Nguyễn Hoàng Văn
Không với tới tầm vóc sử thi đã đành, Mưa Đỏ, cuốn phim về 81 ngày đêm cố thủ tại Thành Cổ Quảng Trị mùa hè năm 1972, còn tầm thường một cách lạc hậu khi không qua được cái tâm thức phi nhân hóa kẻ thù với cảnh đốt tù binh gây tranh cãi.
Nếu “tổn thất đầu tiên của chiến tranh là sự thật” thì bây giờ, cả nửa thế kỷ sau khi chiến tranh kết thúc, tổn thất đó vẫn lặp lại với chút mơi mới qua cây cột thiêu người na ná hình tượng cây thập ác ngun ngút lửa hận thù của bọn phân chủng KKK thời nào, trên đất Mỹ. [1] Mà đâu phải đợi đến thái bình thì mới bình tâm, chứng ngộ? Tận 60 năm trước, năm 1965, giữa cảnh khói lửa và thù hận mịt mù, vẫn nghe được lời ray rứt:
Kẻ thù ta đâu có phải là người
Giết người đi thì ta ở với ai ?
Kẻ thù ta tên nó là gian ác
Kẻ thù ta tên nó là vô lương
Tên nó là hận thù
[…]
Kẻ thù ta đâu có ở người ngoài
Nó nằm đây nằm ngay ở mỗi ai
Kẻ thù ta tên nó là vu khống
Kẻ thù ta tên nó là vô minh
(Phạm Duy, “Kẻ thù ta”, bài Tâm ca số 7),
thì, bây giờ, Mưa Đỏ vẫn tiếp tục sự vô minh với trò vu khống mà cả những người cùng phía cũng bày tỏ sự không đồng ý, thậm chí bất mãn, một cách khinh thường! [2]
Mưa Đỏ được ca ngợi là mới nhưng, bất quá, chỉ mơi mới một cách linh tinh kiểu hái lượm. Thì có chút cao bồi Hollywood, có chút võ hiệp Hồng Công. Lại có chút mùi mẫn trái tim phân vân và tình ái phân lìa, kiểu tiểu thuyết diễm tình. Rồi có cả sắc màu lãng mạn nhưng khá là… trớt quớt khi, giữa khung cảnh xám màu ngụy trang trong cảnh tiễn người ra trận ở bờ bắc sông Thạch Hãn, lại nõn nà chiếc áo bà ba lụa tím ngắt, không rõ là “yêu màu tím thích nhạc Trịnh Công Sơn” hay “Rừng hoang đẹp nhất hoa màu tím, chuyện tình thương nhất chuyện hoa sim.” [3]
Khó mà tin rằng ở cái nơi mà không gian lẫn thời gian bị nén lại đến khít chặt mà con người thì thảnh thơi như những tay hành hiệp tháng rộng ngày dài. Dưới sức đè của số lượng bom đạn có sức nổ tương đương bảy quả bom nguyên tử ở Hiroshima, và dưới sức đè của những mệnh lệnh chính trị từ cấp cao nhất theo nhu cầu ngoại giao, người lính Thành Cổ lại có thể hành động như bọn ăn không ngồi rồi, cả đời lang thang để rửa hờn hay “giữa đường thấy sự bất bằng chẳng tha”.[4] Cao bồi Hollywood có thể vứt súng, hiệp khách Tàu có thể vứt gươm mà lao vào nhau giải quyết ân oán như những đấng “yêng hùng” nhưng khó mà tin rằng những người lính thiếu ngủ, thiếu dinh dưỡng với tâm lý căng cứng sau những ngày dài bị vây hãm, lại lao vào nhau giải quyết căm thù giai cấp hay khác biệt lý tưởng với cùng bộ tịch. Mưa Đỏ, thậm chí, còn có cả khoảnh khắc 007. Trong thế bí, bao giờ chàng James Bond cũng liếc mắt vào cái đồng hồ trên tay như một vũ khí hộ mệnh thì người lính giải phóng ở đây cũng vậy. Cũng liếc mắt tương tự. Cũng là cái cổ tay. Chỉ khác là, thay vì cái đồng hồ, lại là cái khăn rằn Nam Bộ bọc quanh như lớp vải cứu thương, vụt bung ra như thành vũ khí siết cổ kẻ thù.
Riêng cho từng phân cảnh thì những chi tiết như thế có thể cũng đường được về mặt kỹ thuật như một bài tập thực hành cho giới học nghề làm phim nhưng, ráp nối thành một khối, như một tác phẩm hoàn chỉnh, lại rời rạc, gượng gạo, vô duyên và giả giả thế nào. Những điều lặt vặt như thế – từ chiếc áo bà ba tím đến cái khăn rằn Nam bộ hay bộ quân phục tinh tươm như thể vừa lấy ra từ tiệm giặt ủi rồi những cảnh chiến đấu bên trong Thành Cổ dẫu đây là một thành trì để cố thủ suốt 81 ngày, v.v. – đã không… vặt vãnh chút nào khi góp phần làm nên cái giả của bộ phim trên khía cạnh lịch sử. Cơ hồ, quen tay với cái hỏng trên phương diện hiện thực chủ nghĩa với những hái lượm lặt vặt về chi tiết, tác giả của Mưa Đỏ còn… ngủ ngày trên góc độ hiện thực lịch sử.
Sáng tạo nghệ thuật hoàn toàn cho phép tác giả hư cấu nhưng, liệu, những sao chép vụng về hay cái cảnh giết người bằng cây cột lửa kia có đáng mặt là “nghệ thuật”? Mà những hư cấu lịch sử, nếu có, cũng phải thực hiện với dụng ý lịch sử chính đáng nào đó, như khi Phan Bội Châu viết Trùng Quang tâm sử. Tái hiện cuộc kháng chiến vào đầu thế kỷ 15, nhà ái quốc này lại tố cáo giặc Minh hành vi của thực dân Pháp ở 5 thế kỷ sau đó như chính sách độc quyền rượu, cụ thể là làm tan nát gia đình một nữ nhân vật khi quy chụp họ tội nấu rượu lậu. Nhưng khi nhà sản xuất của Mưa Đỏ tỏ ra “phi lịch sử”, đó chỉ đơn thuần là… cẩu thả, là không học thuộc lịch sử, từ những cảnh chiến đấu bên trong Thành Cổ suốt 81 ngày đêm, hay cảnh ký kết Hòa ước Paris giữa lúc trận địa này còn rung lên với những âm thanh súng pháo, v.v. Ý niệm “hư cấu nghệ thuật” ở đây, do đó, chỉ là lời biện minh quấy quá cho sự cẩu thả khó mà tha thứ với nghệ thuật, và với lịch sử.
Sau hơn nửa thế kỷ với bao nhiêu là bằng chứng hậu nghiệm, hậu thế phải có quyền kỳ vọng vào một tác phẩm mang tính sử thi, thể hiện cuộc chiến một cách nghệ thuật và nghiêm túc, đúng với tầm vóc của nó chứ? Nếu Mưa Đỏ, trên phương diện nghệ thuật, chỉ là một phép cộng vụng về của những kỹ xảo điện ảnh hái lượm thì, trên góc độ ký ức cộng đồng, vẫn chưa đạt đến tầm vóc của một thiên lịch sử về trận chiến không vừa gây chú ý ở Hà Nội và Sài Gòn, vừa làm sốt ruột cho cả Paris và Washington DC.
Mà không nhất thiết phải đạt đến sự cân bằng lịch sử cho hai phía, Mưa Đỏ thậm chí còn thất bại với cái nhìn một phía bởi đã không đá động gì đến một trận chiến gay go khác trên bàn tham mưu.
Tái hiện một giai đoạn lịch sử thì, ngoài cái nhìn toàn diện, mang tính khái quát hóa, còn phải tái hiện những cái khác của nó, bề mặt và bề sâu hay bề cao. Nếu bề mặt là mức độ thương vong chưa từng thấy thì, với chiều sâu hay chiều cao, lại là những bất đồng gay gắt trên bàn tham mưu mà, trên phương diện nghệ thuật, có thể hình dung qua ước lệ của sân khấu hát bội hay đặc điểm của tuồng chèo.
Mưa Đỏ bắt đầu bằng cảnh đưa tiễn ở sân ga, mô thức quen thuộc trong các tác phẩm điện ảnh về Đệ nhất thế chiến. Tuy nhiên, một bộ phim với tầm vóc sử thi về trận chiến rất khác ở Quảng Trị, với tôi, nên khởi sự bằng hình ảnh một bàn tay, dứt khoát và lạnh lẽo, vỗ “bẹp” trên bản đồ với tuyên bố sắc gọn “Tôi đồng ý đánh ngay” để rồi, sau đó, là những hoang tàn và những chết chóc.
Nhưng hình tượng này, xin nói ngay, không phải là của tôi. Vừa là cái khác rất đặc biệt của Quảng Trị 1972, đó còn là hình tượng quen thuộc từ những thước phim về Đệ nhị thế chiến ở đó một Adolf Hitler hoàn toàn lơ mơ về quân sự nhưng lại lấn át những tướng lĩnh xuất sắc nhất với những kế hoạch tấn công hay phòng thủ duy ý chí, chỉ với bàn tay vồ lên bản đồ, cái “bẹp”. Và với âm thanh đánh “bẹp” ấy, những tướng lĩnh giỏi nhất dưới quyền chỉ có thể răm rắp vâng lệnh mà hậu quả là cái giá thật đắt cho họ, và cho binh sĩ của họ.
Tuyên bố “đánh ngay” được nhà chính trị “duy tiến công” Lê Duẩn đưa ra sau tiếng “bẹp” tương tự trên bản đồ tham mưu, bác bỏ phương án của những tướng lĩnh giỏi nhất, dạn dày trận mạc nhất. Nhưng thế trận tại chiến trường đâu phải lúc nào cũng suôn sẻ? Có lúc tiến. Có lúc phải lùi. Và có lúc phải ghìm chặt súng phòng ngự. Nhưng, như cố chứng tỏ sự độc sáng của mình, lãnh tụ chính trị này đã phát minh ra một chiến lược kỳ dị và cực đoan là chỉ có tiến công. Khi thì ông ta hô hào “Tiến công, kiên quyết tấn công, liên tục tiến công”. [5] Lúc thì ông ta dõng dạc “Nắm vững tư tưởng tiến công, chủ động tiến công để phòng ngự”. [6]
Hăm hở với cái chủ thuyết “duy tiến công”, những tướng lĩnh không dám nói “Không” dưới trướng ông ta đã sổ toẹt tất cả, kể cả bài học căn bản của Tôn Tử. “Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng”, nhà binh pháp lừng danh đã dạy thế nhưng họ thì không cần biết. Không cần đối phương. Không cần nắm địa hình. Và cũng không cần mình đang ở đâu, đạn dược và lương thực còn được bao nhiêu. Chỉ cần biết có mỗi một việc là tiến công và tiến công, tiến công để phòng ngự. [7] Chính cái quan niệm quân sự kỳ dị và chống lại con người này đã dẫn đến mức độ thương vong chưa từng thấy mà, riêng cho cuộc cố thủ kéo dài 81 ngày ở Thành Cổ, là mỗi ngày là hơn một đại đội bị nướng vào trận địa dưới hỏa lực dữ dội của đối thủ. [8]
Đó là kiểu tiến công mà, nói theo tướng Cao Văn Khánh, phó Tư lệnh Mặt trận Trị Thiên, khi nổi giận, là “tấn công để chết” và áp lực không chỉ trút trên đầu người lính. [9] Trước đó, Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng, Đại diện Quân ủy Trung ương tại Mặt Trận, đã choáng đến bất tỉnh, suốt nửa tiếng đồng hồ, trước mức thương vong kinh khủng của Sư đoàn 308 khi, đang ém quân ở Phong Điền để chuẩn bị tấn công Huế, lại nhận lệnh rút, băng sông Mỹ Chánh để lùi về bảo vệ Quảng Trị và, do đó, bị phơi lưng trong tọa độ của hải pháo và B-52. [10] Ông ta ngất nhưng ngất vì nặng lòng với lính, hay ngất vì chiến lược “duy tiến công” bị khựng? Nên nói đến việc nghĩ cho người lính, phải nói đến cảnh trong phòng tham mưu ở Hà Nội khi tướng Vương Thừa Vũ thình lình bỏ ngang cuộc họp, xô cửa xông ra, “mặt đỏ gay, nói oang oang”, rằng những cuộc họp như thế chỉ “mất thì giờ vô ích”, rằng điều đáng quan tâm là “xương máu chiến sĩ”, là “vận mệnh của Tổ quốc”. [11]
Tôi chú ý đến khuôn mặt “đỏ gay” và giọng nói “oang oang” của vị tướng dạn dày trận mạc. Vương Thừa Vũ – người từng theo học tại trường Võ Bị Hoàng Phố danh tiếng, chỉ huy trưởng Đại Đoàn 308, đơn vị chủ công trong chiến dịch Điện Biên Phủ – đã giận đến đỏ mặt trước phương án tấn công chỉ “để chết” và “oang oang” về “xương máu chiến sĩ”, y như là ước lệ của sân khấu hát bội cho những võ tướng trung thần. Nhưng ước lệ này còn làm tôi nghĩ đến nét mặt của tướng Dũng khi bị ngất trước hung tin từ sư đoàn thiện chiến nói trên: suốt nửa tiếng đồng hồ không biết trời trăng mây gió ấy, mặt ông ta trắng bạch ra hay là xanh mét đi, những màu sắc không hề hóa trang cho những nhân vật tiết nghĩa, trượng phu?
Hát bội, có phát tích từ đâu đi nữa thì cũng chỉ định hình từ vùng đất thời mở cõi trong âm sắc chắc nịch Quảng Nam, Bình Định. Cái thời phải căng mình ra đối phó với muôn vàn thử thách thì không ai rảnh rang để tỉ tê và vai chính trên sân khấu hát bội bao giờ cũng dứt khoát và sang sảng khẳng định mình “Như ta đây là…” để, nếu không ngời ngời chiến thắng trong thế mạnh, cũng phải tiết liệt, trung nghĩa trong thế nhược. Cái khác của chiến dịch ở Quảng Trị trông cũng như một tuồng hát bội dở dang bởi, đến hồi gay cấn nhất với những màn trình diễn xuất thần của vai chính để khi chúng ta chờ đợi tiếng trống chầu rộn ràng giòn giã từ bên dưới, lại thấy ngang phè với sự nỉ non cam chịu của… chèo.
Chèo khác với hát bội ở đề tài và ngữ khí. Nếu hát bội chủ yếu nhắm vào câu chuyện bi tráng thì chèo lại tập trung vào thế thái nhân tình, những chuyện với ý nghĩa răn đời trong đó, thường, những vai chính phải trải qua những tháng ngày cam chịu để cuối cùng đạt đến cái hậu tươi đẹp của mình. Lưu Bình, trong Lưu Bình – Dương Lễ, đã cam chịu để dốc lòng đèn sách chờ ngày rửa nhục công danh và cả Châu Long, cũng phải cam chịu đời sống cô phòng suốt mấy năm để phục dịch bạn chồng, chờ ngày đoàn tụ với chồng. Rồi Thị Kính, trong Quan Âm – Thị Kính, cũng cam chịu canh oan ức cho đến ngày được giải oan. Mà có khác đi như Mục Nham thì, từ những nhân vật bên trên đến khán giả bên dưới sân khấu, ai cũng “cam chịu” sự bất công, sự tráo trở cho đến giờ phút báo ứng, khi cô nàng Xúy Vân giả dại mất hết tất cả và, thậm chí, từ điên giả trở thành điên thật.
Trong khi những nhân vật chèo tỉ tê tâm sự hay nỉ non lời than vãn thì những vai hát bội lại sang sảng lời nghĩa khí như bậc trượng phu thế thiên hành đạo. Cái khác trong bề sâu hay bề cao của Mặt trận Quảng Trị 1972, có thể nói, nằm ngay ở sự dở dang của hai nghệ thuật trình diễn truyền thống này. Những tướng lĩnh quan tâm đến yếu tố con người, biết xót cho máu xương binh lính thì không thể “thế thiên hành đạo” với giọng nói oang oang, càng không thể trọn vẹn câu nghĩa khí với khuôn mặt đỏ gay vì giận. Và cái khác của trận chiến đó cũng lại là là sự dở dang của chèo khi sự cam chịu chẳng bao giờ dẫn đến một cái hậu đề huề.
Cả tướng Võ Nguyên Giáp, được xem là nhà quân sự tài ba và cao cấp nhất trong vai trò Bộ trưởng Quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh, cũng không là ngoại lệ. Tướng Giáp chủ trương rằng, để tránh hỏa lực khủng khiếp từ biển và từ trời, phải tránh đối đầu trực diện, phải áp dụng chiến thuật vu hồi, phải rút về rừng núi Trường Sơn rồi lựa thế đổ xuống đồng bằng với đòn bọc hậu. Ông ta khác với một Văn Tiến Dũng “duy tiến công”, cấp dưới của mình nhưng nắm cái ưu thế như một bản sao của Lê Duẫn:
“Do Bộ Tư lệnh chưa thống nhất được cách đánh nên ngày 25/4/1972 Tướng Văn Tiến Dũng cử Hoàng Nghĩa Khánh (lúc đó là Tham mưu phó tác chiến chiến dịch), cùng hai người lái xe và một cận vệ lái xe com-măng-ca, từ Sở chỉ huy tiền phương băng qua quãng đường bị cày nát bét vì bom Mỹ, cấp tốc chạy suốt đêm thẳng ra Hà Nội để xin ý kiến Quân ủy Trung ương. Chiếc xe đầy bụi đất chiến trường đổ xịch trước nhà Đại tướng Võ Nguyên Giáp chưa đầy 5 phút thì được điện của anh Ba (Tổng Bí thư Lê Duẩn) yêu cầu Hoàng Nghĩa Khánh sang báo cáo ngay. ‘Đồng chí Lê Duẩn đặt cả bàn tay xuống bản đồ, trùm lên cả khu vực La Vang, thị xã Quảng Trị đến cầu Mỹ Chánh và nói: Tôi đồng ý đánh ngay’.
Sáng hôm sau, ngày 27/4/1972 họp Quân ủy trung ương, có các đồng chí Bộ chính trị […] Anh Văn (Võ Nguyên Giáp”) cũng nói đã nghe và đồng ý với ý kiến anh Ba. […]
‘Thế là chiến dịch tiến công buộc phải đánh chính diện, vượt qua cầu Quảng Trị, đánh thẳng vào La Vang và thành Quảng Trị. Đợt tiến công đánh chiếm và bảo vệ cầu Quảng Trị rất gay go.’
Theo ý kiến nhiều tướng lĩnh thì đây có lẽ là quyết định tệ hại nhất về chiến thuật trong suốt cuộc chiến. Ý đồ chiến lược của Bộ trưởng Tổng Tư lệnh đã không được tuân thủ, nên việc tổ chức thực hiện chỉ có tiến công, dẫn đến những thay đổi cục diện trên chiến trường và cả hậu phương. Khi địch dùng máy bay, phi pháo phản kích lại thì ta bị phơi lưng, phải co lại ‘quyết tử’ giữ Quảng Trị. ‘Cái giá phải trả là xương máu bộ đội ta’”. [12]
Nhà quân sự tài ba và cao cấp nhất mà cũng phải dằn lòng cam chịu. Sĩ quan dưới quyền đến báo cáo chưa đầy năm phút mà đã bị giật ngang, không có cả phép lịch sự tối thiểu, đừng nói là sự tôn trọng tối thiểu. Mà để bị giật ngang như thế, ông ta phải bị đặt trong tầm ngắm, nhất cử nhất động đều bị theo dõi sít sao, chặt chẽ, như một con mồi. Có như vậy thì mới hiểu tại sau sự cam chịu mới chuyển hóa thành khoảnh khắc Xúy Vân giả dại khi, giữa cuộc họp quan trọng, ông ta phải xuê xoa bày tỏ sự “đồng ý” với một chiến thuật mà, trong thâm tâm, không bao giờ bằng lòng.
Chỉ một bàn tay chụp xuống bản đồ, không cần biết cái gì cả, biết mình hay biết người, chỉ biết có ý đồ chính trị của mình, mà bao nhiêu mảng đời bị dập nát thì vấn đề không chỉ là vô minh mà còn là vô nhân. Tái hiện lại một lịch sử như thế, thì ngoài những cảnh đánh nhau xem đã phát ngấy, còn phải tái hiện những xung đột nảy sinh từ sự vô minh và vô nhân này mà, trên góc độ nghệ thuật truyền thống, là sự “hợp long” từ cái dở dang của hát bội và cái dở dang của chèo.
Mưa Đỏ không đạt đến tầm vóc sử thi khi không tái hiện một lịch sử như thế, bằng ngôn ngữ điện ảnh độc sáng của mình. Chỉ mơi mới trên phương diện kỹ xảo theo kiểu hái lượm, Mưa Đỏ, thực chất, chỉ là một sản phẩm tuyên truyền màu mè với ít nhiều sến súa. Nhưng thành công về thương mại cùng những lời tán dương nồng nhiệt như là “bản hùng ca tái hiện lịch sử” và, thậm chí, còn có cả ảo tưởng Oscar, Mưa Đỏ càng khiến chúng ta có lý do để thất vọng. một cách sâu xa. Thất vọng vì khán giả, rất đông, vẫn không chịu nhìn lại lịch sử như một bài học đau đớn để hướng về tương lai mà, thậm chí, còn nuôi dưỡng ảo tưởng. Thất vọng vì, với cái số đông ấy, lịch sử chỉ nên bọc đường như vị thuốc an thần, vừa giải tỏa những áp lực của hiện tại, vừa biện minh cho những hỏng hóc của hiện tại.
Với một tầng lớp khán giả đông đảo như thế thì đất nước sẽ đi về đâu? Và nếu Chiến dịch Quảng Trị năm 1972, trên phương diện quân sự, là một sự vô minh và vô nhân thì bây giờ Mưa Đỏ, trên phương diện văn hóa và như một ký ức cộng đồng, chính là biểu hiện của sự vô minh và vô hậu.
Tài liệu tham khảo & chú thích:
- “The first casualty when war comes is truth,”, phát biểu của TNS Mỹ Hiram Johnson vào năm 1918. Theo nhiều tài liệu thì Aeschylus, kịch tác gia cổ đại Hy Lạp sống vào thế kỷ thứ 5 BC, cũng từng đưa ra phát biểu tương tự.
- Ông Trịnh Hòa Bình, cựu chiến binh Thành Cổ: “Hình ảnh lính VNCH đốt tù binh là không đúng, họ không làm thế đâu. Qua đoạn này người xem có thể nghĩ lính VNCH rất dã man, hung bạo. Thực tế thì họ cũng là người Việt, sống nhân văn.”
Nhà thơ Bùi Chí Vinh: “Và làm ơn đừng xuyên tạc và vu khống người lính Việt Nam Cộng Hòa thiêu sống lính Việt Cộng như trong phim MƯA ĐỎ. Chính chị thừa biết thằng Bùi Chí Vinh này từng là lính Nhảy Dù lẫn lính Việt Cộng Đặc Công Thủy Rừng Sát đây. Xin nói thẳng, nước VNCH văn minh có công pháp quốc tế có quân kỷ trong luật chiến tranh rất đàng hoàng, không bao giờ ngậm máu phun người như bọn nhà văn và đạo diễn bồi bút.”
- Ca khúc “Chuyện hoa sim” của Anh Bằng, phỏng theo ý bài thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan.
- Trong 81 ngày đã có 328 ngàn tấn bom đạn trút xuống phạm vi Thành Cổ (16 ha) và 3 km vuông của thị xã Quảng Trị, tương đương sức công phá của 7 quả bom nguyên tử ở Hiroshima.
Cao Bảo Vân (2021), Tướng Cao Văn Khánh, NXB Tri thức, trang 642.
- GS Trần Nhâm (2002), Lê Duẩn – Trường Chinh, hai nhà lý luận xuất sắc của Cách mạng Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, trang 70.
- Cuốn tháng Sáu 1972 Võ Nguyên Giáp gọi Nguyễn Hữu An từ Lào về, giao nhiệm vụ vào Quảng Trị để “nắm tình hình” của Sư đoàn 308 vì “địch nhiều thế mà không đánh được trận tiêu diệt nào”. Đến Quảng Trị, Nguyễn Hữu An được Hoàng Đan (chỉ huy Sư đoàn 304) cho biết chiến thuật ở đây là “ba chưa một ngay”: “Thứ nhất, chưa nắm được địch; thứ hai, chưa nắm được địa hình; ba là, chưa có quân bổ sung, chưa có gạo, đạn. Còn một ngay nghĩa là ‘phải đánh ngay’.”
Nguyễn Hữu An (2002) Chiến trường mới, NXB Quân Đội Nhân Dân, trang 164 và 173.
- Cao Bảo Vân, sđd, trang 640.
“Lệnh trên chỉ cho tấn công, không cho phòng ngự, dù quân số chiến đấu mỗi tiểu đoàn chỉ còn từ 50-60 người. Mỗi ngày Bộ Tư lệnh mặt trận bổ sung một đại đội khoảng 100 tay súng, hầu hết đều là học sinh sinh viên các trường đại học ở Hà Nội, cho các đơn vị bảo vệ thị xã, nhưng vẫn không đủ bù cho quân số bị thương vong.”
Nếu đó là thương vong riêng cho việc cố thủ Thành Cổ thì tài liệu tổng kết “Chiến dịch mùa hè 1972” của Bộ Tổng Tham Mưu (Hà Nội) ghi nhận:
“Chúng ta đã thiệt hại nặng nề nhất kể từ sau tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 mà cần phải một thời gian chừng 4 năm nữa mới khôi phục lại… Ta hy sinh 10.767, mất tích 1.550, bị bắt 98, bị thương 27.573, đào lạc ngũ 5.957, hàng 136. Tổng cộng 46.081. Thiệt hại binh lực có thể nói là lớn nhất so với tất cả các chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến.”
Cao Bảo Vân, sđd, trang 643.
- Cao Bảo Vân, sđd, trang 645.
Tác giả thuật lời ông Lê Quang Đạo (từng là chính ủy Mặt Trận Trị Thiên nhưng bị cách chức, thay thế bằng tướng Song Hào): “Khi nghe tin trên dự định kỷ luật Nguyễn Hữu An, chỉ huy cánh quân 308, anh Khánh mặt đanh lại, xăm xăm đi tìm ông H. (Tư lệnh mặt trận lúc bấy giờ). Anh hỏi lạnh lùng: “Vì sao kỷ luật anh An?” Ông H. trả lời: “Vì không chịu đánh”. Anh Khánh gằn giọng: “Đánh để sống chứ đánh để chết à?”
Tác giả chỉ nêu tên ông H. nhưng từ các trang khác có thể nhận ra đó là Trần Quý Hai, xuất thân bần cố nông, từng là chỉ huy du kích Ba Tơ và lúc đó giữ Thứ trưởng Quốc phòng. Trần Quý Hai và Song Hào được cử vào làm Tư lệnh và chính ủy mặt trận, thay Lê Trọng Tấn và chính ủy Lê Quang Đạo vì lừng khừng với quan điểm “tiến công”.
Nhưng Trần Quý Hai không chỉ thiếu sức khỏe mà thiếu cả những kiến thức quân sự căn bản. Trong trận Khe Sanh, ra trận giữa lúc bị bệnh tiểu đường và bao tử hành, đi đâu cũng phải có lính cáng bằng võng. Có lần vì sợ B-52 mà bắt lính mò mẫm cáng mình trong đêm tối giữa rừng, không cho mở đèn pin mà không hề hay biết rằng, B-52 là máy bay ném bom chiến lược, thả bom theo tọa độ, không bay lượn tìm diệt với từng con mồi. Cao Bảo Vân, sđd, trang 484-485.
- Cao Bảo Vân, sđd, trang 632-633
- Cao Bảo Vân, sđd, trang 636-637
“Sự căng thẳng không chỉ diễn ra trên chiến trường mà ngay trong Nhà Rồng – Bộ Tổng Tham mưu ở Hà Nội. Thiếu tướng Chu Phác, nguyên Bí thư của tướng Vương Thừa Vũ kể lúc này ở Bộ có cuộc họp rất quan trọng, tại toà nhà 28 Cửa Đông, trong thành. Dự họp gồm các tướng lĩnh của Bộ, các Tư lệnh Quân chủng, Binh chủng, Giám đốc Học viện Quân sự, Chính trị và Hiệu trưởng Trường Sỹ quan Lục quân 1. Cấp phó, người đi thay, Thư kí, Văn phòng… đều không được dự. Bộ đội Lữ đoàn 144 gác hai vòng. Vệ sỹ, công vụ không được đến gần. Cửa phòng họp đóng kín mít.
Cuộc họp mới được nửa tiếng đồng hồ, bỗng cửa mở toang. Thiếu tướng Vương Thừa Vũ cắp cặp đi ra, mặt đỏ gay, nói oang oang: “Tôi xin không họp, họp như vậy chỉ mất thời giờ vô ích! Tôi nói đây không phải là nói đồng chí Võ Nguyên Giáp, cũng không phải nói Quân ủy Trung ương. Điều tôi quan tâm đến là máu xương chiến sỹ!”.
Thiếu tướng Vương Thừa Vũ bước đi lảo đảo. Đại tướng Võ Nguyên Giáp hai tay đỡ người thuộc cấp và gọi quân y: “Đưa anh Vũ sang phòng bên nghỉ ngơi, đo huyết áp, xong dẫn anh về họp”.
Theo chỉ thị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, sáng hôm sau Bộ Tổng tham mưu tiếp tục chủ trì cuộc họp để bàn tổ chức thực hiện cụ thể. Có vị tướng đứng lên nhìn về phía Thiếu tướng Vương Thừa Vũ nói một câu gì đó. Ông lập tức đúng lên nói to: “Đánh như thế chỉ tốn máu xương của chiến sỹ”. Dừng một chút, ông nói gay gắt hơn: “Đây không phải là chuyện tranh luận ai thắng ai thua, mà là chuyện xương máu của chiến sỹ, chuyện vận mệnh của Tổ quốc”. Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng mời Thiếu tướng Vương Thưa Vũ ngồi xuống, nói: “Anh yên tâm, đánh thế nào còn có tôi, có cấp trên nữa”.
Cuộc họp căng thẳng quá, nên huyết áp Thiếu tướng Vương Thừa Vũ và một vài người nữa lại lên cao. Quân y lại phải đưa họ sang phòng bên cạnh nghỉ ngơi. Trong cuộc họp sáng hôm sau của BTTM, tướng Vũ và một vài người khảc phải cấp cứu vì lên huyết áp do quá căng thẳng.”
- Cao Bảo Vân, sđd, trang 627-628.