Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 185): Phạm Thị Ngọc – Florence

Ngày xưa, trong một lúc lẫn lộn giận yêu, chàng đã phê bình tôi một câu như vầy: em sao con gái gì mà khó bảo. Bây giờ, hiện giờ, khi lại một lần nữa chỉ còn một mình trên quãng đường đời thênh thang, tôi có nhớ đến chàng, và tôi thấy điều chàng đã nhận xét ngày xưa chưa thấm vào đâu so với hiện tại. Ngày xưa, tôi đã giải thích cho chàng hiểu tại sao tôi cứng đầu, giải thích bằng một vài câu về “tiểu sử”, về “thuở ấu thời” mà tôi nghĩ giá ngày xưa tôi đừng nói gì thì hơn. Nhưng cũng chẳng sao. Chàng hiểu được gì, tôi hiểu được gì, bây giờ cũng chẳng có gì khác biệt đối với tôi.

Ngày xưa, vào cái thời mà chàng còn có thể gắt “sao em ngày càng cứng đầu” đó, và vào khi tôi còn có thể giải thích cho chàng, tôi nói rằng tôi lớn lên thiếu thốn sự đùm bọc của người đàn ông nên ra như vậy. Sau 75 tôi không có cha, và lại mất đi người anh khi anh tôi đổ xuống như một loài cổ thụ hoang bị đốn ngã, mở ra một mảnh trời, hé ra một chút mặt trời cho các loài sâu bọ cây dại khác từ trước tới giờ vẫn sống dưới bóng cây. Ngày ấy, chàng không thích cách giải thích của tôi.

Nhưng bây giờ, nhớ lại cách giải thích ấy chỉ làm cho tôi thấy buồn cười, và nhớ nét mặt đăm chiêu của chàng lúc ấy càng làm tôi thấy buồn cười hơn. Tôi, con nít con nôi, giải thích tâm lý học. Chị tôi từ thuở bé cho đến thuở lớn luôn có bố tôi che chở, luôn có bố bênh vực cho cả những lần chị tử chiến với trẻ con họ hàng láng giềng. Vậy mà lớn lên chị vẫn không trở thành nữ nhi nhu nhược. Nhưng, chị tôi hình như sanh ra đã là một nghịch lý (chứ không chỉ là một ngoại lệ), một antithesis (nói theo tiếng triết học cho oai). Và còn mẹ tôi nữa. Mẹ tôi không thiếu sự hiện diện của người đàn ông trong đời bà, lập gia-đình khi còn rất trẻ, và chỉ xa ông ngoại tôi khi bà cùng chồng đi Nam. Nhưng về mẹ tôi, tôi nghĩ đó là một đề tài tôi chỉ nên nói thật ít.

Tôi nhớ tôi có nói với chàng thở ấu thời làm tôi cứng đầu, nhưng cũng làm tôi cần có một người đàn ông, có lẽ cần hơn mọi người đàn bà bình thường khác. Ðiều này tôi không bao giờ phủ nhận hay đem ra để khôi hài. Lúc nói với chàng, tôi có thu người tôi lại trong vòng ấm thoát ra từ người chàng. Nhưng bây giờ, tôi biết rõ hơn, tôi cảm thấy rõ hơn, sự thiếu thốn của tôi. Tôi biết, dẫu có chàng trong căn phòng này đi nữa, dẫu có chàng bên trong vòng ấm của tôi đi nữa, tôi vẫn thấy chưa đầy đủ. Sự hiện diện không đầy đủ. Sự hiện diện của chàng là sự hiện diện không đầy đủ. Dù sao, tôi cũng mừng vì ngày xưa tôi đã không nói với chàng điều đó.

Anh tôi, ngày xưa đứng trên mặt đất vững vàng như một loài cổ thụ, bây giờ nằm dưới lòng mặt đất, chẳng còn là gì. Ðã mười mấy năm rồi, hình ảnh về cái chết của anh trở về trong trí nhớ tôi cũng chỉ phảng phất mơ hồ thôi. Ngày giỗ, tôi đi thăm mộ, đem theo vài chậu hoa tươi và hoa giả. Nhớ về anh, tôi có một ý nghĩ: anh già quá. Già trong mọi chọn lựa, từ áo quần đến bạn bè đến cả lời ăn tiếng nói. Anh già, nhưng lại quá trẻ trong sự lựa chọn bạn gái. Anh mê một đứa con gái chỉ hơn tôi có non một tuổi. Thu Sương với tôi ngày ấy chưa bao giờ nói chuyện với nhau. Thu Sương tiểu thư mấy ai được gặp, tôi có bao giờ được dạy thế nào là tiểu thư. Thu Sương… học dốt, tôi đỡ dốt hơn. Thu Sương ra đường chỉ đi chơi với em gái, tôi có cả một bầy bạn gái.

Bây giờ, có lẽ tôi chẳng còn bạn nào nữa. (Mười mấy năm qua rồi, đến bây giờ tôi mới bắt kịp Thu Sương của mười mấy năm trước). Thu Sương bây giờ nghe đâu cũng đã hai con, và vừa mới ly dị chồng. Anh tôi còn sống chắc chẳng đi đến chuyện gì với Thu Sương, nhưng chắc anh cũng chẳng vĩ-đại như tôi đang vĩ-đại-hóa anh bây giờ. Sống bấy nhiêu cũng đủ.

Tôi quay lại khi mẹ tôi bảo sửa lại chậu hoa bên cạnh bia đá. Tôi làm theo lời bà, rồi hai mẹ con đọc đoạn kinh ngắn trước khi rời nghĩa trang. Có lúc tôi nhìn bà, và nghĩ hình như sự phiền khổ không còn nữa trên nét mặt bà, trên hơi thở bà. Mười mấy năm rồi, anh bây giờ sướng hơn mẹ. Nhìn bà, tôi muốn để ý, tìm một nét lạ nào đó qua khuôn mặt. Lâu nay bà hay than tim đau, đau nhất là khi tôi cãi, cho nên đừng cãi bà nữa. Tôi cho đó là một cách bà dọa tôi, làm áp lực bắt tôi phải lấy chồng. Nhưng tôi vẫn để ý một nét lạ nào đó, nếu có.

“Bây giờ, mình đi thăm bà Florence. Tiện có con về Mẹ mới đi thăm người ta được,” mẹ tôi nói. Florence Baudoin. Tên Florence Baudoin lướt thật nhanh trong đầu tôi, tìm ra một khuôn mặt. Hình ảnh Florence Baudoin được gợi lên, làm lòng tôi chợt chùng xuống.

Nhưng trước khi lên xe, đầu óc tôi chưa bỏ hẳn mộ anh. Tôi nhớ, những buổi trưa ngày xưa còn bé, tôi hay đến bên anh những lúc anh ngủ, vạch mí mắt anh ra để xem lúc anh ngủ rồi thì mắt anh đi đâu, có nhìn thấy tôi không. Tôi nghịch mgợm vạch mí mắt anh bằng bàn tay nhỏ, vạch rồi lại buông, buông rồi lại vạch. Mắt anh vẫn còn nguyên ở đó, không đi đâu cả. Mắt hơi lồi, còn đủ cả lòng trắng lòng đen. Nhưng anh không nhìn thấy tôi. Tôi đã nghĩ rằng anh chỉ giả vờ ngủ, và giả vờ không nhìn thấy tôi. Chỉ giả vờ thôi.

*

Chàng có đi với tôi một lần đến thăm bà Florence Baudoin. Chúng tôi đứng gõ cửa mãi mới được bà ra mở cửa cho vào. Chàng lúng túng khi bước vào một thế giới hiu hắt của một người đàn bà bảy mươi không chồng. Tôi thì không lạ lùng gì cả, vì đã biết trước. Tôi không có mục đích đem chàng đến để khoe với bà. Tôi đến vì muốn chào bà trước khi tôi đi học xa. Dù có chàng, nhưng tiện đường, thành thử tôi ghé vào từ giã một người đã đối xử với gia-đình tôi rất tốt.

Tôi nhớ chàng đã lúng túng khi bước vào thế giới ngăn nắp không một hạt bụi, và cũng là một thế giới lạnh lẽo thiếu ánh sáng của một bà già độc thân. Trong thế giới đó, sự tối tăm lờ mờ lúc nào cũng đòi người ta phải điều chỉnh lại con ngươi khi bước vào, sự sạch trơn từ sàn nhà cho đến vách tường đến cả mọi góc cạnh làm người ta không dám đi sâu vào quá vài bước từ ngưỡng cửa. Sàn nhà gỗ bóng loáng làm chàng lúng túng cởi giầy. Bà Florence bảo cậu không phải cởi giầy. Nhưng khi chúng tôi đã bước vào trong, và khi tôi ngồi nói chuyện còn chàng thì đứng ngắm tranh trên tường, có lúc chàng toan rút bao thuốc từ trong túi áo thì Florence đã vội nói cậu đừng hút thuốc ở đây. Chàng đưa mắt nhìn tôi, và tôi cười trong mắt để chàng biết rằng tôi hiểu chàng đang nghĩ gì. Florence quay qua tôi và hỏi tôi sắp đi có cần thêm tiền không. Tôi trả lời thưa không, tôi đến chào bà vì tôi coi bà như mẹ. Bà bảo từ bé đến lớn tôi là đứa con gái ngoan, bà muốn tôi luôn ngoan như vậy.

Mắt Florence sau cặp kính nhà giáo nhìn thẳng tôi. Mắt bà xanh, xanh như đôi mắt của loài mèo, xanh biếc tôi thấy cả con ngươi chính giữa. Màu tóc thì thay đổi theo thời gian, nhưng màu mắt thì không thay đổi. Mắt thì đục mờ đi theo thời gian nhưng mắt Florence thì vẫn còn tinh sáng. Florence ngồi đối diện tôi, ngồi thẳng lưng trên chiếc ghế bành bà thường ngồi, chân này chéo qua chân kia dưới làn áo wardrobe. Chân bà xỏ đôi giày đi ở trong nhà, loại giầy bông thật nhẹ. Nhưng đôi cổ chân bà, tôi thấy, sưng vù như bị phù thủng, đôi chân sưng trắng bệt, đây đó lốm đốm những mảng da nám màu nâu nhạt.

Tôi nghĩ, hình thù của đôi chân người ta cũng là do cuộc đời, số mệnh uốn nắn. Hình thù đôi chân, đôi bàn chân, tùy thuộc vào loại giầy dép người ta mang, vào mặt đất người ta đứng, vào lộ trình người ta phải đi qua. Ðôi chân mẹ tôi lòi mắt cá hai bên, có những lằn gân từ đó chạy lần lên ống khuyển.

Bàn chân mẹ tôi bị chai ở gót, lâu lâu đau nhói bà bảo tôi cắt hộ bà lớp da khô chai dầy cộm. Có lần, khi tôi hỏi về một vết thẹo ở bắp chân, mẹ tôi kể ngày còn bé bà bị chó nhà ông ngoại cắn bậy. Tôi nhìn bà không hiểu. Bà giải thích, chó nhà ông và bà trẻ.

Khi chúng tôi đứng lên cáo từ Florence thì ngày đã ngả về chiều. Ðèn đường đã tự động bật sáng dù trời chưa đậm màu. Tôi ngỏ ý nuốn xem khu vườn của Florence thì bà nói cứ tự nhiên nhưng còn bà thì ở lại trong nhà vì bà không hay ra ngoài vào giờ đó. Khi cánh cửa lưới vòng ngoài được đóng lại, tôi chỉ còn thấy lờ mờ vạt áo Florence di động loáng thoáng ở bên trong, và rồi cũng biến mất khi bà đóng nốt cánh cửa gỗ. Chàng hỏi tôi còn muốn coi vườn nữa làm gì. Thật ra, tôi muốn nhìn lại căn nhà bên cạnh, nơi gia-đình tôi đã ở được năm năm đầu khi mới đến.

“Ở lại với em một lát nữa thôi,” giọng tôi thấp, “phim chưa đến xuất mà.”

Căn nhà bên cạnh, căn nhà gỗ sơn vàng với rất nhiều cửa sổ, là nơi đã đòi hỏi ở chúng tôi tất cả sức chịu đựng của con người. Ðó là nơi đã chất chứa tất cả những tiếng thở dài não nề nhất khi một gia đình liên tiếp trải qua những tang thương, phân ly, lỡ làng. Tôi có kể chàng nghe tuổi thơ của tôi ở căn nhà đó. Tôi đã nói cho chàng nghe những gì tôi ao ước cho tương lai, những ao ước nảy sinh từ tuổi thơ tôi. Bình thường thôi, phải không anh. Tôi đã hỏi, nhưng chàng không trả lời. Cũng chẳng có gì cần thiết.

Căn nhà bên cạnh có rất nhiều cưả sổ, những cửa sổ viền nâu trên vách nhà vàng. Căn nhà bên cạnh có rất nhiều cây, những cây cao thấp trổ hoa thơm ngát những mùa xuân. Tôi đứng bên hàng rào ngăn chia hai nhà, nói với chàng về một loài hoa màu hồng bên vườn nhà cũ:

“Hoa azaleas đó anh, còn gọi là hoa quyên.”

*

Ngày chúng tôi đến thành phố, hoa azaleas chưa nở. Ngày chúng tôi đến thành phố, vào mùa đông, nước Mỹ có rất ít để chào đón. Một nửa căn nhà trống trải, đêm ngủ trên sàn nhà gỗ gió lạnh lùa dưới gầm nhà lạnh thấu qua lưng. Bên nửa kia của căn nhà, bên kia vách tường và cánh cửa gỗ luôn luôn được khóa kín, là những cô hàng xóm có lẽ vì nghề nghiệp nên không thân thiện, những cô kỵ nữ thức đêm ngủ ngày nên lâu lâu vào những buổi sáng nào chúng tôi hơi ồn họ đã ném mạnh một vật cứng vào cánh cửa gỗ để nhắc nhở. Tiếng cạch chát chúa khi một vật cứng đáp vào cánh cửa nghe thật dữ dằn, nhưng đó chỉ là một chi tiết nhỏ trong một xã hội đầy bất ngờ này. Ngày chúng tôi mới đến, nước Mỹ vào mùa đông chỉ có những cơn mưa lạnh đi trước những lần tuyết rơi lấm tấm. Nửa bên căn nhà chúng tôi có cả mười sáu khung cửa sổ, những khung cửa sổ dài hình chữ nhật được che bằng những tấm màn ny-lông mỏng bám đầy bụi, để những khi mưa gió nhìn ra đường tôi chỉ thấy nước Mỹ ở nơi chúng tôi tứ phía là mưa lạnh. Màn cửa ny-lông rẻ tiền, trong suốt, tôi có thể thấy được khi anh tôi đạp xe về nhà giữa trưa thứ Bảy bảo rằng trời mưa ướt át không có khách rửa xe nên chủ nó bắt về sớm. Màn ny-lông trong suốt, mỗi buổi tối tôi có cảm giác như từ ngoài đường người ta nhìn vào để thấy chúng tôi bên trong đang làm gì, chúng tôi còn có thể làm gì nữa.

Và những buổi tối khi đã tắt đèn, tôi nằm nhìn qua cửa sổ, qua màn ny-lông trong suốt, nhìn ngọn đèn ga-ra nhà bên cạnh, nguồn ánh sáng duy nhất của căn nhà, nhìn và đoán xem nước Mỹ còn gì cho chúng tôi nữa không.

Khi tôi tâm sự với chàng rằng tuổi thơ của tôi ở đó sâu đậm hơn tuổi thơ ở Việt Nam, chàng đã cười và cho đó là chuyện dĩ nhiên. Tôi còn quá nhỏ để nhớ, chàng nói. Nhưng tôi nhớ, tôi nhớ rất rõ. Tôi chỉ không hay nói ra điều tôi nhớ, và nhiều khi cũng chẳng nói ra rằng tôi nhớ. Những kinh nghiệm không vui thường đậm màu hơn, tôi muốn nói như vậy. Nơi căn nhà có cả thảy mười sáu khung cửa sổ, những khung cửa sổ như những ngõ thoát của hạnh phúc, là nơi tôi được trải qua những kinh nghiệm rất khiêm nhượng nhưng rất căn bản của cuộc sống. Nơi đó đã đến thật rõ ràng bấy nhiêu mưa và nắng, bấy nhiêu tuyệt vọng và hy vọng, bấy nhiêu nước mắt và tiếng cười, đưa và đón, mộng và thực. Không bao nhiêu cả, chỉ vừa đủ cho tôi.

Trước khi mùa đông đi qua, những người hàng xóm đã dọn ra khỏi nhà bên cạnh. Mùa xuân đến, có người Việt ở thế vào chỗ đó, hai vợ chồng Việt cũng kín cổng cao tường. Mùa xuân đến, mẹ tôi có thể bước ra ngoài và khởi sự một góc vườn nhỏ ở sân sau, chiều đi học về tôi có phận sự tưới. Chủ nhà, sau mùa đông đã đến và dọn lại cỏ cây chung quanh nhà cho quang hơn.

Nhưng hình như ông đã không trở lại lần nào nữa suốt mùa xuân đó. Mùa xuân, cây cỏ đã được dọn tàm tạm quang đãng, tôi có thể chơi rượt bắt vòng quanh, lâu lâu khám phá ra đây đó có vài cốt xương khô của những con mèo hoang đã chết dưới gầm nhà.

Và, mùa xuân cũng ấm áp đủ khiến bà Florence như một loài chồn sóc thò ra đường thăm xuân, đứng làm quen với tôi bên kia hàng rào.

Lần đầu đối diện bà Florence, tôi ngỡ như mình đang thấy một bà tiên. Bà đạo mạo với mái tóc trắng búi cao, với khuôn mặt gầy nghiêm nghị, với cách phục sức dịu màu trang nhã. Tôi đang đứng tưới những cây hoa khi bà lên tiếng gọi, giọng cao.

Tôi ngẩng lên nhìn, nhưng dù cho bà đã như là một bà tiên trước mắt tôi, sự xuất hiện đột ngột của bà đã làm tôi thấy sợ. Mấy hôm trước, em trai tôi trong một lúc nghịch ngợm với cái ná đã lỡ tay bắn một hòn sỏi qua bên vườn của người hàng xóm đàng sau. Viên sỏi bắn lỡ không làm gẫy hoa, không làm vỡ cửa kính, không làm chết chim chóc, nhưng bà chủ nhà cũng dọa gọi cảnh sát. Anh tôi cũng mấy hôm trước trong ngày dọn vườn, đã đốt lá khô ngoài sân sau. Khói bốc đã gây báo động sở cứu hỏa, và chỉ độ mười lăm phút sau đã có hai xe cứu hỏa đầy đủ vòi rồng còi hú kéo đến trước nhà. Cho nên sự xuất hiện trong nháy mắt của bà Florence đã làm tôi giật mình. Tôi có làm gì sai không, tôi chỉ đang tưới cây thôi.

Tôi hiểu khi bà nói rằng bà là Miss Baudoin, nhưng tôi có thể gọi bà là Florence. Miss Florence hỏi tôi học lớp mấy trường nào và giáo viên tên gì. Tôi nói tôi học tiểu học La Rosen, cô giáo tên Ernie. Cô Ernie ngày xưa là học trò tao, Miss Florence nói. Tôi không biết nói à như vậy bà là sư tổ của tôi nên tôi im lặng.

Khi tôi vào nhà và báo động mẹ tôi rằng có người hàng xóm muốn gặp, bà nhìn tôi ái ngại như trời ơi con lại làm chuyện gì nữa đây. Ngày đó, tôi rất sợ làm mẹ tôi buồn, những cơn buồn cấn thêm vào những cơn hoang mang khi chưa ổn định đem bà tới mức nóng nảy tôi chưa bao giờ thấy. Tôi cố để làm bà vui lòng. Ðàng nào đi nữa, ít nhất tôi đã không bỏ nhà ra đi như các anh chị em khác trong nhà hết thẩy đều đã ít nhất một lần bỏ nhà ra đi rồi lại trở về. Cảnh bỏ nhà ra đi đã buồn, cảnh trở về lại càng buồn hơn.

Sáng đó là sáng Chủ Nhật. Gặp mẹ tôi, Florence nói rằng bà hay thấy chúng tôi đi bộ đến nhà thờ, vậy mai mốt hãy đi chung xe với bà nếu muốn. Thế là mẹ tôi có được một người láng giềng gần, một người láng giềng tốt. Mẹ tôi, cả một đời chỉ biết lo cho chồng con, không có đến một người bạn gần gũi. Nhưng Florence không chồng con mà hình như cũng chẳng có bạn bè, cũng chẳng thân thiện với hàng xóm chung quanh. Quen được một thời gian, tôi biết bà chỉ có hai thứ để bầu bạn: cái ti-vi, và cái xe hơi hiệu Ford truyền lại cho bà từ đời song thân.

Cái ti-vi để mở từ sáng đến tối Florence bảo là để cho căn nhà còn có tiếng người. Cái xe Ford bốn cửa tuy đã lâu đời nhưng còn được giữ gìn rất kỹ tôi nghĩ không bao giờ được lăn bánh đi đâu quá ba mươi dặm từ sân chứa.

Tôi theo mẹ vào nhà Florence cái ngày bà mở cửa mời láng giềng vào chơi. Florence bảo từ ngày mẹ bà chết, cách đây cũng hơn hai mươi năm, căn nhà bà không có gì thay đổi. Cho nên trước khi bước vào nhà bà, tôi đã tưởng tuợng đến một viện bảo tàng, và khi đã bước vào rồi tôi không hiểu sao bà có thể sống trong sự u tối đó mấy chục năm. Tôi rón rén bước qua từng phòng trong nhà Florence, chân nhẹ nhàng nhón gót, tay không dám chạm bất cứ đồ vật gì trong nhà, sợ làm xê dịch vị trí đã được ổn định từ mấy chục năm qua. Mẹ tôi sửng sốt trước sự nối tiếp êm đềm từ đời mẹ sang đời con của gia-đình Baudoin, một sự tiếp nối gần một thế kỷ không gián đoạn. Mẹ tôi sửng sốt vì nơi đây, mặt đất quá hiền hòa người ta có thể dung thân tại một chỗ duy nhất suốt một thế kỷ, hay nhiều thế kỷ nữa, dung thân yên ổn, không cần phải biết, không cần phải thấy, và có lẽ không tin rằng ở những nơi khác, dù trên cùng một mặt đất, một thế kỷ trải qua đã có liên tiếp nhiều thế hệ như những lớp sóng táp vội vào bờ, đến rồi đi, những thế hệ bỏ đất mà đi, những thế hệ vùi sâu dưới lòng đất.

Mùa xuân đến đem theo loài azaleas, loài trà mi, mộc lan, và những thứ hoa khác tôi không biết tên. Mùa xuân thứ nhất, các anh tôi tính lại chuyện học hành, trong đó có anh thu xếp vào nội trú, để lại cho tôi mấy chậu cá lia thia. Trước tuần nghỉ xuân, tôi đem giấy nhà trường về nhà, giấy mời phụ huynh đến trường cùng với giáo viên kiểm điểm lại học vấn của con em. Lần ấy anh tôi tò mò, ký giấy sẽ đến. Anh đã đến gặp bà giáo Ernie, để trở về nhà với phiếu điểm của tôi và một nụ cười khó hiểu.

Anh đưa tôi xem phiếu điểm, nói: “Bà Ernie cho anh biết em đang chơi với vài đứa trẻ không ngoan.”

Tôi cầm phiếu điểm, chột dạ, dù đã biết trước được điểm của mình. Không có gì quá đáng, chỉ có điểm hạnh kiểm là dưới mức “có thể chấp nhận được”. Tôi dán mắt vào phiếu điểm, không hiểu những đứa khác giờ này cũng đang nhìn phiếu điểm không biết có bấn loạn hơn tôi. Tôi không nhớ tôi có tội gì, chỉ nhớ có một lần, sau giờ ra chơi, chúng tôi trở vào lớp mà theo lời bà Ernie lúc đó thì chúng tôi không còn hình dạng gì cho thấy chúng tôi là con người. Bà Ernie nói khó hiểu quá. Hèn chi chúng nó vẽ râu lên hình bà, bắn bì trong lớp bà, nghịch lửa trong lớp bà, truyền thư trong lớp bà, dấu chìa khóa vào lớp của bà. Tôi vui vì đã được lũ trẻ Mỹ thu nhận và ưa thích. Tôi vui vì được nhập bọn với Karen thông minh nhất lớp, và Quinn Martie nghịch ngợm nhưng hay bênh vực bạn. Có lẽ, anh tôi cũng vui vì em gái đang bắt đầu sống trở lại nên anh cười.

Tôi, một đứa trẻ, đang tập sống trở lại giữa những đứa trẻ khác giống. Những đứa trẻ không biết phân biệt nòi giống hầu để ghét hay để ưa. Tâm tình mọi đứa trẻ ở mọi nơi đều giống hệt như nhau. Trẻ em không ngoan nhưng cũng không nên có anh hùng. Một xã hội huấn luyện trẻ em thành anh hùng là một xã hội có một cái gì đó đã sai.

Bà Ernie cuối năm ấy về hưu. Dù không ưa bà, bọn trẻ cũng định tổ chức một bữa tiễn đưa bà, chỉ thêm cớ để khỏi phải học. Tôi xung phong viết thư tiễn biệt, dù chẳng ai mời, dù biết mình còn dở chữ. Bọn trẻ chỉ ậm ừ thôi. Tôi cũng không quan trọng hóa việc viết thư, nháp được một trang rồi cất một góc lớp. Rồi tôi quên bẵng. Gần đến ngày bãi trường, bà Ernie dọn lớp và bắt được lá thư. Lá thư viết nháp cũng đủ làm bà rơi lệ, và chẳng nói chẳng rằng bà đến ôm chầm lấy con Quinn Martie là đứa học trò thiếu khả năng nhất. “Quinn Martie, tôi không ngờ trò đã viết lên những lời này.” Bà Ernie nghẹn lời.

Tôi có cảm giác rất chính xác là nước mắt của bà không hơn gì những giọt nước mắt ứa ra khi tôi ngáp dài mỗi sáng. Karen nhìn tôi, nói vừa đủ để tôi nghe rằng nó biết tôi mới là người viết thư đó. Nhưng bà Ernie cũng biết chứ! Nét chữ đó là nét chữ của tôi, lời lẽ đó chỉ có tôi mới viết được, bà là người chấm bài tôi hằng ngày chẳng lẽ bà không biết! Tôi nhìn Karen, cười oh I lied, tao viết xạo đó mày.

Nhưng cũng từ đó trở đi, tôi biết tôi không nên viết dối những chuyện như vậy nữa. Tôi vẫn viết dối, chỉ không viết dối để người tôi không ưa hiểu lầm tình cảm của tôi thôi.

Không được chuộng bằng một đứa học trò bản xứ, tôi cũng chẳng lấy gì làm buồn rầu. Ðiều làm tôi khó chịu là bà Ernie sau khi đã về hưu vẫn thường hay lui tới nhà tôi, như thể bà là người giàu lòng bác ái. Bà Ernie đến chơi nhưng ít khi nào ghé sang thăm người giáo cũ của bà là Florence. Bà Ernie bảo Florence từ hồi nào đến giờ vẫn khó tính, luôn luôn có một thái độ như mình ở một địa vị cao hơn mọi người, rất khó thân. Ðến đỗi Florence đã từ chối hôn nhân với vị hiệu trưởng vào thuở xưa khi còn dạy học. Ông ta về sau làm đến thị trưởng, còn Florence vẫn là gái già. Bà Ernie hé một tí tình sử của Florence, kể qua khói thuốc. Chẳng hiểu vì bà Ernie đã hút thuốc lá hay sao mà tôi đã cảm thấy không thích nghe.

“Sao bà không lấy chồng,” mẹ tôi vui miệng hỏi Florence một lần. Florence im lặng, tôi tưởng bà sẽ quay qua và dạy rằng đó là một câu hỏi thiếu lịch sự, như khi bà bảo tôi là bấm kèn inh ỏi trước sân nhà người, dù người quen, là một hành động bất lịch sự. Nhưng Florence đã trả lời mẹ tôi, vì dù sao mẹ tôi cũng không phải là người đáng ghét nhất đã hỏi bà điều đó. Florence nói bà không định để sống độc thân, bà cũng không nghĩ bà phải lấy chồng, bà đã sống một lối sống thích hợp nhất nên chẳng bao giờ nghĩ đời sống bà có thể khác đi như thế nào.

Câu trả lời của Florence chẳng trả lời gì cả. Tôi cũng chẳng thắc mắc gì, chỉ tưởng tượng bà ở một mình trong căn nhà đó thừa chỗ quá, giá chi bà cho tôi vào ở ké. Tôi tưởng tượng một mình tôi một phòng trong căn nhà rộng rãi mát mẻ. Nhà tôi chật chội hơn nhiều, sự chật chội không có chi là đầm ấm cả, và nhất là không buồn cười đâu.

Mùa đông thứ hai, một người anh của tôi trở về từ nội trú với cánh tay bó bột. Cả nhà không hề được anh báo tin bị gẫy tay, gẫy vì chơi đô vật trong giờ thể thao trường. Mùa đông ấy, Florence mua quà cho tôi, đôi găng tay màu đỏ bà mua từ một trong những hiệu đắt nhất. Ðôi găng tay màu đỏ quá sang trọng tôi không bao giờ dám đeo vì không hợp với loại quần áo tôi mặc. Mùa đông ấy, Florence cũng báo tin em gái bà sắp trở về từ Trung Hoa. Laurie, người em gái ngoài sáu mươi tuổi của Florence đã mãn việc ở tòa lãnh sự Hoa Kỳ tại Trung Hoa và sẽ về nghỉ hưu với chị. Và, cũng như chị, Laurie Baudoin không hề lập gia-đình.

Những ngày Laurie mới về là những ngày nhà Florence đông khách nhất. Khách đến thăm lẻ tẻ, kéo dài nhiều ngày, và đến khi không còn khách nữa thì Laurie qua nhà chúng tôi chơi. Laurie cũng cốt cách như người chị già, dáng dấp nhỏ nhắn thanh tao, y phục màu sắc trang nhã. Những câu chuyện của Laurie rộng đề tài hơn của chị, những câu chuyện như vô tận của người từng nay đây mai đó trong cõi Á Châu bao la. Nhưng, Laurie nhấn mạnh chữ nhưng, bà chưa bao giờ được đến Việt Nam cả.

Laurie đi khắp Á Châu trong mấy chục năm liền nhưng không một lần dừng chân lại Việt Nam, về đến nhà lại nghe chị nói rất nhiều về những người Việt Nam sống bên cạnh. Vâng, Laurie nói chuyện rất khéo léo, bắt hết từ chuyện này qua chuyện kia để sự hiện diện của Florence ở đó chỉ còn là một sự hiện diện phụ thêm. Lần có Laurie ghé sang chơi, mẹ tôi ngại ngùng phân trần nhà chúng tôi không có gì đẹp đẽ để dẫn bà đi thăm nhà.

Cắt lời mẹ tôi, Florence nói rằng mai kia chúng tôi sẽ phải đến thăm kho tàng Laurie mới đem về từ Á Châu, những đồ đạc trang hoàng quý giá Laurie sẽ dùng vào căn nhà mới.

Mẹ tôi sửng sốt hỏi Florence “vậy bà sẽ dọn đi sao.” Florence lắc đầu, trả lời rằng Laurie sẽ dọn ra riêng. Hai chị em, nhưng vẫn là hai thế giới riêng biệt, và cả hai đều đầy đủ, vững vàng trong thế giới riêng của mỗi người.

Laurie về cũng kịp đám tang anh lớn của tôi vài tháng sau đó. Trong những ngày gia-đình tôi lúng túng trước cái tang bất ngờ, Florence và Laurie đã luôn luôn ở cận kề, một sự thường trực quá chu đáo chúng tôi không thể đòi gì hơn. Khi anh tôi đã yên mồ, Florence bảo chúng tôi nên thay màn cửa, và vài ngày sau bà đem qua nhà chúng tôi bộ màn cửa bên nhà bà, treo từ đời người mẹ. Bộ màn cửa custom-made cũ kỹ chỉ vừa cho phòng ngủ. Mẹ tôi không có ý kiến gì về chuyện thay màn. Vải màn dầy cộm che ánh sáng mặt trời ban ngày làm cho căn phòng lúc nào cũng mang một màu lờ mờ khiến tôi liên tưởng đến nhà quàn.

Florence nói, qua những khung cửa sổ thiếu màn che của chúng tôi, có nhiều tối bà đã thấy rõ mồn một cảnh sống gia-đình tôi.

Tôi không hiểu bà có nhìn qua nhà tôi chăng, tối trước đêm anh tôi ra đi vĩnh viễn. Chẳng hiểu bà có thấy tối có bức ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp trên tường đã tụt đinh rơi xuống đất, để anh lật đật đi tìm búa đóng đinh vào tường treo tranh trở lại.

Chẳng hiểu bà có thấy tối đó anh đã mình trần đứng trước gương chải đầu bực mình không biết sẽ rẽ ngôi tóc bên phải hay bên trái hay chính giữa. Chẳng hiểu tối đó bà có nhìn qua chăng, để thấy anh tôi bực dọc hơn mọi ngày, mắng mỏ em lớn em bé là một lũ ngu như bò, để thấy tôi nằm quay mặt vào tường bực bội thầm giục thôi anh đi làm thì đi đi cho tôi còn ngủ.

Và anh đã đi luôn, để tôi còn nhỏ bước vào những bóng đêm dài nhất cuộc đời, dù không có ác mộng, những bóng đêm khi tôi ngộp thở nằm lắng nghe những tiếng động sẽ sàng nhất để tưởng chừng như anh đang trở về nhà, lưu luyến xác nhận sự hiện diện của anh, sự hiện diện mỏng manh nhẹ hẫng chỉ có tôi mới biết.

Anh đi luôn để tôi vỡ tan, vỡ tan tôi biết tôi không thể nào gượng dậy nổi. Anh buông bàn tay giữ dắt để tôi chìm sâu, chìm sâu để vùng vẫy đạp chân đạp tay hoài mà tôi vẫn không tài nào ngóc được lên trên.

Tôi đã nằm nín thở, không dám thở, nhìn bóng đêm không hiểu tôi còn muốn gì nữa, còn có thể muốn gì nữa. Tôi nhìn bóng đêm nước Mỹ nơi chúng tôi ở, không biết nước Mỹ còn gì cho chúng tôi, còn có thể còn gì nữa cho chúng tôi.

*

Cuốn phim chúng tôi đi xem là một phim về chuỵện tình của một người đàn bà với một người đàn ông điên. Một tình yêu thật bền bỉ của nàng dành cho chàng, bỏ gia-đình xã-hội để tìm đến với chàng, đi với chàng qua những cơn điên loạn, sẵn sàng chịu đựng khi người đàn ông điên trút cơn giận dữ vô nghĩa lên nàng, thô bạo giải quyết sinh lý trên nàng. Cuối phim, người ta bắn chết chàng để cứu đứa bé trai, con của chàng và nàng, mà chàng trong cơn điên loạn đã bắt đi trong đêm. Một người điên bị bao vây bởi muôn người tỉnh, sợ hãi nắm lấy cổ đứa bé con mình và cứ xiết chặt xiết chặt cho đến khi một viên đạn bắn xuyên qua lưng chàng, viên đạn của những người tỉnh không còn biết cách nào khác hơn một viên đạn.

Tôi thì nghĩ rằng cuốn phim ấy không thể có một kết thúc nào khác. Dù thế, tôi cũng quay hỏi chàng lúc chàng dắt tôi ra về.

“Lúc coi phim, anh có khóc không?”

“Anh mà khóc gì!” Chàng reo nhỏ, rồi kéo tôi lại gần khi hai đứa đi bộ với nhau một quãng đường dẫn về nhà tôi. Tôi thường thích bắt chàng đậu xe ở đầu khu phố, rồi đi bộ về nhà.

“Em khóc,” tôi nói.

“Sao anh không nghe gì cả?”

“Thì em chỉ chảy nước mắt thôi.”

“A, như vậy gọi là khóc thầm.”

“Em thấy cuốn phim nói lên một nỗi cô đơn. Nàng cô đơn, chàng cô đơn, xã hội của họ cô đơn…”

“Anh thấy tội cho nhân vật nữ. Em có thể hy sinh cho ai như vậy được không? Em có thể hy sinh cho anh như vậy được không?”

Tôi nhìn chàng, tự nhiên cảm thấy chàng không nên hỏi như vậy. Dù sao tôi cũng trả lời.

“Hy sinh cho tình yêu? Dĩ nhiên.” Tôi trả lời để bỗng cảm thấy tôi thật cô đơn, bỗng cảm thấy một sự sợ hãi rất nhẹ vừa thấm vào lòng. Tôi bỗng nghĩ đến một ngày khi ước mơ ruồng bỏ. Và, tôi nói để chàng biết điều tôi sợ.

“Em mơ mộng nhiều quá, em nhạy cảm quá anh theo không kịp.”

Chàng nói trong lúc vòng tay ôm trọn lấy tôi khi chúng tôi ngừng lại ở ngã tư đường. Tôi nghe hơi thở chàng thật gần.

“Anh đã chẳng yêu em vì những ước mơ của em sao?”

“Thôi, em.”

“Rồi, thôi anh về đi, em đi một mình ở quãng này cũng được.”

“Giận rồi? Ðể anh đi với em.”

“Tối nay em muốn đi một mình ở quãng này.”

Chàng còn ngần ngừ. Tôi nói bằng một giọng vui: “Mai em đi rồi, anh ở nhà nhớ ngoan kẻo em giận.”

“Yeah, đi nhớ viết thư về kẻo anh trông.”

Chàng quay ngược đường, tôi tiếp tục con đường về nhà. Cảm giác nhẹ tênh của một ràng buộc nào đó vừa mới đứt làm tôi muốn ngã quỵ. Nhưng, thế giới này chẳng phải là một cõi cô đơn sao. Mỗi con người thật ra là một phần tử rất lẻ loi cô đơn, thế giới có cả hằng tỷ con người cô đơn. Thời đại này là thời đại của những kẻ cô đơn. Những con người cô đơn ngày càng xuất đầu lộ diện, thật hợp thời như những con người mắc chứng AIDS, hợp thời như chứng ung thư, như phụ nữ bình quyền, ERA. Tôi chỉ là một phần tử rất nhỏ nhoi, lạc lõng trong khối cô đơn vĩ đại đó. Tôi sẽ không khóc trong chính cuộn phim cô đơn này của riêng tôi.

*

Trong một lần nói chuyện với tôi qua điện thoại, mẹ tôi kể rằng bà Florence mới bị tai nạn xe. Lúc đó, chúng tôi không còn được là hàng xóm của Florence nữa. Mẹ tôi kể Florence lái xe vào một buổi sáng đi lễ về như mọi sáng, nhưng sáng ấy bà bị đụng bởi một chiếc xe truck chạy vượt đèn đỏ. Bà không bị thương tích, nhưng chiếc xe của bà kể như bỏ. Chiếc xe của bà, truyền xuống từ đời mẹ đời cha, được gìn giữ nâng niu như đứa con yêu, sau khi bị đụng chỉ còn giá trị vài trăm bạc. Tôi nói với mẹ, bà Florence có thể mua được một chiếc xe khác. Nhưng mẹ tôi chậc lưỡi, bảo Florene đâu có giàu như Laurie, mà Florence cũng không muốn một chiếc xe nào khác. Vậy bà Florence di chuyển đi lại như thế nào, tôi hỏi. Mẹ tôi nói có Laurie đến nhà đưa đón mỗi ngày. Năm ấy, người em trai của cả hai bà cũng vừa mất, để hai chị em Florence là hai người niên trưởng sau cùng của giòng họ Baudoin.

Khi tôi về nhà mùa đông đó, hai chị em Florence đến thăm nhà tôi vào ngày trước Giáng Sinh. Tôi chợt nhớ tới đôi găng đỏ Florence cho tôi năm nào tôi còn giữ kỹ. Laurie không thay đổi, nhưng Florence thì đã chịu thua tuổi già. Bà ngồi ở cái ghế Laurie dắt bà đến ngồi, và chỉ nói khi Laurie gợi chuỵện cho bà nói.

“Ðây là con Ngọc, chị nhớ nó không, Florence?” Laurie hỏi khi tôi đến bên cạnh hai người.

Chị nhớ nó không? Câu hỏi gì lạ vậy? Chẳng lẽ Florence không nhớ tôi? Chỉ mới có hơn một năm thôi khi tôi đến chào bà ở nhà cũ, chẳng lẽ bà không nhớ tôi.

“Yes,” Florence trả lời, nhìn tôi ngờ ngợ tôi đọc được trong ánh mắt bà một sự cố gắng lôi ra trong trí nhớ một vài hình ảnh quen thuộc.

“Oh, yes, Ngọc. Mày có đủ tiền tiêu dùng không?”

“Oh, Florence!” Laurie càu nhàu khiến ánh mắt Florence đang mới linh động lại tắt ngúm. Florence im lặng trở lại.

“Chị lại giận nữa rồi phải không,” Laurie nói rồi quay qua tôi, “hồi này bả hay giận lắm. Tôi lỡ miệng một tí là bả giận ngay.”

“Bây giờ Florence chịu ở với bà rồi?” Tôi hỏi.

“Bả phải ở với tôi chứ ở hai nơi làm sao tôi trông bả nổi.

Nhưng ngày nào hai chị em cũng về nhà cũ và ở lại từ sáng đến chiều, vì đó là điều Florence thích. Mỗi lần như vậy, tôi thu dọn dần dần đồ đạc của bả qua nhà tôi. Florence không thể sống một mình được nữa.”

Mùa đông đó là lần cuối cùng Florence đến thăm chúng tôi.

Bây giờ, cũng đã hơn một năm kể từ ngày đó, tôi nghe tin rằng Florence đã chính thức bước chân vào cơn mê của căn bệnh Alzheimer.

Tôi đến thăm Florence với mẹ, cũng để chiều mẹ. Bao nhiêu năm trời, tôi chạy theo những thay đổi của thời gian, những đòi hỏi của cuộc sống, chẳng hề nghĩ lại về một người hàng xóm tốt, lúc xưa hằng ân cần thăm hỏi, chẳng hề nhớ đến một người bạn gia-đình đứng bên ngoài những xô đẩy của cuộc đời. Bây giờ đến thăm?

Căn nhà màu xám của Laurie nằm tại một khu vực sang trọng của những người về hưu có tiền. Nhà rộng, sân rộng, nhưng bước vào bên trong thì lại thiếu chỗ ngồi. Florence đã có lần bảo rằng Laurie rất bừa bãi. Chúng tôi đến, không thấy Florence mà chỉ thấy Laurie. Bà thu dọn vội vàng đống sách vở báo chí ngổn ngang trên mặt bàn mặt ghế, cho chúng tôi được chỗ ngồi.

Laurie vừa thu dọn vừa than phiền bao nhiêu năm nay rồi mà cái nhà của bà vẫn như một cái nhà kho. Ðồ đạc vẫn còn ở trong thùng, và từ hồi nào tới giờ bà mới chỉ tạm ổn định được cái buồng ngủ cho Florence. Bao nhiêu năm nay, bà chỉ lo nổi cho Florence là hết sức.

Laurie nhắc về Florence, để tôi thấy yên tâm cho một nỗi lo âu thắc mắc vô cớ Florence còn sống hay đã mất. Laurie cũng đã quá sáu mươi. Bà sẽ cố thêm được bao nhiêu năm nữa? Người Mỹ ngày càng sống lâu, nhưng y học thì chưa trang bị đầy đủ để đương đầu với những căn bệnh đi đôi với tuổi già. Laurie bước tới, hôn tôi bên má, nói bà đang nấu xúp. Và trước khi mọi người ngồi xuống ở phòng ngoài, Laurie kéo mẹ tôi xuống ngay gian bếp và bắt nếm thìa xúp beef stew còn đang sôi. Công thức mới, bà nói. Florence rất thích beef stew, và cái gì Florence thích là bà nấu. Tôi đứng lại một mình nhìn quanh gian phòng.

Lại cái tivi để mở. Lại dĩa chuối xanh trên mặt bàn ăn. Bên trong hành lang tối mờ, có một ánh đèn đổ ra từ một căn phòng.

Tôi bỗng thấy ớn lạnh. Kinh nghiệm khiến cho tôi không sợ gì bằng sợ nhà quàn và bệnh viện. Tôi đang ở nhà Laurie, nhưng tôi đi thăm một người bệnh. Khi từ dưới bếp trở ra nhà ngoài, Laurie hỏi sao tôi không ngồi xuống.

“Florence đâu?” Tôi hỏi, và ngồi xuống.

“Chị Florence đang nghỉ trong nhà,” Laurie trả lời, nhìn tôi như tuyệt vọng. “Bả bị Alzheimer, cô biết chứ?”

Tôi gật đầu nhưng Laurie đã quay sang mẹ tôi, hỏi cùng một câu hỏi, rồi trả lời luôn câu hỏi của bà. Alzheimer, chứng bệnh di truyền bộc phát lúc về già, tế bào óc não chết dần chết dần để người bệnh mất dần trí nhớ và các khả năng căn bản. Người Á-đông không thấy ai bị, nhưng có thể là người Á-đông chưa thọ lâu đủ. Tôi định nói cho Laurie nghe về khám phá mới nhất của y học nhưng tôi thấy bực với ý nghĩ của tôi, để tôi trở về câu chuyện của Laurie lúc bà nói đến chỗ đời trước mẹ của bà cũng bị Alzheimer nhưng trong các anh em Baudoin đời bà thì chỉ có Florence mới bị. Làm sao Laurie biết trước được bà sẽ không mắc bệnh?

Nhật báo mấy ngày qua có loan tin một người đàn bà cao niên đã tự sát bằng một liều thuốc độc chích vào gân, tự sát khi mới biết mình có giống Alzheimer, chết trước khi căn bệnh có cơ hội tàn phá. Die in dignity. Chết sớm để còn giữ phẩm cách. Florence có nghĩ đến điều này chăng.

Laurie quay qua hỏi tôi về chuyện học hành. “Florence ngày trước hay nói về tương lai của cô.”

“Florence bị bịnh không đúng lúc. Bà về đây để hưởng tuổi già mà, Laurie?”

“Chị Florence yếu đi từ ngày mất cái xe. Nhưng chị Florence chỉ bắt đầu nhắc về cái chết ngày người em trai tôi chết. Florence bắt đầu sợ chết từ đó, lúc nào cũng sợ mình sắp sửa chết. Nhưng thôi, cô đến đây không phải để thăm một người bệnh.”

Laurie kéo một chiếc ghế từ bộ bàn ăn, rồi kê sát ghế vào tường, để lưng ghế làm thành góc với vách. Chúng tôi hiểu bà sắp làm gì. Mẹ tôi lên tiếng ngăn trước.

“Laurie, bà không phải đem Florence ra đây.”

“Không, bà Phạm, khách đến thăm Florence phải gặp. Tôi cũng muốn Florence ra khỏi giường. Ôi bà Phạm, bà không biết tôi cực đến mức nào, mẹ tôi nuôi Florence không biết có cực bằng tôi chăng. Ngày ngày tôi lo từng mảnh tã đến muỗng ăn cho Florence.”

Rồi không nghe ai nói thêm, Laurie đi vào hành lang tối mờ. Từ căn phòng có ánh đèn đổ ra, tôi nghe có tiếng ú ớ không ra lời của Florence khi Laurie bước vào. Tiếng ú ớ gắt gỏng phản đối, rồi tiếng dằng co của tay chân chạm vào nhau, rồi tiếng những bàn chân dặm lết trên sàn nhà. Laurie từ trong nhà trở ra, vòng tay ôm ngang người Florence cao lớn hơn, bế xốc từng bước từ trong nhà bước ra rồi đặt ngồi vào cái ghế đã kê sẵn. Laurie đặt Florence vào ghế, cho lưng tựa hẳn ra ghế, cho đầu tựa vào vách tường. Rồi Laurie đứng thở dốc.

Florence mặc áo chùng màu đỏ. Tôi cố tìm ra bà tiên năm nào trong con người ngồi kia. Mẹ tôi đến bên cạnh Florence, bàn tay run run vuốt mái tóc bạc Florence để xõa dài, bù rối.

“Florence, Florence,” mẹ tôi thầm gọi theo mỗi bàn tay vuốt nhẹ lên mái tóc người ngồi đó. Tôi nghe như có sự xót thương, tiếc nuối trong giọng nói của mẹ tôi.

Florence không phản ứng. Tôi nhìn Florence trong áo chùng màu đỏ, cố hình dung ra một Florence ngày xưa. Con người đó, Florence, ngồi dạng háng để hở phần kín thân thể mà không biết, nhưng đã có Laurie che lại cho. Mái tóc bạc phơ chải ngược, xõa xuống lưng chỉ còn là một mái tóc khô. Miệng không đeo răng giả, móm mém. Miệng há hốc như đang cười, chiếc miệng ấy ngày xưa có nụ cười chúm chím. Ðôi mắt xanh đã đục mờ, đôi cửa sổ hoang vắng của linh hồn không còn ở đó nữa. Florence ngồi tựa đầu vào tường, ai muốn làm gì thì làm, ai muốn ngắm sao thì ngắm.

Tôi ngắm Florence, chợt thấy bà như to lớn nặng nề hơn trước, giống như khi người ta chết thì thân thể bỗng trở nên nặng nề hơn lúc sống. Florence còn thở, nhưng bà không còn ở đây nữa. To die in dignity. Chẳng biết Florence có nghĩ đến điều đó không.

Mẹ tôi vẫn đứng bên cạnh Florence. Cuộc đời bà, chồng con đầy đủ, nhưng có chắc bà yên ổn hơn, đầy đủ hơn những người đàn bà không chồng con này chăng.

To die in dignity. Tôi nhìn Florence ngồi ngả đầu qua một bên, há hốc mồm. Florence ngồi dạng háng nhưng Florence còn phẩm cách. Florence ngồi dạng háng với đầy đủ phẩm cách của bà, vì dignity (danh dự? phẩm cách?) còn nằm trong sự can đảm. Sống cho trọn những gì đã được an bài, nếu đã tin vào sự an bài.

Tôi đứng lên và tiến đến hôn lên má Florence. Da thịt bà chằng chịt những vết tích dọc ngang của thời gian, da thịt bà lành lạnh ở môi tôi. Trước khi bước ra về, ở ngưỡng cửa, tôi quay lại nhìn Florence một lần nữa.

“Good bye, Florence,” tôi nói thật lớn, tay tôi vẫy cao.

Trong một thoáng ngắn ngủi, tôi đã gọi được Florence trở về. Bà đảo đôi mắt, tìm tôi bên ngưỡng cửa, rồi giơ tay vẫy trả.

“Bye!”

Một tiếng ngắn ngủi thôi. Một tiếng ngắn ngủi the thé. Nhưng tôi thấy như có nụ cười vụt sáng trong ánh mắt ấy. Tôi ôm nụ cười ấy, ra về. Chắc tôi không gặp bà lần nào nữa. 

Nguồn: https://amvc.fr/Damvc/GioiThieu/PhamThiNgoc/Florence.htm

Comments are closed.