San Phi
- Khúc Lục Bát Tạ Ơn
Chữ dậy men hương ngọt còn đọng lại trên vân tay, tôi lạc bước vào thế giới thi ca của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. Ở đó, mỗi cảm xúc tinh khôi là một dòng chảy ký ức, kiến tạo nên một vũ trụ nội tâm, nơi thời gian dường như ngưng đọng. Nơi trái tim nghe từng thớ sóng mơ, nơi vầng trăng soi rọi. Chị là một thi sĩ của tình yêu, của nỗi nhớ, và của những điều không thể gọi tên.
Câu thơ mọc cánh rung động vô hình. Thơ của chị không được viết bằng mực, bằng giấy, mà bằng gió, bằng mây, bằng tia nắng lung linh trên tán lá. Hay những hạt sương đêm còn đọng lại trên cánh hoa, là những giấc mơ lãng đãng, những mối tình như dòng suối chảy lúc êm đềm, khi trào cuộn.
Chị thả hồn mình vào từng chữ, những câu chữ nhún nhảy biết nói bài thơ bỗng chốc nở hoa, để niềm vui mong manh trở nên thuần khiết. Chị yêu cái đẹp, dù đó là cái đẹp của hạnh phúc hay cái đẹp của sự tan vỡ.
Lời ngỏ của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh là một sự tri ân sâu sắc, thể thơ lục bát đã gắn bó từ thuở ấu thơ, thấm đẫm trong tiềm thức và trở thành một phản xạ tự nhiên của cảm xúc. Lục bát được ví như “miếng cơm mớm” nuôi dưỡng tâm hồn, đồng hành cùng chị qua tháng năm.
Trong lời ngỏ, tác giả cũng khẳng định sức quyến rũ riêng biệt của lục bát, dù mang vẻ đẹp chân phương như ca dao hay thâm trầm, sang trọng trong thi ca. Cuối cùng, tập thơ được gom lại như một món quà từ tấc lòng, tri ân đối với thể thơ truyền thống này.
Trăng và nắng vẫn đi, “tôi” luyện giọt đời hư không thành lời chân thành. Với tinh thần tràn đầy lòng biết ơn, chị đã khiêm nhường dâng hiến mình cho thơ ca. Đây là một phần đặc biệt, của chùm thơ “Lục Bát Tạ Ơn”, gây ấn tượng mạnh mẽ với giọng điệu nữ tính và nhẹ nhàng. Chị đã dùng những hình ảnh gần gũi đến lạ, từ những điều nhỏ bé, để dệt nên một không gian thơ đầy chất mơ, khiến người đọc như nghe thấy tiếng lòng mình đang gọi.
Những hình ảnh không cầu kỳ, rất chân thực, như một lời tâm tình nhỏ nhẹ. Mỗi bài thơ là lời cảm tạ chân thành với những điều tưởng chừng nhỏ bé nhưng lại ý nghĩa vô cùng.
Thiên nhiên: “giấy trắng mây,” “nắng trong,” “hạt sương,” “dòng sông trôi,” “mùa thu trổ sắc vàng.”
Con người: “nụ cười,” “tiếng cười thân quen,” “vẫy tay,” “bước đi.”
Quê hương: “thân cò lội,” “tàu lá chuối,” “gói xôi mẹ ủ,” “ruộng gầy,” “câu hò.”
Chị biết ơn cuộc đời, thơ ca, văn học, lịch sử và tri kỷ: “Ơn ngày bao dung,” “Ơn nụ cười,” “Ơn trần gian,” “Ơn thơ,” “Ơn câu lục bát,” “Cảm xúc hóa sinh câu thơ,” “Ơn quê hương,” “Giờ học sử,” “Ơn thân cò lội” hay những bài thơ dành tặng bạn bè, những nhà văn, nhà thơ như Lê Phương Châu, Duyên, Du Tử Lê…
Trong giấc tôi mơ giấc trôi… Hái trăng nhặt bóng nơi nghìn bước chân. Trong thơ chị hình ảnh vừa thực, vừa mơ: “giấc mây,” “mộng chân trời,” “xa gần mơ thực một ta.” Đó là một trạng thái tâm hồn tĩnh tại, lặng thinh giữa đêm sâu, nhưng lại dào dạt cảm xúc với chữ. Những hạt thơ chứa đựng bao mơ hồ, lửng lơ, nhưng lại vô cùng cuốn hút, một tâm hồn thanh tịnh. Điều này gợi nhớ đến lời Phật dạy về “Hiện Pháp Lạc Trú” mà chị đã đề cập: “Mộng đời bặt tiếng bi ai / Ta hay là giọng ngân dài? Hư vô…”
Uyển chuyển, mềm mại giọng thơ, trang sách nở nụ biếc tơ chuông thầm thì. Tác phẩm lột trần trụi về niêm luật, đôi khi chỉ với 2-3 chữ mỗi câu, ngắt dòng đầy dụng ý như một tiếng thở dài, một khoảng lặng của cảm xúc, ví dụ: “Em đi / Em bước / Vô vàn / Thanh Lương.” Cách viết này tạo nên nhịp điệu riêng, thể hiện sự phóng khoáng trong tâm hồn người làm thơ. Từng con chữ thức giấc như lời thủ thỉ, tâm tình của một người nữ dịu dàng, tinh tế đang chiêm nghiệm cuộc đời, ngắm nhìn bầu trời tự do, cuốn đi những lớp áo lá và tự tìm cho mình câu trả lời.
Hôm qua hạt lệ thâu canh
Sang nay đọng lại trên cành, hạt sương
Hôm qua, lắm mộng đêm trường
Hôm nay ngơ ngác bên đường, bình minh
Hóa ra còn mặt đất xinh…
Hôm qua ngó lên trời xanh
Sợ cái mênh mông làm thành cỏ mộ
Hôm nay nhìn lên lần nữa
Mầu xanh ơi lộng gió lòng tôi
Ăn thua là ở nụ cười…
(Trích “Ơn Nụ Cười”)
Bài thơ bắt đầu bằng hình ảnh một đêm dài thâu canh đầy nước mắt. Hạt nước cựa mình không tan biến mà đọng lại, hóa thành hạt sương trên cành lá. Nỗi buồn, sự đau khổ của đêm đi qua ánh chiều “lắng lọc” và trở nên tinh khiết, dịu dàng hơn khi ngày mới đến. “Hôm qua” là một đêm dài mệt mỏi với “lắm mộng đêm trường,” nhưng “hôm nay” thì mọi thứ đều nhẹ tênh, bình yên. Ta thấy một sự ngơ ngác đầy bất ngờ trước vẻ đẹp của buổi bình minh, khi mọi lo âu đã tan biến, nhường chỗ cho cảm giác ngỡ ngàng, hạnh phúc khi nhận ra “còn mặt đất xinh” biết bao. “Hôm qua” là nỗi sợ hãi về sự mênh mông của trời xanh, sợ sẽ trở thành “cỏ mộ,” một biểu tượng của sự kết thúc. Nhưng “hôm nay,” khi nhìn lại, bầu trời xanh trở nên lộng gió. Và rồi, tất cả những uyển ngữ diệu kỳ dẫn đến một câu kết thật ngắn gọn mà sâu sắc: “Ăn thua là ở nụ cười.” […]
Mộng mị đôi lần cau mặt
Ngờ tang thương hóa bảy sắc cầu vồng
Nhạn chao một tiếng ngàn không
Trời xanh. Tóc trắng. Mơ mòng cố hương
Nụ hoa đêm. Vỡ canh trường
Giật mình tỉnh giấc. Con đường đã xa
Dặm ngàn đổ lệ tài hoa
Chân sương đầm đẫm. Dấu là thiên thu…
(Trích “Dặm Thơ”)
Câu thơ “mộng mị đôi lần cau mặt” và sau đó bất ngờ chuyển sang “tang thương hóa bảy sắc cầu vồng” phải chăng là sự chấp nhận, biến nỗi đau thành cái đẹp và hy vọng. Nỗi buồn của kẻ tha hương được lồng vào hình ảnh “nhạn chao một tiếng ngàn không” và “Trời xanh. Tóc trắng. Mơ mòng cố hương,” gợi lên nỗi buồn sâu lắng của người con xa quê, hoài niệm về những điều đã cũ. Câu thơ “Nụ hoa đêm. Vỡ canh trường / Giật mình tỉnh giấc. Con đường đã xa” thể hiện sự thức tỉnh đột ngột, nhận ra rằng mọi thứ đã thay đổi, không thể quay lại được nữa. “Dặm ngàn đổ lệ tài hoa” và “Chân sương đầm đẫm. Dấu là thiên thu” là sự mất mát, nuối tiếc cho những điều đã qua, đã mãi mãi đi vào dĩ vãng.
Một ngàn sợi nắng vân vi
Buộc nhau một chữ yêu vì. Tóc tơ
Em gọi anh là Giấc Mơ
Em gọi anh là bài thơ cuối cùng
Hỏi xem trời đất mung lung
Có ai ghi chữ thủy chung như vầy
Giấc Mơ là để vòng tay
Ta ôm cho trọn phút giây mộng gần
(Trích “Ơn Tóc Tơ”)
Ngàn sợi nắng làm cho không gian trở nên lung linh. Những điều nhỏ bé và lớn lao đều xoay quanh một chữ “yêu.” “Em gọi anh là ‘Giấc Mơ,’ chỉ vì anh là tất cả mà em có, bởi vì anh là sự kết thúc ngọt ngào cho mọi kiếm tìm.” Anh chính là bến đỗ, là điểm đến cuối cùng. “Một ngàn sợi nắng vân vi / Buộc nhau một chữ yêu vì. Tóc tơ” là một hình ảnh tài tình. Nắng, mây, và tóc tơ – những thứ mong manh nhất lại được buộc chặt bằng một chữ yêu, cho thấy tình yêu này không cần những lời thề non hẹn biển, mà đơn giản là sự gắn kết từ những điều dịu dàng nhất, bền chặt một cách tự nhiên như ngày mai mặt trời sẽ mọc. Khi em hỏi “Trời đất mung lung / Có ai ghi chữ thủy chung như vầy,” đó là một lời khẳng định. Giấc mơ ấy là có thật, được ôm anh, được sống trọn vẹn trong tình yêu. Đó là lời thủ thỉ của một trái tim đang yêu, trân trọng trong từng khoảnh khắc.
- Vẻ Đẹp Biến Tấu Của Thơ Lục Bát
Những dòng thơ lục bát biến tấu của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh trong phần hai “Đồng Dao Ta” mang một vẻ đẹp rất riêng, rất đỗi tinh tế. Chị như đang thêu dệt những mảnh lụa cảm xúc, mềm mại lại lấp lánh suy tư. Tôi cảm nhận được ngay sự uyển chuyển trong cách chị chơi đùa với vần, với nhịp. Vẫn là thể thơ lục bát truyền thống, nhưng qua bàn tay biến hóa, trở nên tự do hơn rất nhiều. Chị gọi đó là biến tấu, nhưng với tôi lại là một mê trận thực sự. Người đọc dễ dàng lạc lối bởi cách chị giăng bày những thủ pháp ẩn dụ siêu thực, kết hợp với thủ thuật thả chữ, nhả ý đầy tinh tế. Những bạn đọc mới lâu nay vẫn lân la với vần điệu khuôn sáo cũ. Điểm son là ý tưởng táo bạo mang đến cho người đọc cảm thức mới. Những câu thơ không đi theo lối mòn bởi quy tắc “sáu-tám” và kéo dài, đứt đoạn một cách ngẫu hứng mà vô cùng hợp lý, như những âm vực bất ngờ trong một bản nhạc. Sự biến tấu này là để tạo ra một không gian rộng mở cho cảm xúc, để mỗi từ, mỗi chữ đều có thể bung tỏa hết vẻ đẹp vốn có.
Trong “Nhịp xuân”, cái “nhịp đồng hoa em mẩy hạt” hay “hát thệ chiều em lẫy thắm tà buông” đều gợn lên một bức tranh mùa xuân đầy sức sống. Hay trong “Quê cũ”, chỉ với những hình ảnh giản dị như “sân gạch,” “bóng rơi,” chị đã dậy khơi nỗi nhớ quê hương da diết.
“Đúng nơi bóng ấy. Tôi ngồi” có nhịp 2/4 (Đúng nơi / bóng ấy. / Tôi ngồi).
“Mỗi sáng trông lên biển trời. Quê cũ” có nhịp 3/3
Câu sáu chữ và câu tám chữ, với vần điệu và thanh điệu không đồng thuận tuân theo quy tắc nhất định. Dấu chấm biến đổi linh hoạt tạo nên sự hòa hợp giữa cảm xúc bên trong và không gian bên ngoài, thể hiện sự tĩnh lặng, vừa mở ra tâm trạng hoài niệm, đau đáu khi hướng tầm mắt về phía biển trời quê hương. Câu thơ “Đúng nơi bóng ấy. Tôi ngồi” là một điểm nhấn quan trọng kết nối giữa thiên nhiên và con người. “Bóng ấy” chính là cái bóng của chủ thể, của “tôi,” gợi lên sự hiện hữu tĩnh lặng và khiêm nhường. Việc “tôi ngồi” đúng nơi cái bóng rơi xuống.
Điều khiến thơ của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh trở nên đặc biệt hơn cả chính là những chiêm nghiệm triết học sâu sắc được lồng ghép một cách nhẹ nhàng. Chị thường đặt ra những câu hỏi về sự tồn tại, về cái tôi, tình yêu và duyên số.
“Chiều ngậm một nửa mặt trời / Nửa kia còn lại cho đời bình minh”
Hình ảnh mặt trời chia đôi độc đáo và mang tính biểu đạt cao. Một nửa thuộc về chiều tà, gắn với sự tàn phai; nửa còn lại tiếp tục hành trình mang đến bình minh cho cuộc đời. Điều này thể hiện triết lý về sự tồn tại song song của hai thái cực đối lập trong cuộc sống: Niềm vui và nỗi buồn, hy vọng và tuyệt vọng, ánh sáng và bóng tối. Cuộc sống luôn là sự đấu tranh giữa hai mặt này. Những câu thơ như “Trách chi cười nửa nụ cười” hay “Thốt nhiên còn một nửa tôi”, gợi lên sự mất mát. Cái triết lý ấy không hề nặng nề, khô khan mà thấm đẫm trong từng câu chữ, như những lời thủ thỉ tâm tình với chính mình và bạn đọc.
Đặc biệt, trong “Đồng Dao Ta”, những câu thơ như “Cho ta giờ lại có mình” hay “Năm mười… ta trốn đi đâu” thể hiện một sự tự vấn nội tâm mạnh mẽ. Chị tìm kiếm sự hòa hợp, sự đủ đầy trong một thế giới đầy biến động. Và có lẽ, câu trả lời không phải là tìm kiếm ở đâu xa, mà là trở về với chính mình, chấp nhận “một” mình với ta để tìm thấy bình yên.
Hóa ra mình đã lạc nhau
Bao năm tìm bóng mà đâu với hình
Cho ta giờ lại có mình…
Ngồi xuống với nhau tình tự
Cõi buồn xưa nhập cõi chữ âm thầm
Tạ nhau, hai cõi tình thâm.
(Trích “Đồng Dao Ta”)
Một tiếng thở dài đầy nuối tiếc, nhưng cũng là sự chấp nhận cái “lạc” – lạc về khoảng cách không gian và lạc lối của tâm hồn. Câu “lại có mình” ở đây thật quý giá, là sự trở về với chính mình, với những cảm xúc và ký ức sau bao năm xa cách. Ngồi xuống “tình tự” với nhau, đối diện với nỗi buồn, là “cõi buồn xưa” đã nhập vào “cõi chữ âm thầm” để trở thành chất liệu tạo nên những vần thơ. Cuối cùng, “Tạ nhau, hai cõi tình thâm” nghe nhẹ nhàng mà thanh thoát, êm dịu mà sâu sắc. Thơ là như phải thế, mang trong mình vẻ đẹp của sự uyển chuyển, của cảm xúc thuần khiết, để rồi lắng đọng sâu sắc.
Với những biến tấu lục bát độc đáo, nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh đã mở ra một hướng đi mới cho thể thơ này, thể hiện sự sáng tạo không giới hạn. Dù cách tân về vần và nhịp, thơ của chị vẫn giữ được âm hưởng thiết tha, sâu lắng vốn có của thể thơ truyền thống, đồng thời hòa hợp một cách tự nhiên với tư duy thơ hiện đại.
- Cuộc Đối Thoại Với Thời Gian
“Tháng Năm Là Mộng Đang Đi” không chỉ là một tựa đề mà còn là lời tự vấn xuyên suốt Phần Ba của tập thơ, nơi tác giả bóc tách từng lớp thời gian để tìm về một khái niệm trừu tượng: Liệu thời gian có phải là một thực thể sống động, có hình hài, có cảm xúc? Sự bám víu và trăn trở không ngừng ấy đã tạo nên một dòng chảy triết lý, kết nối những câu thơ đầy ám ảnh. Cảm xúc ấy rõ ràng nhất trong bài thơ:
Đâu ngờ thuở ấy mong manh
Sáng nay chợt nắng, giật mình, hoa xưa…
Nụ đơm từ buổi xuân thơ
Vàng hoa chín muộn. Bây giờ. Mới hay.
(Trích “Mùa Đi”)
Câu “giật mình” khi “Sáng nay chợt nắng, giật mình, hoa xưa…” tạo ra một cú chạm cảm xúc mạnh mẽ. Đó là sự ngạc nhiên, sự thức tỉnh khi nhận ra những điều xưa cũ vẫn còn đó, không hề phai nhạt. Hình ảnh “Nụ đơm từ buổi xuân thơ / Vàng hoa chín muộn” là một ẩn dụ tuyệt vời. Những nụ hoa từ thuở ngây thơ, non dại giờ đây đã “chín muộn,” trở thành những đóa hoa vàng rực rỡ. Điều này gợi lên cảm giác về sự trưởng thành, về những giá trị của tuổi trẻ mà phải đến khi trải qua dặm dài cuộc sống, ta mới thực sự cảm nhận và thấu hiểu. Và rồi, cụm từ “Bây giờ. Mới hay” như một dấu chấm lửng đầy sức nặng. Nó khẳng định một sự thật, một bài học mà con người chỉ có thể hiểu được khi đã đi qua một chặng đường dài. Tôi chợt nhớ đến câu của triết gia La Mã Seneca. “Non exiguum temporis habemus, sed multum perdimus.”Câu này dịch ra tiếng Việt có nghĩa là: “Chúng ta không có ít thời gian, mà là chúng ta đã lãng phí rất nhiều.” Seneca nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sống trọn vẹn từng khoảnh khắc. Ông cho rằng con người thường lãng phí thời gian và chỉ nhận ra giá trị của nó khi đã muộn. Seneca khuyên chúng ta nên trân trọng hiện tại, vì quá khứ đã qua và tương lai thì chưa tới.
Trong “Mùa Đi,” chị dường như đang trò chuyện cùng những mùa đã qua, từ “xuân thơ” đến “thu chín muộn,” từ “nắng hạ xưa” đến “mưa gió cũng dứt bài cuồng ca.” Sự luân chuyển của bốn mùa là sự thay đổi của thiên nhiên, cũng như sự dịch chuyển của lòng người, những kỷ niệm, của “nỗi đau sao vẫn như vừa chia xa.” Nỗi nhớ được cụ thể hóa thành “chiếc nôi nhà” trong “ba mươi còn giấu câu mừng,” và sự “lâng lâng” của thời gian thể hiện rõ trong “già thêm một tuổi đất tròn.”
Bóng vẫn thế
Đứng một mình
Làm như thể không có hình tôi xưa
Lạc vào một đêm mộng vừa
Gặp tôi
Bóng ngỡ
Tình cờ
Mộng du…
(Trích “Vẽ bóng”)
Dưới ngòi bút của chị, ”vẽ bóng” đưa ta vào một không gian đầy mơ hồ và suy tư, nơi ranh giới giữa thực và ảo trở nên mờ nhòe. “Bóng vẫn thế, đứng một mình” một nỗi cô đơn, một sự tồn tại tách biệt khỏi chính “tôi xưa” của nó. Cái bóng ở đây có thể là hình ảnh quá khứ, của những ký ức, hoặc thậm chí là một phần con người mà ta đã đánh mất.
Sự trớ trêu của bài thơ nằm ở chỗ, cái bóng tưởng chừng như luôn gắn liền với chúng ta, nhưng lại không nhận ra “tôi” của hiện tại. Khi “lạc vào một đêm mộng vừa,” cái tôi hiện tại gặp lại cái bóng của chính mình trong quá khứ, nhưng cái bóng lại ngỡ là “tình cờ mộng du.” Điều này dường như đặt ra một câu hỏi day dứt: liệu chúng ta có thực sự hiểu và chấp nhận tất cả những phiên bản của chính mình qua từng giai đoạn của cuộc đời? Đó là một sự chiêm nghiệm lặng lẽ về bản ngã và sự dịch chuyển của thời gian.
Sự phân thân giữa “tôi” và “bóng” tạo nên một không gian triết lý, nơi con người tự vấn về sự tồn tại. Những hình ảnh như “Bóng không đổ xuống, mà buông / Như chiếc lá đã kiệt hồn nhựa xanh…” hay “Ánh sáng làm mặt lạ tôi / Dường như cả cái chỗ ngồi lặng thinh” cho thấy một nỗi cô đơn sâu thẳm, một sự trốn chạy hay tìm kiếm bản thể đã bị lãng quên.
Sự đối lập và hòa quyện giữa nội tâm và ngoại cảnh. Điều làm nên sức hấp dẫn của tập thơ chính là sự đan xen tài tình giữa thế giới nội tâm và thế giới ngoại cảnh. Những hiện tượng của tự nhiên như nắng, mưa, gió, biển… là tấm gương phản chiếu tâm trạng. “Khát nắng. Nghe mưa dầm,” “Lúc mưa gió cũng dứt bài cuồng ca,” “Biển khuya khoắt thở, cây phiền muộn reo”. Lắng nghe hạt thơ khe khẽ trở mình tách vỏ, đánh thức những giấc mơ xanh, rồi dang đôi cánh bay. Thế giới nội tâm lại mở ra vô hạn.
Gìn ký ức nơi bóng hình khao khát. Những cơn mơ ánh nắng vẽ nên một bức tranh đa chiều, vừa lãng mạn vừa thực tại. Mỗi câu chữ chạm vào thôi, đã bỏng rát. Mang trăn trở về thời gian, về những được mất, về những dấu vết cuộc đời đã bén rễ, cắm sâu vào lòng đất. Với giọng thơ nhẹ nhàng, mềm mại, nhưng lại có sức lay động mạnh, chị đã khiến người đọc phải dừng lại, lắng lòng và chiêm nghiệm về chính tâm hồn mình. Phần nào đó, chị đã thành công!
Xin trân trọng cảm ơn tình văn nghệ mà nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh đã gửi gắm. Được cầm trên tay con tinh thần của chị, tôi cảm nhận tâm hồn được sự kết nối vô hình từ chữ nghĩa. Thi ca như một mối duyên, mỗi áng thơ được sinh ra đều từ một cuộc gặp gỡ định mệnh, và duyên thi ca giữa tôi và chị chính là một trong những cuộc gặp gỡ đẹp đẽ ấy.
Sài Gòn ngày 23 tháng 8 năm 2025