Hướng nào Hà Nội cũng sông

Hồ Anh Thái

Bài tiểu luận xuất bản lần đầu năm 2009, nhưng nhiều vấn đề và thách thức nêu trong đó vẫn như đang của ngày hôm nay. Một Hà Nội của hiện tại vẫn còn nguyên những tính chất làng xã, còn thiếu những nhận thức và nỗ lực để xứng tầm thủ đô.

 Nhà văn Hồ Anh Thái. Ký họa của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Nhiều năm gần đây, người Hà Nội có phong trào đi tìm vùng đất mới. Nghe như chuyện thám hiểm tìm tân lục địa. Gọi khác đi là phong trào làm trang trại. Nghe như thực hiện chủ trương đi xây dựng vùng kinh tế mới. Gọi khác nữa là đi trồng rừng. Nghe như công tác môi trường hoặc lâm nghiệp.

Thực ra là tư nhân đi mua đất làm trang trại, biến nó thành nơi nghỉ thư giãn cuối tuần, hoặc nghỉ dài triền miên sau khi đã hạ cánh an toàn ở công sở. Một cuộc sục sạo săn lùng thật sự. Ở đâu đất ngon đất rẻ thì lượn vè vè đến. Bán kính trên dưới năm mươi cây số là lý tưởng. Có người đi xa hơn, đến vài ba trăm cây số. Tầm nhìn cũng xa hơn: mai đây sẽ có tàu cao tốc, ba trăm cây số một giờ, Hà Nội vào đến Vinh hay lên Lào Cai, Móng Cái chỉ một tiếng đồng hồ. Nhân nói chuyện tàu cao tốc, ở cái xứ ra đường tàu vặn chơi vài con ốc giật vài thanh tà vẹt trên đường ray bán sắt vụn thì hàng rào bảo vệ cao ba mét xung quanh đường tàu cũng chỉ là cái đinh gỉ. Rồi lại đổ tàu. Không thì người ăn cắp chạy chẳng kịp với tàu cao tốc, bét xác.

Công cuộc đi tìm đất len lỏi đến tận những vùng sâu vùng xa, miền núi hải đảo. Những bãi biển và khu du lịch trên núi cao, khách sạn hiệu ăn đều của người Hà Nội. Miếng đất nào ngon ngon, hỏi, cũng là của người Hà Nội đã xí phần. Ra đảo Quan Lạn ở vùng Đông Bắc, đi tàu thủy mất mấy tiếng đồng hồ, tiềm năng du lịch nhưng còn khá vắng vẻ, hỏi, thì miếng này của người Hà Nội, miếng kia Sài Gòn. Không đất nào còn là đất hoang. Đất nào cũng đã có chủ, đã phân chia ranh giới. Miếng bánh đã cắt, để đấy chưa vội ăn làm gì.

Trang trại ở những vùng đồi vùng núi xung quanh Hà Nội giờ đã xanh tươi. Có người mua lấy một vài quả đồi, diện tích đến cả chục héc ta. Xây lên những biệt thự. Xây lầu xây phủ. Dựng nhà sàn mua tận miền núi về lắp ráp lại. Bấy lâu bị giam trong cái lồng bê tông, trong cái thành phố ngột ngạt hơi người hơi xăng khói bụi, trong cái ô nhiễm không khí nguồn nước và cả ô nhiễm âm thanh. Ai mà chẳng có nhu cầu vượt thoát về nơi thoáng rộng, trong lành. Thuê người trồng cả đồi chè, trồng cây ăn quả. Thuê trồng cả đồi thông. Có người dọa trộm cắp bằng cách đắp lên trong rừng thông của mình hai nấm mộ, đồi thông hai mộ, phao ra là có mộ cổ, thiêng, độc, kẻ trộm cũng ngại lẻn vào. Trồng rừng là cũng có lý do. Xây dựng trang trại trên đồi rừng là vi phạm. Có dạo đã bắt xử cả một đội ngũ cán bộ xã huyện vì cấp đất sai luật. Vậy người mua quả đồi phải thực hiện việc trồng rừng để khôn khéo lạng lách.

Sau từng ấy năm, giờ thì rừng cây đã lên xanh tốt. Lên thăm nhau, được mời ra đồi hái chè, ra vườn hái cam, bưởi, mít, xoài. Mang được bao nhiêu cứ việc hái. Hiếu khách. Gà đồi thả tung tán khắp vùng có hàng rào chắn, muốn ăn con nào mang cung tên lên đồi bắn như bắn chim. Quý người. Trang trại tiếp nối trang trại. Cả một vùng đồi núi mênh mông hiếm khách lên thăm. Lâu lâu bắt được một khách. Định đến thăm trang trại của một họa sĩ, nhưng đi qua trang trại của một chính khách quen, bị bắt vào luôn. Dùng dằng nửa ngày uống rượu, ra đi mang theo một đống sản phẩm cây nhà lá vườn, thì ngang qua trang trại một cô ca sĩ, lại bị bắt vào. Một ông tổng biên tập báo có vườn bưởi bên cạnh nghe tin cũng phóng sang chơi, rồi dẫn độ khách về trang trại của mình. Khách hiếm. Cung ít hơn cầu. Muốn được vỗ béo thì cứ lấy đủ can đảm lên thăm những khu trang trại kiểu này. Cuối tuần.

Nhưng rồi thưa vắng. Cái hào hứng thời gian đầu dần dần nhường chỗ cho sự nhàm chán. Tuần nào cũng quay lại một chỗ là nhàm chán. Thời gian cuối tuần, lẽ ra dành để đi du lịch đi picnic một nơi mới mẻ. Công việc ở thành phố đã ngổn ngang, giờ lại vướng thêm cái trang trại phải lo. Lâu lâu không lên thì nhà cửa ẩm mốc, vườn cây ăn quả trở thành cây tiêu cây điều, gọi tắt là tiêu điều. Phải thuê người trông coi, thuê người trồng rừng. Có người còn thuê được cả cán bộ xã trông nhà cho mình.

Đã có tiếng kêu: người Hà Nội đổ quân đi đánh chiếm các tỉnh. Thành thị tấn công nông thôn.

***

Nhưng cùng lúc đã diễn ra một cuộc tổng phản công: người các tỉnh về đánh chiếm Hà Nội. Nông thôn tấn công thành thị. Thời chiến tranh, đối với các thành phố bị giặc chiếm đóng, ta có một chiến lược: lấy nông thôn bao vây thành thị.

Người Hà Nội đi các tỉnh mua đất làm trang trại, sùng sục cả lên, thì người các tỉnh về Hà Nội mua nhà mua biệt thự ngay giữa lòng Hà Nội, rất lặng lẽ êm thấm. Một sáng thức dậy, thấy biệt thự mới xây bên hàng xóm đã có một gia đình từ miền núi Tây Bắc về ở. Một năm sau thì cả một đường phố mọc lên quanh hồ. Bắt đầu một bản xô nát bên hồ của những cư dân vùng sâu vùng xa. Đường phố phía bên này hồ có tên danh nhân hẳn hoi, nhưng dân chúng gọi là phố Quan. Đường phố phía bên kia gọi là phố Hàng Trắng.

Quan các tỉnh lương bao nhiêu mà xây nhà mua nhà bạc tỉ ở Hà Nội? Ông quan không sống bằng lương mà bằng lậu, không bằng lương mà bằng bổng. Mấy cái dự án về các tỉnh, nhất là dự án xóa đói giảm nghèo của quốc tế cho vùng sâu vùng xa, chỉ cần nhặt hạt mảy hạt tấm của dự án là mua được nhà Hà Nội, cho con về Hà Nội ăn học, rồi cho vợ về Hà Nội trông con, ít năm sau ông hạ cánh an toàn ông về nốt. Úm ba la, ba ta đều thành người Hà Nội.

Hướng nào Hà Nội cũng sông – Tập tiểu luận của Hồ Anh Thái

Oái oăm, phố Quan ở cạnh phố Hàng Trắng. Biết đâu ngày trước ở tỉnh, họ cũng đã là láng giềng. Bên ấy làm quan thì bên đây đi buôn. Hàng trắng. Có khi đây chỉ danh nghĩa đấu thầu được một đoạn đường nâng cấp, một công trình xây dựng cho tỉnh, thực chất là đây làm hàng trắng. Có tiền, đây xây khách sạn nhà hàng chung cư, lôi hết vợ con cô dì chú bác từ quê ra, tạo công ăn việc làm cho hàng trăm người. Rồi đây về Hà Nội mua đất xây nhà, thậm chí xây chung cư để bán. Đây lại làm bạn láng giềng với ông quan cũ ở tỉnh.

Có ai không quan không ma túy mà về sở hữu được đất Hà Nội không? Chắc là có, những người phải bán đất bán nhà ở tỉnh nhỏ, đánh đổi lấy cái nhà nhỏ hơn ở Hà Nội, mơ về một nơi đô hội, nơi thu nhận thông tin từ khắp thế giới nhanh hơn, con cái học hành triển vọng hơn, làm ăn có lẽ cũng dễ dàng hơn chốn ao tù nước đọng. Đời sống toàn cầu hóa, đô thị hóa, dòng người đổ vào đô thị là dòng thuận. Không học hành, đi bán sức lao động ở chợ người cũng có đồng tiền hàng ngày, mua đầu chợ bán cuối chợ hoặc làm xe ôm cũng có đồng tiền hàng ngày. Sự phát triển ở các tỉnh chưa đến mức hấp dẫn có thể giữ được chân người ta ở lại quê hương. Huyền thoại kiếm ăn dễ dàng ở đô thị lôi kéo người ta đi. Nói đến đây, nhớ một bài hát của Trần Tiến, nhạc sĩ ra đi từ Hà Nội. Ông nhắn nhủ cô gái ra phố làm thuê: về đi em, về đi em cô gái xinh tươi của làng ta. Đồng tiền kiếm được ở đô thị nhiều mồ hôi nhiều nước mắt, em hãy về đi, về với đồng quê. Xót xa, thương cảm, sẻ chia. Nhưng em quay về thì em đói, ai cho em công ăn việc làm ở đồng quê tươi đẹp kia? Chất trữ tình của bài ca có lẽ là đi ngược với quy luật phát triển và mang tính không tưởng.

Thế là đô thị như cái chỗ trũng, dòng nước lũ nhập cư ào ào đổ vào, cuốn phăng mọi sự chuẩn bị, ước lượng, đo tính, thậm chí là cuốn phăng cả những ổ đề kháng, nếu có.

***

Sự chuẩn bị nào, sự ước lượng nào, ổ đề kháng nào? Nếu có, thì đó là thuộc về người quản lý đô thị. Đô thị, mà lại là thủ đô. Địa phương, mà lại là trái tim của đất nước. Vậy thì trong hàng ngũ quản lý các địa phương, ông thị trưởng Hà Nội cũng phải nổi bật lên, phải là một danh nhân. Gương mặt của thủ đô. Trước khi là thị trưởng, ông phải là một danh nhân đúng nghĩa, trong lĩnh vực bất kỳ, văn hóa, khoa học kỹ thuật, kinh tế… Nên được lựa chọn trong hàng ngũ danh nhân cả nước. Danh nhân, cộng thêm khả năng quản lý. Nhưng lâu nay người ta mới chỉ dừng ở tiêu chuẩn nhà quản lý trung bình yếu. Nói như ngôn ngữ tuyên truyền thời thượng, chưa ngang tầm thời đại.

Có tin được hay không, đội ngũ quản lý các sở ban ngành ở thủ đô vẫn nhiều người nói ngọng, đúng hơn là loạn ngược chữ e lờ và en nờ? Thổ âm thì đặc biệt nặng, không phải là giọng miền Trung lãnh tụ, mà giọng chiêm mùa đồng bằng hoặc bán sơn địa trung du. Không nên phân biệt, đúng thế, nhưng chính khách phải là người giỏi điều chỉnh, một cái giọng cho dễ nghe cũng là cách chứng tỏ khả năng điều chỉnh, chứng tỏ không bảo thủ. Không phân biệt, đúng thế, nhưng cũng cần thấy rõ cả nước chỉ có một thủ đô, cả nước chỉ có một ông thị trưởng thủ đô. Và cả nước cũng chỉ có một đội ngũ quản lý thủ đô.

Cái được có lẽ nhiều, nhưng cái được là chuyện tất nhiên ở thủ đô. Cái chưa được thì hàng ngày hàng giờ bày ra đấy. Một bài hát, em ở tận miền non cao nơi đây có hoa ban trắng. Em về thành công dân thủ đô, em học lái xe hơi, em trèo lên xe, cái xe bình thường trở thành xe điên, xe điên lao vùn vụt đâm hết cả người lẫn xe máy lẫn ô tô mới dừng lại. Một bài hát khác, em mang theo về tình yêu và nỗi nhớ. Chàng và nàng đã dan díu ở vùng quê xa, bây giờ em về Hà Nội. Tình cũ không rủ cũng về. Hóa ra chàng cũng đã chuyển về Hà Nội. Em muốn cắt đứt nhưng chàng không chịu, chàng dọa sẽ tung tin lên mạng. Em cự tuyệt nhưng chàng sấn sổ cưỡng ép. Kết cục, em có con dao gọt hoa quả trong tay.

Em mang theo về. Rất nhiều cái hay sao em không mang theo về? Lại chỉ là những cái chưa được, cái dở dang ngổn ngang, cái trì đọng xét nét tỉnh lẻ. Lĩnh vực nào cũng có thể nhìn thấy dấu ấn địa phương. Cách tổ chức các sự kiện, các hoạt động xã hội. Các kế hoạch kinh tế thương mại dịch vụ. Văn chương nghệ thuật truyền hình. Ồn ào chói chang lòe loẹt phô lộ. Trống dong cờ mở loa đài che đỡ thực chất. Thiếu tính chuyên nghiệp và thiếu bài bản căn cốt. Thèm quá một phong cách vừa trầm tĩnh vừa thanh lịch vừa điềm đạm vừa thiết thực. Cần quá một tác phong vừa dứt khoát vừa tự tin vừa rõ ràng vừa mềm dẻo. Như vậy là Hà Nội. Như vậy là không quê.

Đã có một bài luận về sự quê mùa và chủ nghĩa nông dân. Nhưng ở đây cũng cần rẽ ngang làm rõ một tí. Chữ quê ở đây để chỉ sự vụng về, kém chất lượng, thiếu chuyên nghiệp. Không phải là nói về đồng quê.

Như thế này là quê: lễ hội hoa anh đào người Nhật đem cống hiến cho dân chúng Hà Nội đã trong nháy mắt biến thành cuộc cướp phá. Vặt sạch bẻ sạch đập phá sạch. Nhân viên Nhật đứng ứa nước mắt giữa khu triển lãm tan hoang, mãi sau vẫn chưa hết bàng hoàng.

Như thế này là quê: chỉ ngay một năm sau đó, lễ hội phố hoa Hà Nội bên bờ Hồ Gươm, lặp lại. Lại bẻ lại vặt lại cướp lại phá. Có ông một tay dắt con nhỏ, một tay ôm cái chậu hoa cướp được. Đứa bé ấy ai dám bảo sau này lớn lên không noi gương cha, coi chuyện cướp phá là bình thường, như vậy tức là phải bỏ thêm một thế hệ nữa? Có nam thanh nữ tú tay cầm cành lau cướp được, tay cầm vài bông hoa địa lan đỏ, vặt từ cái vẩy rồng trưng bày. Để yên thì nó là con rồng vài chục mét hoành tráng. Vặt đi thì mỗi người một bông hoa tơi tả, chẳng ra thể thống gì. Nhưng vặt được là được. Sở hữu chung đã chuyển thành riêng. Thỏa mãn ý thích, thấy cái gì đẹp đẽ nguyên lành là phải phá, phải cấu chí, phải bày bừa lem nhem ra.

Từ cướp hoa sang cướp gà vịt bị dịch bệnh là sự chuyển đổi tất nhiên. Xe người ta chở gà bị dịch đi tiêu hủy, vừa mới đổ xuống một cái hố sâu thì cả làng đổ xô ra cướp. Hân hoan. Tươi mưởi. Không cần biết thảm họa dịch bệnh cho mình. Không cần biết mình có thể gieo rắc dịch bệnh cho cả làng cả huyện cả thủ đô. Chẳng phải là vấn đề nghèo đói. Nhận thức. Lối sống. Giáo dục. Số liệu năm 2008 cho thấy Hà Nội đứng đầu cả nước về số người mù chữ. Hà Nội bây giờ có vùng lần đầu tiên mới có điện. Cách Bờ Hồ trung tâm mười cây số, có vợ chồng nọ chưa đến ba mươi tuổi, năm con, không muốn đẻ nữa nhưng không biết làm cách nào.

Không phải cái quê của Hà Nội là tất tật tại người nhà quê. Rất nhiều người làm ra cái quê ấy là người đã sống ở Hà Nội vài ba chục năm, thậm chí là ba đời. Tiện thì nói luôn, người ba đời ở Hà Nội không phải là ít, gốc Hà Nội, nhưng phần nhiều nền nếp, nhún nhường, thành ra lại bị coi là quê. Quê, khi đặt bên cạnh sự bạo tợn, sự miệng nhà quan có gang có thép, sự giàu xổi mạnh vì gạo bạo vì tiền, sự ồn ào láo nháo của người mới nhập cư. Mới, lại càng phải tỏ vẻ. Nhưng không mới cũng chẳng vô can trong cái chất quê mùa làng xã mà Hà Nội đang mang khoác trên mình. Bộ cánh này bao giờ mới thay được? Người Hà Nội có lẽ đến lúc phải hỏi nhau, hỏi đi hỏi lại, nhiều lần.

***

Từ mười lăm hai mươi năm trước, khi xe máy chưa chen cứng đường phố, đã có ý kiến phải chủ trương hạn chế xe máy. Hạn chế đăng ký xe, thu phí lưu thông xe máy xe hơi. Hoặc là học tập kinh nghiệm của một số nước láng giềng để bảo đảm lượng xe ra vào trung tâm không bị quá tải: ô tô biển số chẵn được vào trung tâm ngày chẵn, xe biển số lẻ được vào ngày lẻ. Hoặc là áp dụng quy định 3 trong 1 để tránh lãng phí diện tích đường sá chật hẹp: mỗi chiếc ô tô phải có ít nhất ba người ngồi thì mới được vào trung tâm… Các kiến bị bỏ ngoài tai. Bây giờ một số đô thị mới đề nghị thực hiện, nhưng chưa được chấp thuận. Bên cạnh một số lý do về kỹ thuật, thì còn phản biện: vi phạm quyền con người. Vậy còn chờ đến khi phải ra lời hiệu triệu nhân dân toàn thành phố không được ra đường hay sao? Ai ở đâu ngồi yên đấy. Sử dụng máy vi tính, văn phòng ảo, dịch vụ ảo. Nội bất xuất ngoại bất nhập. Ngồi yên là yêu nước!

Cũng có một đề xuất khác từng được nêu ra trong chương trình nghị sự: hạn chế người lưu thông vào Hà Nội. Người ta bảo dân số thực tế của nội thành Hà Nội phải đến chục triệu người. Cô giúp việc nhà ta không được tính, những người bán hàng rong trên đường không được tính, những người thợ ở công trường, ở chợ người không được tính. Sài Gòn cũng vậy, dân số thực tế có lẽ phải nhiều hơn chục triệu. Quá tải. Kinh nghiệm của một số thành phố quá tải trên thế giới: người bên ngoài ra vào đô thị phải có giấy phép có thời hạn. Sáng mang hàng vào, chiều tối hoặc ngày hôm sau trở ra, đi qua cửa ô, có quẹt thẻ. Nghe ra thì phạm vào quyền con người. Thủ đô không phải của riêng ai. Anh là người Hà Nội thì không có nghĩa là Hà Nội của riêng anh. Chiếc bánh ga tô chung, dù là miếng nhỏ tí xíu thì ai cũng phải có phần.

Đúng quá đi rồi. Nhưng ông quản lý đô thị nếu không nhìn xa trông rộng (vừa muốn giữ đẹp giữ yên thủ đô cho cả nước cùng hưởng, lại vừa không hạn chế quyền con người của bất cứ ai) thì ông cũng sẽ làm be bét chiếc bánh ấy. Rốt cuộc nó lem nhem, nó tan hoang, nó ôi thiu, chẳng ai dùng được nữa. Phải là vừa mềm dẻo dân chủ vừa dứt khoát quyết đoán. Thực tế là người quản lý rất thiếu năng lực xử lý khủng hoảng, nhiều khi sự biến xảy ra mà những người có trách nhiệm hầu như vắng mặt. Dám chịu trách nhiệm ngay bây giờ chứ đừng đùn đẩy lại cho nhiệm kỳ sau. Hội chứng nhiệm kỳ an toàn đã làm cho bao nhiêu việc dở dang hàng chục năm rồi. Tất nhiên quyết đoán cũng phải là sự quyết đoán có ích cho dân, không thiên lệch cho riêng tập đoàn phe cánh.

Sáng mùng một tết tôi thường phóng xe máy một vòng quanh Hà Nội. Ra đường vào buổi sáng, hưởng cái vắng vẻ của đường phố không người. Phải đổi lấy cái rét như cắt da cắt thịt. Đường phố như của những năm bảy mươi tám mươi thế kỷ trước. Một vòng quanh Hồ Tây sương trắng, có đoạn sóng to gió cả, người quay phim có thể dí máy quay cận cảnh giả vờ làm sóng biển cũng được. Phải đi sớm, muộn một tí, đến trưa thì đông người trở lại. Mỗi năm chỉ có sáng mùng một cho người Hà Nội cũ hoài niệm. Người Hà Nội mới thì đã về quê, năm hết tết đến ai cũng về ăn tết ở quê. Có người đã viết một cái tản văn về sự hoài niệm này, bị phê phán ngay lập tức. Như vậy là chia rẽ nông thôn thành thị. Như vậy là biết một mà không biết hai, như vậy là không biết hàm ơn những gì mà người quê đem lại cho đời sống thành thị. Và trong những cư dân thủ đô kia, ai biết bao nhiêu phần trăm cũng còn gốc gác quê mùa?

Sau tết khoảng mười ngày, khi những cô ôsin về quê ăn tết trở lại làm việc, khi những người bán hàng rong quang gánh và xe đạp cồng kềnh trở lại trên đường, khi người ở phố Quan phố Hàng Trắng trở lại biệt thự của mình, cũng là lúc một dòng người đổ xô đi, theo chiều ngược. Người Hà Nội lúc ấy mới kéo nhau về quê cha đất tổ. Về xem hội làng mở giữa ngày xuân. Về thăm họ hàng làng nước. Về thăm mộ ông bà cha mẹ. Về đóng góp quỹ khuyến học quỹ xây dựng quê hương. Có ông thoát ly hơn nửa thế kỷ về quê rưng rưng. Có ông không sinh ra ở quê, cả đời mải tiến thân làm ăn phấn đấu, cả đời chẳng cần biết quê ở đâu, tuổi về hưu bỗng nhiên lại gạo. Về đến làng quê bùi ngùi sụp lạy trong nhà thờ họ, mở túi mở ví mừng tuổi trẻ con người già trong làng. Ra đi thì xuýt xoa quê mình thương thế mà bao nhiêu năm không về. Rồi đi vận động xin cho làng cái danh hiệu làng văn hóa, di tích lịch sử được xếp hạng, lễ đón lễ rước cứ tưng bừng cả lên.

Mấy người dân làng chỉ muốn yên thân phải kêu lên: Thôi thôi, quê hương không phải là cái nghĩa địa. Khi các ông bà đang khỏe mạnh, thế lực danh tiếng thì chẳng thấy đâu. Chỉ đến khi về hưu không làm được gì nữa các ông bà mới tìm về. Tìm sự cứu rỗi, tìm sự bình an khuây khỏa ở quê. Xí cả miếng đất tốt làm mộ phần ở quê. Thêm mấy ông bà định cư ở nước ngoài nữa, trẻ không thấy mặt, già mới lá rụng về cội.

Tìm về quê là nhu cầu tự thân hợp quy luật của tuổi tác. Cũng chẳng nên hẹp hòi khó chịu làm gì. Cũng như làn sóng nhập cư vào đô thị đã nói ở trên, không hẹp hòi làm gì. Hà Nội là thành phố đi về phía nào cũng gặp những dòng sông. Sông Hồng ôm gọn Hà Nội từ mấy phía. Cái tên Hà Nội có nghĩa là thành phố được sông bao bọc trong lòng (ngoại trừ việc chỉ cần có mưa là sông lênh láng ngay cả trên phố phường). Hà Nội có chất mềm mại uốn lượn của sông. Có cái dịu dàng trầm tĩnh của nước. Cả sự bao dung của nước. Bao nhiêu dòng trong dòng đục đổ vào sông đều hòa nhập thành một. Bao nhiêu thứ chưa sạch được nước rửa trôi khỏa lấp và làm cho trong sạch trở lại. Nước tiếp nhận, dung chứa và thanh lọc tất cả. Nhẹ nhàng thôi mà nước chảy đá mòn.

Hà Nội, 8.10.2009

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.