (tên một truyện ngắn trong tập sách) bé nhỏ của văn học miền Nam mọc lên giữa phong ba bão táp của thời cuộc, thiếu chút nữa thì bị bỏ quên bên dòng trôi đi vô tình của lịch sử.

Linh cữu của nhà văn Chinh Ba quàn tại nhà ở xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh, TP.HCM, hỏa táng tại nghĩa trang Đa Phước.

Nguồn: https://tuoitre.vn/nha-van-chinh-ba-qua-doi-20220715110808991.htm

Nhà văn Chinh Ba: Tiếc vì lời thề ngừng viết

Tập truyện ngắn Bài thơ trên xương cụt của nhà văn Chinh Ba được nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 2011, đúng một năm sau thì tái bản với lời tựa của nhà nghiên cứu triết học Bùi Văn Nam Sơn – trong đó có đoạn: “Một chủ nghĩa lạc quan dễ dãi? Một ước mơ “có hậu” cổ truyền? Thưa còn tuỳ, nếu rơi vào tay một kẻ “trung nhân dĩ hạ”, cái đức lý không thể thiếu trong văn chương sẽ làm người đọc khó chịu. Còn trong trường hợp ngược lại, nó trở nên “bát ngát” như chính cuộc đời, như dòng chảy mềm mại mà đanh thép của lẽ nhân sinh…” Đoạn trên gần như khái quát toàn bộ tư tưởng của một nhà văn từng bị chế độ Việt Nam Cộng hoà bắt vì tội viết văn thân cộng, chống chính quyền.

Sau hơn 40 năm định cư ở Pháp, vì lý do sức khoẻ và cũng vì nỗi nhớ quê hương, hiện nay ông chia thời gian để được sống ở quê nhà nửa năm, thời gian còn lại ông về Pháp sống cùng con gái.

Trong tập sách mới xuất bản vừa rồi, có bài viết nhà văn Trang Thế Hy gửi ông với câu “Mi muốn đi đâu thì đi nhưng nhớ mang quê hương theo”. Trong quê hương mà ông mang theo, chắc những ký ức chiến tranh là nhiều hơn cả?

Toàn bộ tuổi thơ, tuổi trẻ của tôi là những ngày chiến tranh. Khoảng năm 1948, tôi học trung học ở Tam Kỳ. Học trò lúc đầu học ban ngày, sau phải học ban đêm vì ban ngày máy bay chiến đấu cứ thấy chỗ nào có sự sống, ngay cả con trâu con bò đang đi nó cũng nhào xuống bắn.

Gọi là trường trung học nhưng chỉ có một mái nhỏ đủ một lớp bốn năm chục trò sống rải rác trong làng tụ lại. Học trò đi học, mỗi đứa phải tự đào cho mình một cái hầm, có máy bay là nhảy xuống. Lần đó tôi với một đứa bạn đi học, đang đi thì bị một đợt đại bác nã. Hai đứa cầm tay nhau chạy thật xa mong thoát chết, qua một vùng trũng, tự nhiên thấy bạn buông tay mình, tôi quay trở lại thì thấy nó nằm sấp trên mặt nước, đầu đầy máu, óc vung vãi. Đó là lần đầu tôi chứng kiến cái chết. Một lần khác tôi đi qua vùng bị chiếm, trên đường đi thấy một anh đang ở tư thế ngồi bị trúng đạn có lỗ thủng ở ngực xuyên qua lưng, vậy mà anh ấy vẫn sống, đau đớn, ngơ ngác nhìn chung quanh, nhưng lúc đó chẳng ai cứu anh được vì ai cũng lo chạy.

Rồi có lần gặp một người ăn xin, khi nhìn lên, thấy hàm dưới không có, hàm trên dính với cổ họng, chảy nhớt dãi. Từ đó, những hình ảnh chết chóc, người bị biến dạng ám ảnh tôi cho đến khi lớn lên. Ngay cả bây giờ, nhớ lại vẫn cảm thấy những vết thương chiến tranh còn chảy máu chảy mủ, nghe tiếng rên la. Tôi luôn nghĩ điều cần thiết nhất của con người là làm sao để không có chiến tranh. Dù ở trong một chế độ nào, đời sống chính trị như thế nào, làm sao để được sống an bình, đừng có chiến tranh. Lý tưởng không cần phải bắt nguồn từ những bài học của các triết gia xa xôi quá. Cái cần thiết nhất là phải có hoà bình. Tất cả những truyện tôi viết đều nhắm cái hướng đó.

Tuổi thơ sống trong chiến tranh, với bom đạn, ông còn có những ký ức nào về con người sống với nhau không chỉ có hận thù?

Ba tôi tên Phan Điển, khi ông đi thi, chữ Điển phạm huý nên phải đổi là Phan Trọng. Ba tôi được chọn đi ba năm ở miền Nam. Khi Nhật sắp đảo chính Pháp, lúc đó ba tôi biết tin tức trước mới đưa gia đình về quê, ông về sau. Sở dĩ ba tôi biết trước là nhờ một anh lính Nhật. Nhà tôi nằm trên một quả đồi, quân Nhật đóng phía sau. Có một anh lính Nhật hay đi ngang qua nhà, thấy con nít ngồi chơi trước cửa, anh sáp lại chào hỏi tiếng Nhật, bọn tôi chẳng hiểu gì cả, chỉ thấy ảnh là lính mà hiền nên cũng nói chuyện một tràng. Rồi thấy anh lính ứa nước mắt, tôi về kể cho ba tôi nghe. Sau đó ba tôi hỏi thăm mới biết anh có vợ con ở Nhật, mỗi khi nhìn chúng tôi, anh nhớ con mình. Có khi anh ôm hai ba đứa chúng tôi vào lòng, kể chuyện say sưa. Sau này chính anh báo tin cho ba tôi, nhờ đó mà cả nhà tôi thoát chết vì bom đạn tương tàn trong cuộc Nhật đảo chính.

Hồi đó, dường có một quy ước ngầm, cứ đến tết người ta ngưng chiến mấy ngày để dân chúng ăn tết. Nhờ đó mà tôi đã sang Pháp sau khi ra tù của chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Tôi được đưa ra khỏi Sài Gòn bằng xe môtô đi Rạch Giá. Qua bữa sau tôi ra biên giới, qua bên kia là Campuchia. Mấy ngày đó những người lính cả hai bên đều không mang súng. Có khi họ chỉ cách nhau mười mấy thước, nhưng ngó lơ hoặc có nhìn nhau cười cười rồi thôi.

Ông khởi nghiệp văn như thế nào, có phải cũng bắt đầu từ những ám ảnh, day dứt khôn nguôi về thân phận con người trong chiến tranh?

Năm ba tôi 45 tuổi, ông bị đau bao tử nặng, tôi đưa ba tôi về ở gần sông Thu Bồn. Đưa ba tới bờ sông, dù thấy ông đau nặng nhưng nhớ em, nhớ má quá nên tôi ráng về thăm má, thăm em một chút rồi trở qua. Nhưng cũng hôm đó giặc về đánh làng tôi. Ở lại thì tối đó sẽ bị đại bác nên tôi phải bỏ đi, khi về đến nơi thì ba tôi đau nặng, rồi mất. Sau đó cả nhà tôi vào Sài Gòn, lúc đó tôi đã 18 tuổi. Tôi đi học tiếp và bắt đầu viết. Lúc đầu tôi viết báo tường, một trong những truyện ngắn đầu tiên tôi viết là Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng.

Tôi viết văn với mong muốn làm sao Việt Nam thống nhất càng nhanh càng tốt và có một chính phủ như những nước khác, dân chủ, tự do.

Những truyện ngắn phản chiến của ông ở miền Nam đã khiến chính quyền khó chịu và sau đó ông bị tù ba năm vì viết truyện chống chính quyền…

Tôi ở tù vì viết những truyện chống chiến tranh và họ cho là tôi đứng về phía những người chống lại cuộc chiến, họ ghép tội đi theo cộng sản. Trong ba năm ở tù, tôi viết được truyện nào là gửi ra ngoài ngay, nếu không nó xét bắt được thì còn tù nặng hơn. Có truyện mới chỉ là bộ xương, như vở kịch Pho tượng Linh Mai, sau này tôi viết thành một câu chuyện khác, vì bị cắt bỏ nhiều quá.

Nhưng thời đó người kiểm duyệt phần lớn cũng có học nên họ nới tay, tôi nghĩ vậy. Vì có những cái đáng kiểm duyệt họ bỏ lơ, như truyện ngắn Bài thơ trên xương cụt, họ nói trong này không có một chữ nào, hay câu nào có thể bỏ được, nhưng mà họ biết, rất biết ông này muốn nói cái gì.

Khi ra tù, tôi bị cấm đi khỏi Sài Gòn, nhưng may mắn xin được thẻ ký giả, nhờ cái thẻ đó tôi đi được khắp nơi trước khi rời quê hương. Và tôi cũng chuẩn bị cho chuyến đi xa xôi miên viễn của mình. Tôi vào rừng khắc chữ “vĩnh biệt” lên cây vì không biết ngày nào trở về.

Sau khi ra tù, cứ nửa tháng tôi đến trung tâm thẩm vấn của công an trình diện. Có một bữa sáng tôi đi ra khỏi nhà, có người đi theo, tôi ngồi xuống uống càphê, ổng cũng tới ngồi bên rồi nói: “Xin lỗi ông, tôi được phép phải đi theo ông”. Tôi chẳng nói gì. Biết tôi khó chịu nên một hôm anh đó nói: “Khi nào ông đi đâu, gặp ai, ông nói cho tôi biết trước một tiếng để tôi viết báo cáo, tôi khỏi đi theo ông nữa, tôi cũng mệt”. Sau đó tôi cũng báo cáo đầy đủ nhưng tránh nói tên người tôi gặp vì sợ họ bị làm phiền. Có lần cả tháng trời tôi không đến trình diện, bữa sau tôi đến mang theo một xách nhỏ, trong đó có bàn chải đánh răng, bộ quần áo. Tôi nói: “Bữa nay tôi xin cho ở tù lại, vì tôi quên không trình diện cả tháng nay!”

“Tôi gửi vào cuộc đời niềm tin yêu màu hồng. Tôi nghĩ cái buồn đôi khi cũng cần thiết cho con người như chút phèn chua cần thiết cho một ly nước đục. Bởi vậy, thà mùa thu không có gió, chứ đêm khuya đừng vắng tiếng côn trùng. Những tâm hồn thao thức biết lấy gì mà thở, nếu không có tiếng dế nỉ non, tiếng vạc kêu sương, tiếng từ quy khắc khoải, tiếng khóc của trẻ con, tiếng ru của bà mẹ bên hàng xóm…” (trích Bài thơ trên xương cụt)

Những truyện ông viết ở miền Nam, qua Pháp ông đã gửi đến báo nước ngoài, như truyện Mồ sống đăng báo Ba Lan…

Ở Pháp, tôi lặng lẽ viết, nhưng viết chuyện này chuyện kia kiếm sống chứ không viết văn và cũng không tham gia hội đoàn nào, tôi sống lặng lẽ. Còn truyện Mồ sống là do tôi đi sinh hoạt Công giáo, các xơ tình cờ đọc truyện của tôi rồi tự dịch và gửi cho một tờ báo ở Ba Lan, sau được một tờ báo Anh chọn dịch và đăng ở Anh rồi Mỹ. Sau đó, họ gửi thư cho tôi và báo là sẽ tuần hành, biểu tình để phản đối chiến tranh Việt Nam, họ cũng muốn Việt Nam có hoà bình càng sớm càng tốt, và đặc biệt ở Mỹ có rất nhiều nghệ sĩ đứng về phía Việt Nam. Qua mấy xứ đó, thời điểm đó tôi càng tin Việt Nam sẽ chấm dứt chiến tranh với sự giúp đỡ gần như của toàn cầu.

Tôi nghĩ một nhà văn thật sự không cần tư thế chính trị nào. Tất nhiên không đồng nghĩa với vô chính phủ, sống là cần tôn trọng pháp luật. Tôi có một lỗi rất lớn trong cuộc đời, lỗi với chính tôi, đó là năm chấm dứt cuộc chiến tranh, tôi tự thấy mình chẳng làm được điều gì…

Đó có phải lý do đến giờ ông mới xuất bản tập truyện ngắn đầu tay khi về nước?

Khi về lại Việt Nam, em trai tôi – Chinh Văn nói: “Có nhiều người hỏi anh sao không viết?”, tôi lắc đầu. Lần sau về, em lại nói: “Anh Hai, bên Mỹ họ đề nghị tìm lại các tác phẩm của anh để in”, tôi cũng lắc đầu: “Thôi, bỏ đi”. Mãi về sau do bạn bè khắp nơi đề nghị nhiều, tập truyện ngắn Bài thơ trên xương cụt của NXB Trẻ in năm 2011 là tập văn đầu tiên của tôi trở lại sau hơn 30 năm. Đời tôi thì dài mà viết chẳng bao nhiêu. Năm 1966, trước khi tôi đi, NXB Lá Bối in tập Ảo tưởng, sau đó tái bản năm 1971.

Vì sao bây giờ ông không về luôn quê nhà?

Hiện vợ con tôi đều ở Pháp, mỗi lần về quê hương, tôi gặp lại anh chị em và cảm thấy được gần ba má tôi. Còn chủ yếu tôi qua Pháp để khám bệnh, bên đó họ chịu hết thuốc men, nằm viện, đỡ tốn tiền. Đứa con gái duy nhất chưa lập gia đình, nên tôi cũng muốn được gần bên con.

Ở Pháp bây giờ cũng như nước mình, nhiều giá trị thay đổi lắm. Năm tôi sang, 1967, có ông hàng xóm hay nói chuyện gia cảnh. Ông kể nỗi khổ của ông là thấy con gái mình giao thiệp với nhiều con trai mà không chịu cưới hỏi gì, thiệt xấu hổ, hồi đó họ cũng “truyền thống” như vậy. Nhưng sau chiến tranh thế giới thứ hai, quan niệm của thế hệ hậu chiến đã hoàn toàn khác. Họ không gắn bó với nhau vì ước hẹn gì nữa, họ chỉ gắn bó với nhau nếu thực sự thấy có thể chia sẻ được. Hết thì thôi.

Mẹ ông ảnh hưởng đến cuộc đời viết văn của ông như thế nào?

Ảnh hưởng suốt cuộc đời tôi. Tất cả những gì tôi viết, những câu thơ trong truyện Bài thơ trên xương cụt, tôi thuộc là nhờ má tôi. Hồi nhỏ, má tôi rất thích đi coi kịch, cải lương, hát bội. Má đi là dẫn tôi đi theo để có người nghe má nói, giờ ta gọi là “chia sẻ”. Má thích đọc báo và đọc tất cả báo chí miền Nam thời đó. Có những bài thơ bà thuộc nằm lòng.

Ba tôi thì kín đáo, ít nói hơn, nhưng ông một mình dịch Kiều cho người Pháp xem. Thuở đó ngay cả lính Pháp, hay cả sĩ quan Pháp đều mê Truyện Kiều của Việt Nam. Ông còn làm cho người ta lưu ý bởi chữ viết rất đẹp, cổ kính. Cuốn sách ông dịch trình bày rất đẹp, tựa viết theo lối chữ gôtích không thua gì sách cổ của Pháp. Ba tôi vốn là người sống nội tâm, không thích hội hè đông đúc, và tôi có phần ảnh hưởng tính cách đó của ông.

Nhà văn Chinh Ba tên thật Phan Tân Nhựt, sinh năm 1934 ở Quảng Nam, cùng chi phái với Phan Khôi. Ông là một cây bút của Sài Gòn những năm 50 thế kỷ trước. Chinh Ba viết không nhiều, chỉ chừng 60 truyện ngắn, hầu hết được đăng trước năm 1967 trên các báo. Ngoài truyện ngắn, Chinh Ba còn viết báo (từng là chủ biên tờ Mã Thượng) với chủ đề chính là phản đối chiến tranh. Chính vì những bài báo bộc lộ thái độ phê phán ấy mà ông bị chính quyền bắt giam ba năm (1963 – 1966) tại khám Chí Hoà. Sau khi được thả, Chinh Ba sang Campuchia, rồi qua Pháp năm 1967, ông từng học đại học Sorbonne, sinh sống tại Paris, sau đó định cư ở Montpellier.

Thực hiện: Ngân Hà

Chân dung hội họa: Hoàng Tường

Nguồn: http://sgtt.vn/Loi-song/174009/Tiec-vi-loi-the-ngung-viet.html

(Đường dẫn trên đây không còn hiệu lực nữa, nhưng có thể truy cập theo đường dẫn này: https://www.sachhay.org/diem-sach/ChiTiet/422/nha-van-chinh-ba-tiec-vi-loi-the-ngung-viet)

Truyện ngắn Chinh Ba – những dụ ngôn đa nghĩa

Huỳnh Như Phương

Trọn một đời văn, Chinh Ba chỉ viết khoảng 50 truyện ngắn. Nhưng với một sự nghiệp văn học ngắn ngủi, dở dang vì thời cuộc, ông đã góp phần tái hiện những trầm luân của một xã hội nhiễu nhương và bi đát, với bút pháp cô đọng dồn chứa nhiều ẩn nghĩa, khiến cho thông điệp của tác phẩm có sức vang vọng và lan tỏa.

Mộ huyệt và cơn khát nắng

Chinh Ba dành phần lớn tác phẩm của mình cho những suy ngẫm về sự sống và cái chết, những cảm nghiệm về thân phận khốn cùng của con người. Đọc Chinh Ba, gây ấn tượng nhất có lẽ là những hình thù kỳ quái, những số phận dị thường, những cái chết đáng sợ nơi tối tăm, ẩm thấp. Một vài truyện ngắn nghe vọng tiếng kinh cầu hồn, tuy thiếu những bóng ma.

Không gian trong truyện ngắn Chinh Ba, nếu không là căn nhà ngột ngạt, nơi cái chết đang rình rập (Tiếng đàn khuya, Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng), thì cũng chìm trong một căn hầm, một ngục đá hay nấm mồ (Đóa sen vàng, Khát nắng, Mồ sống). Nó xuất hiện như định đề về con người bị chối bỏ sự tồn tại, hoặc tồn tại trong cô độc và tuyệt vọng.

Khát nắng vẽ ra một ngục đá lạnh lẽo và tăm tối. Ánh sáng trong truyện chỉ là ánh sáng ngập ngừng của một thỏi nắng vàng, một vầng trăng. Truyện không ít những câu văn đẹp đầy chất thơ, nhưng cái lạ nằm ở chi tiết nhiều ẩn nghĩa: một người tù bị chôn vùi đời mình trong ngục tối và ước nguyện sau cùng của lão là có một tia nắng rọi thẳng vào mặt mình từ trên vách đá cao, “để sự sống của lão có trong không gian tới ngày này được nhận thực”. Bao ngày qua, lão nằm đó bất động trên hai tấm ván ghép, làm mồi cho bầy muỗi và những con rệp đói, chờ đến ngày chết rục, thúi ình ra như “con chuột già trụi lông nằm phơi bụng trong kẹt xó”. Trên đời này không ai chờ lão và lão cũng chẳng có gì để mà chờ đợi, ngoài một tia nắng vô tâm. “Lão chỉ biết rằng một phần đời người sau cùng của lão đã không có nắng rọi vào. Nên trước khi chết, lão thèm một tia nắng chiếu vào mặt, chiếu vào đôi mắt ngập bóng tối của lão; để da mặt lão nóng dậy lên, để mắt lão nhìn thẳng được mặt trời”. Điều ước tưởng chừng tầm thường và nhỏ mọn ấy đã được đánh đổi bằng chính cái chết của lão. Nắng trở thành ẩn dụ thể hiện nỗi khao khát ánh sáng của một cuộc đời giữa đêm đen.

Như thế, truyện ngắn của Chinh Ba phủ đầy bóng tối, sự ẩm thấp và nhầy nhụa. Bóng tối đồng nghĩa với sự hốt hoảng, nỗi hiểm nguy và niềm tuyệt vọng. Mồ sống cũng là truyện ngắn gây ám ảnh với cốt truyện kỳ lạ: một thanh niên bị đạn bom tàn phá cơ thể, gần như tự chôn sống chính mình để cách ly với xã hội. Cô độc với hình hài ghê tởm đó, Vàng đã vùi mình trong một cái huyệt tối tăm, lạnh lẽo mà thế gian không hay biết. Người cha lang thang tìm đứa con trai khắp nơi và cơ duyên đã đẩy đứa con dâu của ông lạc đến đó, “nàng đã thở cái hơi hám đó trong lòng huyệt, nàng đã chung đụng với người đàn ông ở chỗ chật hẹp đó để sinh ra đứa con thơm tho này”. Một đứa bé đã ra đời nơi lòng huyệt âm u đầy tử khí. Chinh Ba miêu tả thật dữ dội và trần trụi cái giây phút khuôn mặt biến dạng kinh khiếp của Vàng hiện ra trước mắt Chót ngay lúc nàng lên cơn đau đẻ. “Tiếng nấc trong cổ họng gã và bước chân khấp khiễng của gã đến gần, gã ngồi xuống bên nàng. Hình như gã khóc, tiếng khóc nghe ì ọt, rền rĩ, đôi lúc phì phọt như tiếng kêu thoát ra từ vết máu ở cổ của một con vật bị cắt tiết. Nước mắt gã và hình như có cả nước dãi, nhỏ giọt xuống người nàng. Sau hết gã đã cởi chiếc áo độc nhất của gã đắp lên cái bụng tròn đầy của nàng rồi thất thểu bước đi…”. Cái nghịch dị ở đây không phải là thủ pháp nghệ thuật mà chính là sản phẩm của chiến tranh, chiến tranh như một thứ định mệnh bao trùm lên hiện hữu của con người, làm biến dạng nhân hình trong một hoàn cảnh mà nhân tính vẫn tìm cách chống chọi để duy trì.

Cái chết và cuộc trở dạ

Ngòi bút Chinh Ba bộc lộ rõ sở trường khi tái hiện những mảnh đời, những số phận bị cuộc chiến tàn phá. Điều gây ám ảnh không phải là khói lửa trực tiếp của chiến trường mà là những hệ lụy, những vết thương chiến tranh và sự đền bù của tình nhân loại. Nhiều nhân vật của ông là con người kỳ dị và bị khiếm khuyết: một gã khấp khiễng với cái chân tàn tật và cánh tay độc nhất; một đứa bé với hai cục môi dày bệu, đỏ hếu như chằn tinh; một người đàn ông có gương mặt bị sứt mất hàm dưới, lưỡi dài và nước chảy lòng thòng như quái vật… Dữ dội và kinh khiếp, nhân vật của Chinh Ba là hiện thân của cái kỳ dị khiến người đọc khó quên.

Viết về cuộc chiến tranh khốc liệt qua khoảng cách thời gian và sự chiêm nghiệm, Chinh Ba cho thấy hận thù được hóa giải bằng tình yêu, những tổn thương được bù đắp bằng lòng tha thứ và sự tàn bạo được xoa dịu bằng đức khoan dung. Qua đó, nhà văn nhìn thấy sự sống nối dài sau cái chết.

Hầu hết truyện ngắn của ông đều có những cái chết không bình an. Nhưng ẩn đằng sau đó là những cuộc trở dạ. Đứa trẻ ra đời chứng kiến cái chết của đấng sinh thành ra nó. Sự sống nở ra nơi hoang dã, thâm u lại là dấu hiệu cho cuộc phục sinh. Những đứa bé như Lụa, như thằng Chằng, như đứa con của Chót tuy chào đời trong mất mát, vẫn nuôi niềm tin về “một đóa sen vàng”: rằng ai nắm giữ đóa sen vàng, người đó sẽ có cơ may vượt qua nỗi đau thương. Đoá sen vàng là biểu tượng cho tự tánh của con người biết thương yêu. Đó là đoá sen trong lòng thằng Hoà (Tóc), là đoá sen Tơ muốn trao truyền cho Lụa (Đoá sen vàng), là đoá sen của tình người bao la vây bọc lấy thằng bé lai (Thằng Chằng). Chủ đề về số phận đứa con lai, sau Chinh Ba, sẽ còn nhiều nhà văn khai thác: Nguyễn Thị Mỹ Thanh với Thằng Chà, Nguyễn Minh Châu với Mảnh đất tình yêu, Tô Đức Chiêu với Đứa con lai… Nhưng có lẽ Chinh Ba là người tiên cảm sớm hơn hết những vết thương rỉ máu từ mối quan hệ dị chủng ép buộc này và tìm phương thuốc cứu chữa cho những nạn nhân.

Mở đầu truyện Đoá sen vàng, Chinh Ba viết: “Vào một ngày nào đó, trong một xứ sở nào đó – xứ sở của mấy nghìn năm nghèo đói và chiến tranh – có một người đàn bà bị bom lửa phủ lên người. Toàn thân bốc lửa, người đàn bà chạy như một con trâu điên, chạy đi tìm một cái ao, một cái giếng, một vũng nước”. Dụ ngôn về sự huỷ diệt đó đâu phải là sản phẩm của văn chương kỳ ảo: mấy năm sau nó sẽ được xác nhận bằng tấm ảnh Nick Út chụp Kim Phúc và những nạn nhân chiến cuộc trên đường làng Tây Ninh. Trong văn bản nghệ thuật của Chinh Ba, dụ ngôn đó gợi lên hoá thân của cái chết khi nó gắn liền với hình ảnh của sự sống: “Giữa hố bom một đoá sen hồng vươn mình khỏi mặt nước rêu xanh, khiêm tốn phô cái vẻ tinh khiết và thanh thản, nhưng rất hùng hồn chứng tỏ sự hiện hữu của mình ở chính giữa dấu tích của chiến tranh”. Từ đóa sen hồng giữa hố bom, mà sau này nhiều lần thơ ca viết về chiến tranh sẽ mượn hình ảnh để gợi lên viễn cảnh, đến đoá sen vàng trong lời kể chuyện huyền thoại của Tơ cho bé Lụa, tất cả đã trở thành biểu tượng của sự phục sinh, hơn nữa, như một giải pháp tâm linh để vượt lên tấn thảm kịch của chiến tranh.

Mộ huyệt và cơn khát nắng, cái chết và sự trở dạ, Chinh Ba đã kết hợp những đối cực của cuộc nhân sinh đầy nghịch lý nhằm tạo ra những “cảm xúc đối nghịch” nơi người đọc; khi những dữ dội, bạo liệt, gớm ghiếc và tàn nhẫn được hoá giải, cứu chuộc bằng con đường của tình yêu cuộc sống, cũng là con đường của nghệ thuật.

Điệu ru tình và bài thơ trên xương cụt

Ngoài những câu chuyện ám ảnh về chiến tranh, Chinh Ba còn viết mấy truyện ngắn mang âm sắc của tình yêu lãng mạn: Hai vì sao lạc, Kẽ hở bàn tay, Tháp tình của đá… Truyện tình của Chinh Ba hầu như không có sự phản bội. Nhà văn tin ở lòng thủy chung, ân nghĩa. Trước cái chết, tình yêu vẫn là vĩnh hằng. Có lẽ vì niềm tin không tiết chế này mà những truyện tình của ông thường đi gần về “cổ tích”. Cái nhìn lạc quan về tình yêu làm dịu đi tính chất bi đát và trắc trở thường thấy của những cuộc tình trong chiến tranh.

Đọc Chinh Ba, đôi khi ta bắt gặp những câu văn mang hơi hướng lãng mạn chịu ảnh hưởng của Tự Lực Văn đoàn, thậm chí còn mang phong vị đăng đối và hoài cổ: “Từ đó họ yêu nhau. Suối ngập hương yêu, rừng ngát ý thơ và gió reo hồn nhạc. Mối tình kia trôi qua nhiều mùa thu, đẹp như thơ chàng, thắm như mắt nàng và êm như dòng suối chảy”. Những câu chuyện tình yêu này chưa phát huy thế mạnh của ngòi bút Chinh Ba, cấu trúc tác phẩm còn để lộ sự sắp đặt, kết thúc có phần dễ dãi. Tuy vậy, tinh thần nhân bản, khát vọng hạnh phúc và hoà hợp tạo nên cái hồn và không khí của những thiên truyện. Tháp tình của đá vĩnh cửu hoá pho tượng Linh Mai như biểu tượng của tình yêu hiến dâng. Hai vì sao lạc tượng trưng cho vẻ đẹp và vẻ sáng của tình yêu nhân giới mà ánh sao của thần giới không bì kịp.

Là người tin vào sứ mệnh cao cả của nghệ thuật, Chinh Ba muốn đánh thức lương tri của người cầm bút giữa một xã hội mà vi trùng ô nhiễm đã lây lan đến cả môi trường văn học (Một lứa cá mè). Ý thức phản kháng trở thành lẽ sống của những người như Trần Lý, rút tinh huyết từ hình hài tàn tạ để sáng tạo những trang văn xốc dậy con người (Hoa bút).

Nếu mỗi nhà văn chỉ cần một truyện ngắn sâu sắc, hấp dẫn để người đời ghi nhớ, thì với Chinh Ba, truyện ngắn đó là Bài thơ trên xương cụt. Dù là người dè dặt, tôi cũng phải đồng ý với nhà thơ Nguyễn Đức Tùng, rằng đây là một trong những truyện ngắn hay nhất của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Truyện là điệu ru buồn của cô đào hát đi tìm người du tử của đời mình: “Điệu hành vân áo não u trầm, mang cái buồn cổ kính của dĩ vãng, rỉ ngấm qua vách lá, làm ẩm ướt những dòng cảm nghĩ… Hình như nàng sống để hát, và sống bằng tiếng hát của mình”. Đuổi bắt, nhầm lẫn và rồi “đem gửi hương cho gió phũ phàng”, Út Lệ cuối cùng đã tìm thấy những câu hát tự do, dẫu người đời dèm pha, người tình phụ bạc hay lão chồng hết sức thô lậu, tục tĩu. Sâu xa hơn, truyện ngắn này là dụ ngôn về thực trạng và nỗi đau của văn hóa ở cái thời mà những Ba Lò Heo nắm quyền chỉ đạo và bình phẩm văn nghệ: “Mấy tuần lễ sau, qua nhiều lần bình giảng thi văn bằng dao, bằng búa và bằng hơi men sặc sụa, lão kết luận rằng câu hát nào của Út Lệ cũng có ý than duyên trách phận, cũng có chút tình kín đáo nhắn gửi người chồng cũ. Cứ mỗi lần “bình giảng” như vậy, lão “bỏ” một câu hát của Út Lệ. Vì vậy mà cái vốn liếng văn nghệ của gia đình Út Lệ ngày càng sa sút nghèo nàn dần”. Trong “vòng phấn trắng” mà Ba Lò Heo quy định với những câu hát ngô nghê, lạt lẽo và vô nghĩa, người nghệ sĩ chân chính Út Lệ phải dùng giọng hát để biểu thị thái độ của mình: “Cũng từ đó, tiếng hát của chị có giọng oán hờn thống trách, dần dà về sau lại đượm ý chán nản, liều lĩnh, khinh thị. Mỗi tiếng hát như một vết dao băm vào vết đau khổ trong lòng mình, và xỉa xói vào tâm can người nghe”.

Nhưng bạo lực làm sao chấp nhận để nghệ thuật được phép lên án chính nó! Ba Lò Heo phải tìm “một giải pháp cho tình trạng bế tắc của nền văn nghệ gia đình”. Vì “định nghĩa văn nghệ là sự tẩm quất dục vọng hoặc là sự làm đã ngứa chỗ xương cụt, nên lão đã đặt cơ sở nền văn nghệ trên chiếc xương cụt của lão”. Tình thế đó buộc Út Lệ, để giành lấy quyền tự do được hát những bài hát mà mình yêu thích, phải dũng cảm ly khai với cái nền-văn-nghệ-xương-cụt đó. Thay vào chỗ của chị trong lãnh địa của Ba Lò Heo là một người đàn bà câm từ lúc lọt lòng mẹ, tượng trưng cho cái công chúng ngoan ngoãn của đường lối văn nghệ lấy xương cụt làm chỗ dựa.

Có thể nói Chinh Ba sắc sảo và sâu cay nhất là ở truyện ngắn này. Cái hay của cốt truyện đa chiều; cái lạ của phép nghịch đảo và sự trào lộng đã làm nên giá trị nghệ thuật của Bài thơ trên xương cụt.

oOo

Chinh Ba viết ít nhưng vẫn khiến những người cùng thời và bạn đọc hôm nay hỏi nhau rằng ông là ai.

Chinh Ba tên thật là Phan Tân Nhựt sinh năm 1934, quê ở làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, cùng dòng họ và chi phái với Phan Khôi. Vào Sài Gòn cuối những năm 50 thế kỷ trước, ông viết văn, làm báo, đã cộng tác với các báo Mã thượng, Nhân loại, Lẽ sống, Ngày mới, Bông lúa, Nghị lực, Giữ thơm quê mẹ dưới nhiều bút danh: Thông Mai, Hạ Thảo, Thảo Nguyên, Cước Nguyên, Trọng Cưu, Phan Phong Chinh, Kiều Mỹ Vân, Hà Thời Đán. Bị chính quyền Việt Nam Cộng hoà theo dõi và bắt giam ba năm vì hoạt động báo chí khuynh tả, ông trốn sang Cambodge rồi qua Pháp từ năm 1967, hiện định cư ở Montpellier.

Những truyện ngắn trên đây được tác giả viết và gửi đăng trên các báo ở Sài Gòn vào cuối những năm 50 – nửa đầu những năm 60. Riêng truyện Bài thơ trên xương cụt viết trong nhà lao Chí Hoà rồi bí mật chuyển ra ngoài và được nhà thơ Hoài Khanh chọn đăng trên tập san Giữ thơm quê mẹ số 4, tháng 10-1965, sau đó nhà xuất bản Lá Bối in lại trong tập truyện Ảo tượng (in lần đầu 1966, tái bản 1971) cùng với tác phẩm của Sơn Nam, Hồ Hữu Tường, Thiều Chi, Nhất Hạnh, Võ Phiến, Tuệ Uyển. 44 năm sau, truyện ngắn này được nhà văn Trần Hoài Thư đưa vào tuyển tập Văn miền Nam, theo gợi ý của nhà văn Nguyên Minh. Ngoài ra, Chinh Ba còn có một số tản văn và kịch bản ngắn in trên các báo thời kỳ đó.

Sau hơn một phần ba thế kỷ sống trên xứ người, Chinh Ba trở về quê hương nhiều lần để tìm lại những dấu tích của quá khứ – mồ mả tổ tiên, khu vườn tuổi nhỏ; nhưng ông không nghĩ đến việc tìm lại những dấu tích văn học của chính mình. Được người em là nhà thơ Chinh Văn Phan Tân Minh động viên và giúp đỡ, trong lần về quê vào dịp Tết Tân Mão, Chinh Ba đã sưu tầm những tác phẩm nằm rải rác trong sách báo cũ để tập hợp thành cuốn sách này. Có thể nói đây là những đoá sen hồng bé nhỏ của văn học miền Nam mọc lên giữa phong ba bão táp của thời cuộc, thiếu chút nữa thì bị bỏ quên bên dòng trôi đi vô tình của lịch sử, đang tìm cách tái sinh dưới trời xanh thẳm.

Nguồn: Lời bạt trong sách Bài thơ trên xương cụt, tập truyện ngắn của Chinh Ba, NXB Trẻ, TP. HCM, 2011.

In lại trong sách Huỳnh Như Phương: Giấc mơ, cảnh tượng và cái nhìn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2019.

Bài thơ trên xương cụt

Chinh Ba

Sân gác bỗng rung lên khe khẽ. Tôi đoán chừng Trâm đến. Những bước chân êm ái đưa nhẹ về phía tấm vách lá. Ót tôi nóng ran lên một cảm giác khoan khoái: với đôi mắt đẹp như sao, nàng đang âu yếm nhìn tôi. Đốt một điếu thuốc, ngồi nhìn trang giấy đang viết dở, tôi hồi hộp chờ đợi đôi bàn tay nhỏ nhắn, mát rượi và tinh nghịch của nàng bất thần bịt ngang mắt.

Trời đứng gió, căn gác im vắng đến như tôi có thể đếm được từng hơi thở của Trâm.

Chợt có tiếng sột soạt nhỏ. Tiếp theo là tiếng chắp miệng, tiếng ho húng hắng, rồi một tràng tiếng nhai nhóc nhách đều đều.

Chỉ chừng đó thứ tiếng đủ làm tôi thất vọng. Kẻ vừa xâm nhập căn gác không phải Trâm, mà là bà Tư Ra-Dô, bà chủ nhà của tôi đó. Không cần quay lại, tôi cũng biết bà đang ghìm đầu vào vách, dõ mắt sang căn nhà bên cạnh. Đôi mắt ấy nhỏ, hơi lộ và láo liên như mắt chuột, để bà đặt vừa vặn vào các khe hở mà dòm ngó những cảnh hớ hênh của bốn phía láng giềng. Thế rồi cái miệng toang hoác của bà sẽ nói choèn choẹt cả ngày về những điều xấu xa mà bà đã dày công rình mò săn bắt được. Nhờ cái miệng đó, bà được gọi là “bà Tư Ra-Dô”. Bà chỉ nhận biệt danh ấy với một niềm kiêu hãnh vừa phải. Tuy vậy chẳng mấy ai ưa bà. Cho nên để xứng đáng với lòng ghét bỏ của mọi người, bà bèn đặt đúng chính giữa cặp lưỡng quyền nhọn hểu của mình một chiếc mũi két cong quắp. Trong ấy luôn luôn ló ra hai thỏi nước nhờn màu vàng đọt chuối. Bà sẽ hỉnh mũi hít khìn khịt hai thỏi nước đó vào mỗi khi muốn tỏ bày lòng thương cảm các nhân vật trong câu chuyện mách lẻo.

Ấy thế mà bà đến thay chỗ đứng của Trâm trong căn gác này, lúc 4 giờ chiều. Có lẽ để giải toả bớt nỗi bực dọc, tôi phóng cây bút xuống xấp giấy, rồi xô ghế đứng dậy, đi thẳng ra mái hiên. Tôi vừa tì người vào lan can thì tiếng khịt mũi của bà đã ở bên tai. Quay lại, tôi bắt gặp một cái mồm đang há to, và một ngón tay cộc cằn thò vào chỗ ấy móc ra một miếng bã trầu đỏ quạch. Đó là cách bà dọn mồm để nói một câu chuyện nhì nhằng:

“Cậu Tích à! Nguy cho cậu rồi! Con mẻ bồng cái con khỉ con của con mẻ về đó.”

Tôi muốn quát lên: “Mặc người ta, bà cút ngay đi cho tôi yên”. Nhưng tôi không thể thốt lên như vậy, vì một lẽ rất đơn giản là tôi còn thiếu bà hai tháng tiền nhà, và bà thì đang cần một cơ hội tốt để hét to điều đó.

Thấy tôi có vẻ lơ là với câu chuyện, bà cười hì hì, nâng hai bàn tay lên ngang mặt, dùng tay phải bốc một ngón trong bàn tay trái, đưa sát vào mũi tôi:

“Nè, mẹ thì hát nè!”

Bốc thêm một ngón nữa, bà tiếp:

“Con thì khóc nè!”

Rồi bà buông thõng hai tay, mặt ngấc lên trông rất thiểu não:

“Cậu làm sao chịu nổi chớ? Tôi hỏi cậu vậy hà!”

Tôi không chịu nổi thật – với cách nói chuyện đó – vội đi lùi về cuối mái hiên. Bà nhẫn nại bước theo, xoè hai bàn tay ra trước bụng, giọng phân trần:

“Cậu tính tôi nói có sai đâu. Hồi con mẻ mới dọn về đây tôi đã nói rồi, không tin cậu đi hỏi hết cả xóm coi, tôi nói làm gì thằng chả cũng đá con mẻ một cái rụp mà.”

Tuy chưa biết “con mẻ” và “thằng chả” đây là ai, nhưng nghĩ cho cùng thì cuộc đời tôi chẳng dính líu gì với hai nhân vật đó. Vậy mà bà Tư Ra-Dô cứ bức hiếp tôi phải nghe những chuyện lăng nhăng về họ, thì thật là một điều bất công mà tôi tưởng các nhà xã hội học cần nên lưu tâm đến.

“Úi chà, cậu Tích! Cậu ngó cái gì ở đẳng vậy? Cháy nhà hả?”

Thấy bà có vẻ hăng quá, tôi e bà la “nhà cháy, nhà cháy” thì mệt cho cả xóm, nên vội khoa tay nói:

“Không, không! Tôi ngó con khỉ ngồi trên cây gòn của thầy Bảy Xáng đó.”

“Ừ, cậu nói tới con khỉ tôi mới nhớ, để tôi nói cho cậu nghe, hồi con mẻ mới về đây, cái bụng còn lum lúp (hà). Đầu tháng Tư, đám giỗ ba con Thu nhà tôi, vợ chồng con mẻ đem qua hai chai la-de. Tới tháng mười thì con mẻ đẻ ra cái con khỉ nhỏ đó, nó khóc thôi… trường canh, không ai chịu nổi. Con chưa đầy tháng thì thằng chả quất ngựa chuối. Tụi “xướng ca vô loài” mà cậu, vui đâu chúc đó, chớ tình nghĩa gì. Vậy mà con mẻ ôm con đáo để đi tìm thằng chả.”

Bà dừng lại, kéo vạt áo quẹt bớt số nước trầu lộn với nước giãi đọng hai bên mép, rồi hối hả nói tiếp:

“Dữ ác hông! Bỏ cửa bỏ nhà đi từ đầu tháng Chạp tới tháng Năm, rồi cũng mang cái mạng mộc trở về.”

Trước khi buông tha tôi, bà chằng miệng ra cười the thé, rồi tiếp tục mang cái chuỗi cười vô lý đó đi xuống thang gác. Chuỗi cười được chấm dứt hẳn, lúc bà cất tiếng gọi con đến lạc giọng:

“Thu ơi, Thú à!”

Đêm đó, căn nhà tối tăm và vô chủ ở liền vách với căn gác tôi bắt đầu có ánh đèn và tiếng hát. Ánh đèn thì tù mù, tiếng hát thì buồn. Tôi tưởng như sự tối tăm, vắng lạnh của căn nhà hoang đã mở mắt và lên tiếng. Điệu hành vân áo não u trầm, mang cái buồn cổ kính của dĩ vãng, rỉ ngấm qua vách lá, làm ẩm ướt những giòng cảm nghĩ của tôi về cuộc sống. Để ý đến lời ca, tôi nhớ mang máng như đã từng nghe qua trong một vỡ tuồng cải lương nào của xa xưa:

Đoạn (cái) can tràng! (là) đoạn (cái) can tràng! Luỵ ngọc dầm chan. Ai ơi, có thấu mấy tiếng đây chăng! Duyên tóc kia (nó) lìa đoạn. Tơ tình vương vấn, rồi bình tan, ngọc vỡ khi không! Ly biệt này ai không đau lòng! Ly biệt này ai không đau lòng! Ôm sầu đòi đoạn…”

Hết hành vân, tới tứ đại oán, lưu thuỷ trường, nam xuân, nam ai, lý con sáo, rồi vọng cổ. Thỉnh thoảng trong nỗi buồn miên viễn đó, bỗng bật lên tiếng khóc dạ đề của đứa trẻ. Điệu hát liền thay cung bậc, trở nên ấm áp, đằm thắm, ngọt ngào:

Gió mùa thu, mẹ ru (mà) con ngủ. Năm canh chầy thức đủ vừa năm! Ớ chàng là chàng ơi! Ớ người là người ơi! Em nhớ tới chàng!...”

Có khi cái buồn không vơi, không nhẹ, không hao hớt vì ý nghĩa sai lạc, không hợp thời, hợp cảnh của lời ca:

Gió hiu hiu, lộc bình trôi riu riu. Anh đừng bận bịu bớ điệu chung tình! Con nhạn bay cao khó bắn, mà con cá ở ao quỳnh khó câu”.

Chẳng biết từ bao giờ, tôi đã đem lòng yêu cái buồn đó, cái buồn được phô diễn bằng những âm hưởng trong trẻo, dịu ngọt, thanh thoát, hồn nhiên và cởi mở, toả ra một cách dễ dàng từ giọng hát đặc biệt của người miền Nam. Điệu buồn trở nên thân thuộc như đã in hẳn trong tiềm thức tôi tự đời nào. Những bông hoa tình cảm tôi vươn lên trên đài cao và nở rộng với bao la. Những câu bẩn làm nhơ bợn tâm hồn tôi từ khi bon chen vào cuộc sống bổng quyện lấy nhau mà trầm lắng xuống đáy thẳm trong vực lòng.

Đêm đó tôi viết dễ dàng như tôi thở. Tôi gửi vào cuộc đời niềm tin yêu màu hồng.

Tôi nghĩ cái buồn đôi khi cũng cần thiết cho con người như chút phèn chua cần thiết cho một ly nước đục. Bởi vậy, thà mùa thu không có gió, chứ đêm khuya đừng vắng tiếng côn trùng. Những tâm hồn thao thức biết lấy gì mà thở nếu không có tiếng dế nỉ non, tiếng vạc kêu sương, tiếng từ quy khắc khoải, tiếng khóc của trẻ con, tiếng ru của bà mẹ bên hàng xóm!

Tôi có một định nghĩa hơi rộng rãi về người nghệ sĩ, nên qua một đêm gần gũi với sinh hoạt văn nghệ của người đàn bà mà bà Tư Ra-Dô gọi tắt là “con mẻ”, tôi gọi người đàn bà ấy là một nghệ sĩ. Sáng hôm sau, bà Tư lấy làm ngạc nhiên thấy tôi vồn vã với bà trong câu chuyện về “con mẻ”.

“Sao, con mẻ hát cả đêm mà cậu chịu nổi à?”

Tôi mỉm cười, không trả lời thẳng vào câu hỏi:

“Con mẻ của bà hát hay quá!”

Bà luôn luôn cố tỏ ra khôn lanh, hiểu biết nhiều, và đồng ý một cách nhiệt thành với người đối diện:

“Trời ơi! Tôi nói tôi mê con mẻ mà. Đào hát mà hát không hay sao được cậu! Út Lệ đó, hồi trước đi gánh Nam Giang đó, cậu không biết sao!”

Út Lệ, cái tên nghe xa lạ quá. Nhưng tiếng hát và tâm hồn của người đàn bà ấy gần gũi với tôi biết chừng nào. Từ đó, những buổi trưa, những đêm tối, tôi thường nghe tiếng hát của Út Lệ. Hình như nàng sống để hát, và sống bằng chính tiếng hát của mình.

Bà Tư thường thóc mách với tôi nhiều điều xấu về Út Lệ. Điều bà cho rằng xấu nhất là Út Lệ không biết làm ăn buôn bán, không kiếm đủ sữa cho con bú, có đêm đã khuya còn xách chén qua xin cơm nguội của bà. Theo bà, sự thiếu ăn là cái quả của những tính xấu.

Một buổi trưa vắng tiếng hát Út Lệ, tôi đang ngồi đọc lại một bản thảo thì bà Tư Ra-Dô chạy đùng đùng lên thang gác. Mắt sáng quắc, bà nói khào khào vào tai tôi:

“Con mẻ đổi nghề rồi cậu ơi! Hồi nửa buổi có một thằng cha vác cái bản mặt cô hồn, vô nhà con mẻ. Hai người rủ rỉ rù rì gì suốt mấy giờ đồng hồ. Thằng chả vừa về là con mẻ đi mua nào là gạo nè, than nè, nước mắm nè, bánh mì nè. Cái mặt con mẻ đang tươi roi rói, thấy tôi ngó tới cái thì sượng trân liền.”

Rồi hai tay chắp sau lưng, đầu nghẹo sang một bên, mắt trừng trừng, bà dằn từng tiếng:

“Tôi hỏi cậu vậy chớ tiền đó ở đâu ra? Tiền đó là tiền gì chớ?”

Bước tới cầu thang, bà còn ngoái cổ lại, cất giọng lảnh lót:

“Tôi nói vậy mà phải không cậu?”

Tôi liền đứng dậy, chỉ cái khoảng trống chỗ thang gác, hỏi bà:

“Dì làm cho cháu một miếng bửng chỗ đó có được không?”

“Chi vậy cậu?”

Tôi thẳng thắn đáp:

“Để đậy cầu thang lại.”

Bà ngó tôi bằng cái đuôi con mắt, rồi xuống hết thang gác bà mới nói vói lên:

“Cái đó dễ mà, hễ cậu trả tiền nhà thì tôi làm liền hà!”

Bẵng đi hai ngày tôi được yên ổn làm việc. Đến ngày thứ ba, tôi vừa đi phố về, chưa kịp thay áo, đã thấy bà Tư thập thò chỗ cầu thang. Không nỡ để bà tiu nghỉu thối lui, tôi mở đường cho bà bằng một nụ cười khuyến khích. Tuy không được tự nhiên như những lần trước, nhưng mặt bà cũng đầy vẻ hớn hở với cái tin vừa săn được của Út Lệ:

“Con mẻ có chồng khác rồi cậu ơi! Cái thằng cha bữa hổm đó. Chiều nay thằng chả dọn về ở luôn với con mẻ. Cậu biết hông, tôi hỏi khéo một câu là con mẻ rút ruột ra nói hết trọi. Thằng chả hồi trước đi lính BX, bây giờ làm trong lò heo Chánh Hưng (á)! Mỗi tháng ba ngàn lận… Thôi, vậy cũng khoẻ cho hai mẹ con con mẻ, phải không cậu?”

Bà cười hề hề rồi nói bô bô, phơi bày lòng tốt của mình:

“Tính tôi vậy đó cậu ơi! Không ích kỷ, thấy ai khá cũng mừng cho họ. Chớ nhiều người ớ nghen, thấy người ta ngóc đầu lên là ganh ghét, đâm bị thóc, thọc bị gạo. Như con mẹ Tám Chả-giò đó cậu, ông Trời ổng…”

Tôi thiết nghĩ, nghe cho hết chuyện “con mẹ Tám Chả-giò” thì cũng chẳng ích lợi gì cho lắm, nên giả đò dòm ngoài lan can, nói một mình: “Ai như bà Tám vậy kìa!” Bà Tư liền lật đật chạy xuống cầu thang, tự càu nhàu mình:

“Cơ khổ, nó rủ 12 giờ qua nhà nó đánh xiệp mà nói ba điều bốn chuyện nhè quên mất.”

*

Chiều hôm đó, nhà Út Lệ có thêm một giọng đàn ông ồ ề. Giọng ồ ề đó cứ mỗi ngày một to dần, cho tới tuần sau thì trở thành cái loa làm náo động hết cả xóm. Con nít rủ nhau quần tụ trước nhà Út Lệ để xem lão Ba Lò Heo say rượu.

Lão xách dao rượt Út Lệ chạy quanh giường, đe sẽ cắt cho kỳ được cái lưỡi của vợ, chỉ vì chị vừa hát ru con bằng mấy câu này: “Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội, người xa người tội lắm người ơi!…”

Lão hét lên:

“Tao hỏi mầy, người xa người đây có phải là mầy xa nó không? Tao là chồng mầy, tao ở sờ sờ trước mắt đây mà mầy dám thở than thương tiếc thằng chồng cũ của mầy. Như vậy làm thân con đàn bà một dạ hai lòng như mầy thì thử hỏi có đáng thẻo cái lưỡi mầy đi, có đáng sả nát cái thân mầy ra không chớ?”

Những tiếng sau cùng lão rít lên cùng một lúc với tiếng dao cheng chẻng chém xuống thanh giường. Lão la, lão hét thêm một hồi nữa rồi nằm vật xuống nền đất, ngáy khò khò.

Mấy tuần lễ sau, qua nhiều lần bình giảng thi văn bằng dao, bằng búa và bằng hơi men sặc sụa, lão kết luận rằng câu hát nào của Út Lệ cũng có ý than duyên trách phận, cũng có chút tình kín đáo nhắn gửi người chồng cũ. Cứ mỗi lần bình giảng như vậy, lão “bỏ” một câu hát của Út Lệ. Vì vậy mà cái vốn liếng văn nghệ của gia đình Út Lệ ngày càng sa sút nghèo nàn dần.

Cho đến một đêm, nhân lúc tỉnh trí, lão Ba Lò Heo dịu dàng cắt ngang một câu vọng cổ của vợ, rồi thỏ thẻ bày tỏ nỗi lòng mình:

“Em Út à, mỗi lần nghe em hát một bản cải lương là anh thấy khó chịu trong bụng quá sá! Em còn thương nó không? Em nói thiệt đi?”

Giọng của Út Lệ nhỏ nhẹ, nhưng không giấu nổi chút bực dọc:

“Tôi lấy anh thì tôi thương anh chớ còn thương ai. Hỏi nghe kỳ hông!”

“Vậy từ rày em đừng hát nữa có được hông?”

Ba tiếng “có được hông” lão dằn mạnh với giọng vừa khuyên vừa doạ. Út Lệ khẩn khoản:

“Cái kiếp em là kiếp con hát, em hát từ nhỏ tới giờ quen rồi, không hát chịu không được!… Với lại không hát thì thằng Bình nó không ngủ, nó khóc hoài làm sao anh chịu được.”

Rồi nhân lúc lão Ba còn đang lựa lời, Út Lệ năn nỉ thêm:

“Em hát là hát cho vui vậy chớ đâu có thương ai nhớ ai. Anh đừng ghen bóng ghen gió tội nghiệp em!”

Lão Ba nổi nóng:

“Ghen, ghen cái con khỉ khô họ! Mầy hát mấy câu hát đưa em không được sao chớ? Cái đồ cải lương cải liếc, vọng cổ vọng kiếc đó là đồ… đồ dở ẹt. Tao biểu bỏ đi là bỏ đi!”

Út Lệ còn cố níu chút hy vọng mong manh:

“Mấy câu đó anh cũng cấm rồi, đâu còn câu nào!”

“Sao không còn! Tao nghe con mẹ Tư Ve chai hát cái câu gì mà có con két đó, nghe được quá chớ, sao không hát?”

“Có một câu đó hát đi hát lại hoài sao?”

“Còn cái câu “ví dầu ví dẫu, ví dâu” nữa chi!”

Thế là đêm đó, nghệ sĩ Út Lệ chỉ được phép hát vỏn vẹn có hai câu:

Chiều chiều bắt két nhổ lông

Két kêu bớ chị chị đừng ác nhơn”.

Ví dầu ví dẫu ví dâu,

Ví dâu dâu chạy, ví trâu vô chuồng”.

Cũng từ đó, tiếng hát của chị có giọng oán hờn thống trách, dần dà về sau lại đượm ý chán nản, liều lĩnh, khinh thị. Mỗi tiếng hát như một nhát dao băm vào vết đau khổ trong lòng mình, và xỉa xói vào tâm can người nghe. Hai câu hát ngô nghê, lạt lẽo và vô nghĩa mà Út Lệ phải hát đi hát lại mãi, đã làm tôi khó chịu hơn cả những câu chuyện lăng nhăng, nhảm nhí của bà Tư Ra-Dô.

Chỉ trong vòng một tuần lễ, những tiếng “ví dầu” xoay tít trong ý nghĩ tôi, đánh nhịp theo bước đi của tôi. Và câu “bắt két nhổ lông” lúc đầu chỉ làm tôi tức cười cho cái cắc cớ của người đặt ra nó; nhưng về sau, cứ mỗi lần nghe Út Lệ thốt lên thì tóc tôi in tuồng dựng đứng dậy, một cảm giác ran ran đau nhức chạy luồn trong da đầu.

May thay tình trạng đó chỉ kéo dài trong vòng nửa tháng thì có một biến cố lớn trong gia đình Út Lệ. Biến chuyển đó bắt đầu bằng việc Út Lệ tự tiện sửa đổi câu “ví dầu” nguyên tác thành câu:

Ví dầu, ví dẫu, ví dâu,

Ví dâu, ví dẫu, ví dâu, ví dầu”.

Cứ thế chị hát giật giọng từng hai tiếng một. Giọng hát không còn buồn giận nữa. Chị đã dùng tài diễn tả của mình biến những âm thanh gần như vô nghĩa đó thành hàng loạt kim nhọn, rồi bình tĩnh và ngạo nghễ đẩy từng chiếc vào tim, vào óc lão Ba Lò Heo. Ngày đầu lão còn lặng lẽ chịu đựng cuộc phản công đó. Nhưng qua đêm hôm sau thì tôi đã nghe tiếng hét của lão:

“Mầy hát cái mửng gì mà đâm gan người ta quá vậy! Có câm họng lại không? Tao lột lưỡi mầy bây giờ!”

Út Lệ xẵng giọng cãi lại, nhưng chính là cách kín đáo ca ngợi thắng lợi của mình:

“Ông biểu tôi hát câu nào thì tôi hát câu nấy. Trong câu hát có gươm có dao gì đâu mà ông nói tôi đâm gan ruột ông!”

Lão Ba hồ đồ:

“Vậy mà… tao biểu mầy im thì mầy phải im. Lý sự thì tao vặn họng.”

Không có tiếng hát, thằng Bình không chịu ngủ, ngoe ngoé khóc lên. Út Lệ lặng thinh, để mặc cho con khóc. Sự nín tiếng tuyệt đối đó thành một cách chống đối có hiệu quả. Chỉ nửa giờ sau, lão Ba phải đầu hàng:

“Mầy làm gan với tao hả? Sao không ru cái thằng quỷ con đó cho nó ngủ đi!”

Út Lệ ung dung cất tiếng hát. Thế là con két bị đem ra nhổ lông:

Ầu ơ…ơ… Chiều chiều bắt két nhổ lông, két kêu bớ chị, ờ…ơ… chị đừng ác nhơn…

Câu tiếp đáng lẽ là câu “ví dầu”, nhưng vừa bị cấm, Út Lệ phải hát lại câu “chiều chiều”. Để khỏi nhàm chán, chị không “bắt két nhổ lông” nữa, mà lại “bắt chó nhổ lông”:

Ầu ơ… Chiều chiều bắt chó nhổ lông, chó kêu bớ chị ờ…ơ… chị đừng ác nhơn.”

Rồi cứ theo cách đó, mỗi lần lặp lại câu hát, chị lại tìm một con chim hay con thú, có cái tên bằng thanh trắc để thế vào địa vị khốn nạn của con két.

Ầu ơ… chiều chiều bắt ngỗng nhổ lông, ngỗng kêu bớ chị ờ… ơ… chị đừng ác nhơn… Ầu ơ… chiều chiều bắt chuột nhổ lông…

Đôi khi chị “nhổ lông” cả những con không có nổi một sợi lông như con rắn, con nhái, con cóc. Sau cùng, tới lúc chị hát: “Chiều chiều bắt ấy nhổ lông… Ấy kêu bớ chị…” thì lão Ba gầm một tiếng dữ tợn, đập phá một vài món đồ đạc trong nhà, rồi xách xe đạp đi thẳng.

*

Năm ngày sau tôi mới nghe lại tiếng nói của lão Ba. Lão về vào một buổi trưa, với một cân thịt quay, một cân bánh hỏi và một giải pháp cho tình trạng bế tắc của nền văn nghệ gia đình.

Sau khi ăn uống no nê, hể hả, lão Ba vui vẻ bảo Út Lệ:

“Em Út à! Cái lưng anh đây, bữa rày em muốn hát thì cứ tự do ngó vô đây mà hát cho phỉ tình.”

Út Lệ sửng sốt:

“Uý trời! Anh xăm, anh vẽ nát cái lưng vầy đây hả?”

“Thì còn xăm được chỗ nào nữa đâu mà không xăm cái lưng, hỏi kỳ hông! Trước bụng thì có con đầm; trên ngực thì có cặp rồng chầu, tay chơn thì có lân, có quy, có phụng. Đừng hỏi lôi thôi, đọc lên nghe thử coi nà!”

“Mà ai xăm cho anh vậy chớ? Phải Tư Kiên hông?”

Lão Ba cười to:

“Cái thằng đó mà biết xăm cái con khỉ mốc! Nó làm cho người ta sanh ghẻ sanh sẹo thì có. Thằng này là thằng Bảy Kền, bạm của anh hồi ở Nam Vang, em không biết nó đâu. Thôi, đọc hai bài thơ đó đi!”

Út Lệ lẩm nhẩm đọc, bên này vách tôi chỉ nghe câu được câu mất:

Nam vô tửu như kỳ vô phong

Người mà không có rượu thì không phải người

……………………………………………

Kể từ lúc ta vào làng đế

Cái sự đời ta để sau lưng

Men lên chí cả thêm lừng

Công danh ta túm trong quần ta chơi…”

Đọc xong hai bài thơ, Út Lệ lập lờ khen hay. Lão Ba khoái chí cười ngất. Giọng hí hửng, lão Ba bảo Út Lệ:

“Đâu, em Út hát lên cho anh nghe thử coi!”

Út Lệ từ chối khéo:

“Phải thuộc mới hát được.”

“Đây nè, học cho thuộc đi!”

Út Lệ lúng túng:

“Hay thì hay đó… mà cái thứ thơ này học khó thuộc quá hà!”

Lão Ba tức giận, nói gằn từng tiếng:

“Tao… biểu… mầy… phải… học… thuộc!”

Tôi đang lo, không biết Út Lệ có nại ra được cớ gì để từ chối nữa không, thì đã nghe tiếng đọc đều đều của chị. Tôi tưởng tới nỗi khó chịu trong những ngày sắp tới, mỗi khi nghe Út Lệ miễn cưỡng hát ru con bằng những câu thơ kệch cỡm đó. Nhưng chỉ một lát thì Út Lệ ngưng đọc, chị thỏ thẻ nói với chồng:

“Anh Ba nè, sao đọc mấy câu này tôi nhớ ba thằng Bình quá hà!”

Lão Ba đập tay xuống giường, ngồi bật dậy thét:

“Sao? Mầy nói sao?”

Tin vào ngón đòn tâm lý của mình, Út Lệ bình thản đáp:

“Hồi đóng vai Uất Trì Cung, gã cũng nói lối mấy câu tương tự như vậy đó.”

Ba Lò Heo chui mình xuống giường, giọng buông thõng:

“Thôi, thôi bỏ đi!”

Út Lệ ỡm ờ:

“Tôi học thuộc rồi mà bỏ chi uổng vậy!’

Ba Lò Heo cương quyết:

“Tao… biểu… bỏ… là… bỏ.”

Ngoài chút tình thương cảm sẵn có với Út Lệ, bây giờ lòng tôi lại thêm mến phục chị. Người nghệ sĩ ấy đã thắng liên tiếp trong những điều kiện khó khăn. Nhưng có lẽ chị cũng như tôi đều không ngờ rằng Ba Lò Heo còn thủ một miếng đòn tối hậu để giành lấy phần thắng sau cùng.

Lão nằm, ngẫm nghĩ, cười sằng sặc một mình rồi trổ miếng đòn bí hiểm đó ra:

“Em Út nè! Đâu, em trịch cái quần anh xuống một chút thử coi có cái gì, hà hà hà…”

Thật là một câu lỗ mãng và tục tĩu mà chỉ có Ba Lò Heo mới thốt lên được một cách tự nhiên như vậy! Út Lệ im lặng, sự im lặng có nghĩa như một tiếng khóc nấc.

Lão Ba nói:

“Em thấy chưa? Ở trên chỗ xương cụt đó, thằng bảy Kền làm riêng bài thơ tặng anh. Học thuộc đi rồi hát cho anh nghe. Đừng có lôi thôi gì nữa hết.”

Út Lệ vẫn im lặng. Bây giờ sự im lặng đọng lại thành một giọt nước trong khoé mắt tôi.

Bên kia vách, hình như men rượu đã ngấm đều vào máu Ba Lò Heo, lão rút con dao phay liếc rổn rảng trên vành lu.

“Đọc, tao biểu mầy đọc, không đọc thì bay đầu!’

Út Lệ nghẹn ngào, đọc đi đọc lại bài thơ nằm ở chỗ kém sạch sẽ đó.

Trong đời tôi, tôi đọc thơ cũng khá nhiều, tôi nghe người ta ngâm thơ cũng bộn, nhưng tôi chỉ biết có một bài thơ làm cho người đọc phải vừa đọc vừa khóc vì tủi nhục, ấy là bài thơ trên xương cụt của Ba Lò Heo.

Hẳn có vị tò mò muốn biết bài thơ ấy hay ho như thế nào! Lúc đầu tôi đã toan ghi nó ra đây, nhưng e làm thế thì vô lễ với độc giả quá, nên lại thôi. Tuy vậy, nếu giấu đi cái phần độc đáo của bài thơ thì cũng tủi cho tác giả đã dùng một thứ kỹ thuật tân kỳ để làm cho những dục vọng của Ba Lò Heo được tẩm quất đều đều qua từng câu từng chữ. Những dục vọng ấy chỉ súc tích trong những hạng người thường ngứa ngáy chỗ xương cụt, mà không muốn tự mình gãi cho mình.

Nếu nói một cách khôi hài thì Ba Lò Heo đã định nghĩa văn nghệ là sự tẩm quất dục vọng hoặc là sự làm-đã-ngứa chỗ xương cụt; nên lão đã đặt cơ sở nền văn nghệ trên chiếc xương cụt của lão.

Nghệ sĩ Út Lệ không đồng ý như vậy, nên qua ngày hôm sau, thừa lúc lão Ba đi vắng, chị bồng đứa con riêng, bỏ nhà ra đi.

*

Út Lệ vắng nhà chưa đầy một tuần thì Ba Lò Heo đã có người đàn bà khác. Họ ăn ở với nhau có vẻ tương đắc lắm, trong nhà không hề có “tiếng bấc tiếng chì”. Người đàn bà ấy – theo bà Tư Ra-Dô cho biết – trẻ hơn Út Lệ, mặt mày khá sáng sủa, thân hình đầy đặn, làm việc giỏi, biết chiều chuộng chồng, không bao giờ ngồi lê đôi mách. Và người đàn bà ấy câm từ lúc mới lọt lòng mẹ.

Một hôm tình cờ đi ngang qua nhà Út Lệ – mà bây giờ là của lão Ba Lò Heo – tôi thấy lão đang săm se một tấm gương soi mới mua, khá lớn. Bỗng tôi đem lòng thương hại lão. Tôi nghĩ: những lúc buồn, có lẽ lão phải dùng tới tấm gương ấy để đọc bài thơ trên xương cụt của mình. Như vậy những chữ trong gương đều bị đảo ngược hết, thật khó lòng cho lão quá.

Kể từ đó, hễ nhìn bất cứ vào cái gì có hình chữ nhật – nhất là những trang giấy trắng trên bàn viết của tôi – thì tôi nghĩ đến tấm gương soi của lão Ba Lò Heo, và thấy nguyên cả một sự tục tĩu kèm với bài thơ trên xương cụt, thấy nguyên cả hiện tình văn nghệ tồi tàn của gia đình lão. Những đêm khuya, nhìn tấm vách lá, tôi lại nhớ tới tiếng hát của Út Lệ. Tôi tin rằng trong một thôn xóm nghèo nàn nào đó, dù đang đói rách, người nghệ sĩ ấy cũng đang được tự do hát những bài hát mà mình ưa thích.

Rốt cuộc Út Lệ đã thắng. Chị thắng nhờ biết sống đúng với phương châm:

Ví dầu, ví dẫu, ví dâu

Ví dâu, ví dẫu, ví dâu, ví dầu”.

Nguồn: Tạp chí Giữ Thơm Quê Mẹ, số 4 tháng 10/1965

Comments are closed.