Thái Kế Toại
Cứ tự nhủ phải viết về quê hương một cái gì. Thế mà lần lữa, bệnh tật, ốm đau, mấy sự cố của gia đình, mãi chưa viết được. Cứ nghĩ như là mắc nợ với quê hương. Vì sao lại mắc nợ? Bởi vì biến động của thời thế, cái tên Thái Bình sắp mất trong tỉnh mới Hưng Yên. Nó chỉ còn lại là một phường trong mấy phường của thành phố Thái Bình cũ.
Nhưng Thái Bình là một miền đất cổ. Nó không thể phai mờ cùng lịch sử, nơi phát tích nhà Trần, một vương triều lừng lẫy trong lịch sử dân tộc. Trong số rất nhiều bài thơ của các nhà thơ nổi tiếng viết về Thái Bình có lẽ Huy Cận là một trong rất ít người cảm thấy được cảm thức lịch sử của miền đất phù sa biển mang lại
Chân tôi bước hôm nay mát rợi
Thịt da trần tiếp nối đất non tơ
Tưởng sờ được hạt mầm trần trụi
Của cha ông đã gieo tự bao giờ
Bài hát Nắng ấm quê hương
Tên tuổi nhạc sĩ Vĩnh An cùng bài hát Nắng ấm quê hương được đưa vào Từ điển Thái Bình. Bài hát Nắng ấm quê hương ngọt ngào, tha thiết đã làm say lòng bao thế hệ người Thái Bình suốt hơn 40 năm qua.
“Anh đến quê em một chiều nắng ấm/ Tiếng hát quê hương ru dài theo sóng/ Thái Bình ơi Thái Bình/ Ai đặt tên cho đất, Thái Bình tự bao giờ/ Mà trong nắng trong mưa/ Lúa vẫn lên xanh tốt/ Mà trong bom trong đạn/ Đất vẫn cứ sinh sôi”
Nhạc sĩ Vĩnh An sinh năm 1929 tại Tây Sơn – Bình Định trong một gia đình đam mê nghệ thuật. Tập kết ra Bắc 1954. Sau những năm đổi mới ông đi thực tế sáng tác đến vùng biển Thái Bình và bị thôi miên vì vẻ đẹp dân dã của nó, ông đã mô tả Thái Bình như một cô gái duyên dáng. Mối tình ấy được đền đáp, thành ra một chuyện tình.
“Cho anh về quê mình, cùng làm lúa, cùng làm đay/ Cùng dệt cói, cùng đan mây/ Tay em trổ vàng, tay anh chạm bạc/ Làm giàu cho quê hương/ Hỡi người em gái mà anh yêu thương”.
Có lẽ ngoài cái cốt như một chuyện tình kia vốn là đặc điểm truyền thống của thơ ca nước ta, chẳng hạn cái chuyện tình của đôi trai gái đi xây hồ Kẻ Gỗ mà Nguyễn Văn Tý đã đưa vào bài hát Người đi xây hồ Kẻ Gỗ, bài Nắng ấm quê hương còn có nhạc điệu quyến rũ trong giai điệu của nó tiếng sóng biển Đồng Châu, tiếng gió thổi rừng phi lao réo rắt..
Có lẽ đó là bài hát hay nhất về Thái Bình cho đến hôm nay.
Chuyến tàu dọc sông Hồng
Đất Thái Bình được làm nên bởi sông Hồng cùng cả châu thổ đồng bằng, dòng sông lớn nhất miền Bắc cùng các chi lưu của nó sông Trà Lý, sông Luộc. Từ Thái Bình đi Hà Nội bắt buộc phải qua phà Tân Đệ. Đấy là một cực hình, có khi phải mất nửa ngày mới qua được bờ bên kia nhưng được đặt chân lên đất quê mình đã là cả một niềm hạnh phúc. Thường để về đến Tiền Hải tôi và vợ con phải đi mất hai ngày. Ngày đầu nghỉ ở thị xã thăm em gái, chị con ông bác. Ngày hôm sau mới mới bắt xe Tiền Hải về nhà.
Có một lần khi còn đang là sinh viên tôi đã quyết định đi tàu thủy lên Hà Nội. Mờ sáng đã phải có mặt ở bến tàu gần cầu Bo. Con tàu ngày đó bẩn thỉu và nhếch nhác, dành cho dân buôn bán là chính nhưng với tôi là một chuyến đi thú vị. Một buổi sáng mờ sương. Những âm thanh của một bến phà. Những bến bờ, dòng chi lưu Trà Lý và sông Hồng đã gây cho tôi ấn tượng vô cùng sâu sắc. Những bãi bồi ướt đẫm phù sa, những ngã ba sông nước mênh mông, những mảng bèo trôi, những bãi cỏ dại dập dềnh, những cái phao báo luồng lạch đứng trầm ngâm giữa dòng sông như một triết gia trầm mặc bí hiểm, những người dân chài lưới lam lũ, những bãi đỗ đưa đón người hàng hóa về Hà Nội… Dòng sông như một người đàn bà đầy vẻ phồn thực, căng đầy chất sinh nở với vẻ đẹp hoang dã, tự nhiên. Những cảm hứng này làm cho ta hiểu được cái ý nghĩa của việc dòng sông đã sinh nở ra đồng bằng Bắc Bộ, ra chính Tiền Hải quê tôi.
Lê Bá Thảo, nhà khoa học địa lý có giọng văn rất hay, trong các cuốn sách của ông đã viết về sự sinh thành của đồng bằng châu thổ sông Hồng một cuộc vật lộn dữ dội nhưng âm thầm hàng ngàn năm giữa những người nông dân và biển cả hung dữ như sau:
“Con người thường hay chú ý đến những biểu hiện ồn ào như tiếng gào thét của biển cả hơn là tiếng hát xây dựng âm thầm của đất, thế nhưng họ cần nhớ rằng phần thắng trong cuộc đấu tranh cho bước tiến của châu thổ này lại thuộc về đất, về các dòng sông và về chính sự lao động cần cù của họ nữa.”
Hoa cúc biển
Một trong những vẻ đẹp thiên nhiên tặng cho bờ biển Tiền Hải là hoa cúc biển. Cũng có nhiều bãi biển có hoa cúc biển nhưng có lẽ ấn tượng đầu tiên về vẻ đẹp của loài hoa này tôi có ở trên chính quê hương mình, bãi biển Đồng Châu. Đây là loài hoa cúc giản dị mọc lan trên bãi cát, bờ đê nhưng hoa thì gây ấn tượng mạnh, cánh vàng, nhụy đỏ rực rỡ như một mặt trời con. Mùi thơm hoang dại. Điều quan trọng là nó chỉ đẹp với vẻ hoang dã, nắng gió lồng lộng, bờ đê, bãi cát, rừng phi lao, mặt trời, tiếng sóng biển, tình bạn tuổi thơ cùng nỗi xúc động đầu đời…
Có lẽ một trong những bài thơ đầu tiên tôi viết tặng người bạn gái Vũ Thanh tháng Mười 1968 là viết về hoa cúc biển.
Những ngày thường em vẫn yêu hoa
Đi biển anh mang hoa về cửa sổ
Đêm trong mơ hương vào giấc ngủ
Ngỡ em vừa mới ghé thăm qua.
Tháng 11 năm 1972 khi đang ở chiến trường Cánh Đồng Chum tôi lại viết cho Bích Hoàn:
Vùng quê em trung du
Anh từng yêu nhiều lắm
Những đồi mua cháy nắng
Những đồi sim chín hồng.
Giờ ở xa chiến trường
Anh nghe em nhắc đến
Mới yêu hết quê mình
Một nhành hoa cúc biển.
Một người bạn gái nữa là Minh Thái khi về quê tôi cũng đã choáng ngợp vì vẻ đẹp của hoa cúc biển Đồng Châu. Đến giờ tôi vẫn còn giữ mấy dòng ghi vội của Minh Thái trong cuốn sổ tay của tôi.
Năm 1989 tôi viết cho Minh Trang, người vợ đang công tác ở Cộng hòa Liên bang Đức:
Tháng Tư ta lại về với biển
Sóng vỗ như là nhắc gợi em
Đang ở xứ người xa tuyết trắng
Cúc biển một chùm hái đợi em
Giọng văn Thái Bình
Đầu năm nay, bị ốm phải nằm viện nhiều ngày tôi mới mang hai cuốn tùy văn Chân mây và Hoa Khởi trinh của Nguyễn Linh Khiếu mới cho ra đọc. Tôi đã đọc hết cả hai cuốn với niềm hứng thú về những kỷ niệm tuổi thơ một thời đã rất xa ở vùng quê tôi. Phải nói rằng Linh Khiếu rất yêu quê mình và có biệt tài giữ được hơi ấm của ký ức. Tôi nghĩ những người làm văn chương Thái Bình cũng có vẻ đẹp chung như Linh Khiếu, đậm chất Thái Bình. Điều đó có thể tìm thấy ở Vũ Bão, Chu Văn, Nguyễn Thành Phong, ở Bùi Việt Mỹ, ở Dương Hướng, ở Bùi Việt Phong, ở Quang Khải, Trần Anh Thái… Đó là điều các nhà phê bình có thể làm sáng tỏ hơn. Nhưng nói vậy thôi, diễn tả cảm xúc lên trang giấy là điều cực khó. Nhất là cảm xúc về bản năng tình yêu quê hương của những người đã sinh ra từ đồng đất và lớn lên cùng đồng đất. Chẳng hạn tôi cứ ám ảnh mãi về cái câu kết của truyện ngắn Tháng Ba thương mến của Trần Văn Thước.
Còn hai ngày nữa là hết tháng Ba. Tháng Ba thương mến ơi!
Đó là tiếng gọi về tháng Ba của một vùng quê. Một vùng quê Thái Bình.
Hoặc đoạn thơ của Bùi Việt Phong:
Đến thị trấn có những cây dâu da hoa trắng suốt đầu mùa hạ
Theo dòng sông Lê cứ thẳng mà đi
Hương lúa đến mà không hề báo trước
Có gì làm ta cay nơi mắt
Phía trái tim ta
Phía ấy là làng
Tôi đã có ấn tượng và đã tham khảo nhiều người về đặc điểm người Thái Bình. Đó là đặc điểm nổi bật ở tính cách Thái Bình: Đổi mới, đi tìm cái mới của thời đại. Đó là Bùi Viện, Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Đặng Kim Giang, Trần Độ, Dương Thu Hương…
Người Thái Bình chẳng đã làm nên phong trào cách mạng nông dân ở hai thời đại: 1930 và 1997.
Cố hương
Làng tôi là một cái làng không tên tuổi. Đúng là thế, nó nhỏ bé, không có tiếng tăm về lịch sử. Nó có một cái tên yên bình: Vĩnh Ninh, chỉ ra đời cùng với những làng do Nguyễn Công Trứ lập nên ở Tiền Hải chưa đầy 200 năm nay.
Con đường lầy lội ngày mưa, chen chúc vết chân trần người già và con trẻ, như trang tự dạng của làng. Con đường vương vít tơ hồng, dứa dại, đài bi. Hoa cỏ bà nàng vàng như bông cúc nhỏ. Thoang thoảng hương hoa khoai nước đêm hè.
Con đường làng tưởng đã lãng quên nhưng luôn ám ảnh, mỗi khi tôi đến một vùng quê. Con đường làng từ đấy tôi ra đi. Thèm khát mãi một bầu trời miền biển, một cánh đồng buổi sáng thanh bình.
Tôi có mấy người bạn thành phố và đã từng mải mê vẻ sang trọng của họ, suýt đánh mất mình. Nhưng họ lại bảo tôi: Chúng tôi yêu bạn vì bạn là đứa con của đồng quê…
Tôi đã đến nhiều nơi, núi cao, rừng sâu và biển lạ. Tôi đã đắm mình vào cuộc sống thị thành, những ước vọng bon chen, thất vọng, đau khổ vì phản bội, lọc lừa. Mỗi khi tuyệt vọng tôi bỗng nhớ ra còn một miền quê, một mái nhà nghèo, một cái làng không tên tuổi.
Đấy là nơi lại đón tôi về…
Hương vị quê hương
Chúng tôi đóng quân tại bãi bằng ở đầu cầu sông Nậm Tiền, cách Bản Ban, một thị trấn của Xiêng khoảng khoảng mười lăm cây số. Phía bên trong là núi và rừng, vài con suối nhỏ. Những lúc không phải trực ban chúng tôi thường lần vào những con suối đó bắt cá, kiếm rau dại và nấm về cải thiện bữa ăn. Một trong những loại rau mà tôi thích là rau cần dại, mọc nhiều hai bên bờ suối.
Có ai trồng đâu mà lan kín lòng suối khô
Nấu với nấm xuýt xoa khen ngọt lắm
Bưng bát canh mùi thơm đăng đắng
Lại nghe ồn ào phiên chợ biển quê.
Nhà cũ
Như ở đoạn trên đã nói, nhà cũ của tôi ở góc phía Đông đầu làng Vĩnh Ninh, một mặt đường huyện nối các xã ven biển phía Đông huyện với các xã phía Tây. Mặt nữa là đường làng từ cuối làng lên đường huyện để lên làng Đại Hữu phía Nam xã. Do vị trí như thế nhà tôi như là một cái trạm thông tin của làng. Người làng hay ghé nhà tôi trước khi ra đồng, nói vài ba câu chuyện, uống bát nước chè xanh mẹ tôi đã nấu sẵn đãi khách. So với các em, tôi ở nhà cũ nhiều hơn, từ lúc sinh ra 1949 tới khi chuyển vào thôn Lạc Thành Nam cùng xã hơn 30 năm. Lý do chuyển vì người ta làm con kênh dẫn nước từ trạm bơm An Ninh về phía đông huyện đi qua đầu làng tôi. Thành ra gần như cả chi họ tôi ở dải đầu làng đều phải di chuyển hết. Đối với làng mới chúng tôi thành ra dân ngụ cư, đều phải ở vào những khu đất rìa làng hoặc còn thừa không có người ở.
Thế mà cơ ngơi của ông nội tôi để lại cho hai người con trai là mỗi người một căn nhà 7 gian làm bằng gạch Bát Tràng và cột gỗ kê đá tảng, bức bàn gỗ quây hai bên một cái sân gạch mênh mông, nhảy lò cò đến mỏi chân. Quân xưởng Khu Ba trong kháng chiến chống Pháp và Đại đội ra đa 25 thời chống Mỹ đã từng đóng ở nhà tôi. Bây giờ khu nhà đó đã biến mất.
Tuy đã ở làng mới gần nửa thế kỷ tôi vẫn giữ nguyên những kỷ niệm thời thơ ấu và thanh niên ở làng cũ. Những thửa ruộng cũ của nhà tôi, con trâu của nhà tôi trước khi thành ra tài sản chung của hợp tác xã, những con chó, con mèo nhà tôi, những con ngòi, con sông, cầu ao, đập đá, những xóm trại, những người họ hàng bị điên, đình làng, văn chỉ, nhà thờ họ cũ, ngôi mộ tổ tứ đại trong vườn…
Dù sao mảnh đất ấy đã sinh ra tôi, một người học giỏi nổi tiếng ở Thái Bình đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ba lần tặng Giải thưởng học sinh giỏi toàn diện. Có lúc hai anh em, tôi và anh Thái Văn Thấu con bác tôi cùng học Đại học Tổng hợp thời chiến tranh sơ tán ở Đại Từ Thái Nguyên, một người học Văn, một người học Toán.
Nhà văn Thái Bình ở Sài Gòn trước 1975
Thái Bình có một số nhà văn nổi tiếng ở Sài Gòn trước 1975:
Nhà văn Duyên Anh
Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, ông còn dùng những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ và Độc Ngữ.
Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông học tiểu học và trung học ở Thái Bình và Hà Nội.
1945, chứng kiến cảnh chết đói tháng ba Ất Dậu, cảnh Nhật đảo chánh Pháp rồi cuộc tổng khởi nghĩa, như bao nhiêu đứa trẻ lớn lên trong cao trào cách mạng, Duyên Anh đã là một nhi đồng chống Pháp, biết thù hận Pháp gây chiến ở Nam Bộ và đã tham gia cách mạng một cách hồn nhiên, phấn khởi. Những cuốn truyện Thằng Vũ, Thằng Côn, Con Thúy đã làm sống lại giai đoạn lịch sử này với những nhân vật thuộc lứa tuổi của chính Duyên Anh thời bấy giờ (lên 9, lên 10…) đã sống, đã cảm nhận bằng tất cả tâm hồn ngây thơ trong suốt. 1946, khi Pháp gây chiến ở Hà Nội, Duyên Anh tản cư về Tiền Hải và theo học trường huyện.
1947, đậu Sơ học bổ túc và học Thành Chung ở Trình Phố thuộc Kiến Xương (quê hương của Trương Quỳnh Như).
1948, về quê nhà ở Trường An. Trốn nhà đi làm liên lạc viên cho bộ đội một năm. Sau đó lại trở về Trường An.
1949, Pháp chiếm Thái Bình. Hồi cư về thị xã. Chứng kiến cảnh càn quét của lính viễn chinh Pháp. Học trung học tỉnh.
1952, lên Hà Nội, học Trung học đệ nhị cấp, Duyên Anh học đến năm 1954 thì vào Nam sau khi đã trở về Thái Bình sống ba tháng trong bầu không khí giải phóng tiếp thu. Ông di cư vào Sài Gòn một mình. Chính trong giai đoạn này, Duyên Anh bỏ học vì không được ai chu cấp.
Ông từng làm đủ nghề: bán thuốc sơn đông mãi võ, theo đoàn cải lương lưu diễn, quảng cáo cho gánh xiếc rong, giữ xe đạp hội chợ, dạy kèm, dạy đàn ghi ta, dạy sáo.
Năm 1960, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa thiên lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng Côn, Thằng Vũ, Con Thúy… viết về những kỷ niệm ấu thơ tại miền quê Bắc Việt, giọng văn tha thiết, nhẹ nhàng và tình cảm.
Sau đó ông trở thành một ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốc nhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc…
Có một dạo, Duyên Anh thường viết về giới giang hồ, bụi đời trong xã hội trước năm 1975. Trong tác phẩm của Duyên Anh ca ngợi lối sống phóng khoáng, bất cần đời của giới trẻ bị bế tắc trong cuộc sống. Tuy nhiên vẫn thấm đậm một tính cách nghĩa khí và các nhân vật của Duyên Anh đều sẵn sàng chết vì tình nghĩa và chữ tín của mình.
Ngày 8 tháng 4 năm 1976, Duyên Anh bị bắt đi tù cải tạo. Sau khi ra khỏi trại cải tạo vào tháng 11 năm 1981 ông vượt biên đến Malaysia. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở hải ngoại được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi Fanta, Một người Nga ở Sài Gòn. Ngày 6 tháng 2 năm 1997, Duyên Anh mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp.
Công bằng mà nói Duyên Anh có nhiều tác phẩm hấp dẫn về thiếu nhi và sâu sắc về quê hương Thái Bình.
Vùng quê hương đó đã được dựng lại, đẹp hơn bao giờ hết, trong bộ trường thiên tiểu thuyết mang tên Vẻ buồn tỉnh lỵ.
Ông đã theo học nhiều trường. Những năm tiểu học, ông không học hết niên học ở một trường nào vì cứ phải đổi trường theo sự xê dịch của cha. Chỉ có năm lớp Ba (Élémentaire), năm 1942, ông mới được học trọn niên khóa ở trường Phụ Dực. Những ngày ở đây đã để lại nhiều kỷ niệm, những kỷ niệm bàng bạc trong các truyện ngắn đầu tay của ông (Khúc rẽ cuộc đời, Hoa thiên lý) trong các tác phẩm tự thuật (Trường cũ) cũng như trong nhiều tác phẩm viết ở ngôi thứ ba (Vẻ buồn tỉnh lỵ, Tuổi mười ba…). Nếu mỗi người viết văn đều đã trải qua một đoạn đời hay một kinh nghiệm nền tảng mai đây không ngừng ám ảnh có thể nói rằng thơ ấu sống trong khung cảnh buồn thiu của tỉnh lỵ chính là hình ảnh đậm đà nhất, thân mật nhất của tác phẩm cũng như của tâm hồn Duyên Anh.
“Năm sau tôi bỏ trường Bà Sơ. Nhưng vừa học trường tiểu học thị xã được hai tháng thì nhà tôi dọn về huyện lỵ Phụ Dực. Huyện lỵ thật nghèo nàn. Quanh thành quan huyện, dây bìm leo kín. Những mái nhà tranh, những ngọn đèn dầu và tiếng trống trên chòi canh buồn làm sao ấy. Ngôi trường huyện của tôi buồn hơn.”
Đời sống huyện lỵ thật nghèo nàn và nhất là thật buồn tẻ đã tạo cho ông một bối cảnh, một màu sắc tâm hồn. Đời sống đó, vẻ buồn đó đã dạy cho ông những bài học mơ mộng đầu tiên, những bài học mai đây còn tiếp tục in sâu vào tâm hồn ông, còn tiếp tục bàng bạc trong tác phẩm ông, một cách nào đó, nó mở ra cho ông những cánh cửa, những chân trời. Vẻ buồn tỉnh lỵ đã cống hiến cho người đọc những trang sách đẹp nhất của Duyên Anh, những trang sách làm sống lại một vùng trời quê hương quen thuộc, một đoạn đời với những giấc mơ và những rung động tuyệt vời của tâm hồn tuổi nhỏ:
“Mùa hạ năm nay thật buồn tẻ. Hoa phượng vẫn nở… nhưng màu hoa không rực rỡ. Tại học trò đã nghỉ học trước hè, nghỉ từ tháng ba chết đói. Loài ve sầu rên rỉ mỏi miệng cũng chẳng ai thèm cảm xúc. Có lẽ mùa hạ sang năm sẽ buồn tẻ hơn. Côn hồi tưởng những mùa hè năm xưa mà thương tiếc”.
“Hai đứa trẻ mong đợi thầy chúng nó trở về Thái, Thầy chúng, chắc chắn, sẽ chở về những mộng ước ấp đầy những con mắt chúng. Hai đứa trẻ thị xã không muốn âm thầm sống trong cái đai bình thản. Nó muốn thoát ra. Nỗi thèm khát của chúng bộc lộ rõ rệt. Bây giờ mới đúng lúc khung cảnh buồn nản của tỉnh lỵ không thích hợp với chúng nó”.
Trong khi Duyên Anh sống ở miền Nam thì bố mẹ ông và các em gái ở lại Hà Nội. Nhà văn Trần Kim Thành là bạn học của ông. Tôi cũng biết láng máng rằng nhà văn Đỗ Kim Cuông cũng có họ hàng với ông.
Nhà thơ Phạm Thiên Thư
Phạm Thiên Thư sinh tại Lạc Viên, Hải Phòng trong một gia đình Đông y. Năm 1943-1951, ông sống ở trang trại Đá Trắng, Chi Ngãi, Hải Dương. Năm 1954 cho đến nay, ông cư ngụ ở Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh). Tôi được biết Phạm Thiên Thư có quê gốc ở xã Vân Trường huyện Tiền Hải cũ. Bố ông đã rời quê ra Hải Phòng sinh sống.
Từ 1964-1973, ông là tu sĩ Phật giáo, làm thơ. Trong năm 1973, ông đoạt giải nhất văn chương toàn quốc với tác phẩm Hậu truyện Kiều – Đoạn trường vô thanh.
Nhà thơ họ Phạm này tuy xuất hiện khá muộn (1968), nhưng cũng đã đóng góp vào văn học khá nhiều tác phẩm, đặc biệt là những thi phẩm ở dạng khá độc đáo: thơ đạo! Một trong những tác phẩm ấy của Phạm Thiên Thư đã được giải thưởng Văn học toàn quốc (Việt Nam Cộng Hoà) vào năm 1973 (tác phẩm Đoạn trường vô thanh). Một số thơ của ông được phổ thành ca khúc đã mang lại một số đông công chúng yêu thích thơ ông: Em lễ chùa này, Ngày xưa Hoàng Thị, Động hoa vàng, Gọi em là đóa hoa sầu… Riêng hai bài hát Ngày xưa Hoàng Thị và Đưa em tìm động hoa vàng được Phạm Duy phổ nhạc rất được ưa thích ở miền Nam. Tôi cho là Ngày xưa Hoàng Thị là bài hát hay nhất về tình yêu tuổi học trò.
Thơ Phạm Thiên Thư cứ vấn vít nửa đời nửa đạo thật khác thường, làm cho độc giả ngẩn ngơ, bất ngờ… Thế giới thi ca Phạm Thiên Thư giúp chúng ta khám phá thêm những cửa ngõ mới lạ, phong phú về tôn giáo, tình yêu và thiên nhiên.
Nhà văn Nguyễn Thụy Long
Nhà văn Nguyễn Thụy Long sinh ngày 09/08/1938 tại Hà Nội. Có nhiều nguồn viết ông có quê ở Thái Bình
Năm 1952, ông và gia đình vào Nam sinh sống tại Sài Gòn.
Cựu học sinh trường trung học Hồ Ngọc Cẩn.
Sinh viên Trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định.
Cộng tác báo Ngàn Khơi với nhà văn Nhã Ca, nhật báo Sống của nhà văn Chu Tử.
Trước 1975, ông xuất bản hơn 30 tác phẩm, tiểu thuyết đầu tay có tên Vác ngà voi (1965), với bút hiệu Lan Giao. Các tác phẩm sau đều lấy tên thật Nguyễn Thụy Long.
Ngoài hơn 30 tác phẩm xuất bản, Nguyễn Thụy Long còn cả trăm truyện ngắn và những tác phẩm sáng tác sau này.
Tiểu thuyết Loan Mắt Nhung gây xao động từ tác phẩm, được chuyển thành phim Loan Mắt Nhung do đạo diễn Lê Dân dàn dựng năm 1970. Những tiểu thuyết có tên tuổi khác như Kênh nước đen,…
Năm 2005, ông được phát giải Văn chương toàn sự nghiệp do Nguyệt san Khởi Hành (Mỹ) trao tặng.
Ông mất ngày 03/09/2009, lúc 14 giờ tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Nhà văn Văn Quang
Văn Quang là bút hiệu của nhà văn Nguyễn Quang Tuyến (21 tháng 9 năm 1933 – 15 tháng 3 năm 2022). Ông sinh ở làng An Hiệp hu,yện Quỳnh Côi, Thái Bình.
Văn Quang gia nhập Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tốt nghiệp khoá sĩ quan trừ bị Trường Bộ binh Thủ Đức rồi làm việc cho Cục Tâm lý chiến, cấp Trung tá. Ông từng làm quản đốc Đài Phát thanh Quân đội Việt Nam Cộng hòa và giám đốc tờ báo Quân đội, sau đổi thành Chiến sĩ Cộng Hòa.
Đóng góp lớn nhất của ông là các tác phẩm văn chương. Trong số những tiểu thuyết của Văn Quang, có bốn tác phẩm được quay thành phim. Chân trời tím được Quốc Phong chủ hãng Liên Ảnh chọn quay. Hùng Cường và Kim Vui thủ diễn hai vai chính trong phim Chân trời tím với bài Nửa hồn thương đau của Phạm Đình Chương do Thái Thanh hát. Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã lấy nguồn cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết này để sáng tác nhạc phẩm Chân trời tím cùng tên.
Ngàn năm mây bay thì do Thái Lai phim thực hiện với Hoàng Anh Tuấn làm đạo diễn và sĩ quan quân đội Phạm Huấn thủ diễn.
Phim thứ ba là Đời chưa trang điểm của hãng phim Giao Chỉ do ông Hoàng Vĩnh Lộc đạo diễn.
Cuối cùng là phim Tiếng hát học trò do Thái Thúc Nha của hãng Alpha thực hiện, Thanh Lan diễn vai chính.
Sau năm 1975 ông bị bắt giam hơn 12 năm cải tạo trước khi được thả. Tuy không cầm bút như trước năm 1975 ông tiếp tục sáng tác với loạt phóng sự Lẩm cẩm Sài Gòn thiên hạ sự và Lên đời được phát hành trên báo chí và radio tiếng Việt ở hải ngoại.
Năm 2009 ông được tạp chí Khởi Hành ở California trao tặng “Giải Văn chương Toàn Sự nghiệp Khởi Hành 2009”.
Ông mất ngày 15 tháng 3 năm 2022 tại nhà riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, hưởng thọ 90 tuổi. (Theo https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_Quang)
Nguyễn Khắc Ngữ
Nguyễn Khắc Ngữ sinh năm 1935 tại Duyên Hà, Thái Bình, gọi nhà văn hóa Nguyễn Đức Quỳnh bằng cậu, học trung học Lê Quí Đôn tại tỉnh nhà, di cư vào Nam năm 1954, nhập ngũ khóa 21 sĩ quan trừ bị Thủ Đức, ra trường phục vụ trong binh chủng Không Quân. Ngày 30 tháng 4, 1975 rời Việt Nam, định cư tại Montreal, Canada và lập gia đình tại đây, có một con trai. Ông mất vì ung thư dạ dày năm 1992.
Từ cuối thập niên ’50, chàng trai Thái Bình viết truyện ngắn Dưới bóng hoàng lan, viết kịch Hỏa ngục, và cũng viết những bài nghiên cứu về ngôn ngữ Chàm, về Văn hóa Óc Eo, Phù Nam. Tới thập niên ’70 ông chú trọng hơn về Mỹ thuật Văn hóa Dân tộc, đã xuất bản Kỹ thuật và mỹ thuật tranh mộc bản Việt Nam, nghiêng qua cả chính trị và các đảng phái quốc gia.
Nguyễn Khắc Ngữ thường ký tên thật, tuy đôi khi viết bằng bút hiệu Vũ Lang, viết trên những tờ báo Thanh Niên, Đất Nước, Trình Bầy, hay báo Khảo cổ học, Sử Địa. Ông tốt nghiệp Cao học Sử, giáo sư Sử học tại Đại học Sư phạm Sài Gòn, có thời gian làm phụ tá khoa trưởng Đại học Kinh tế Thương mại Minh Đức. Sự đóng góp của ông cho học thuật Việt Nam không phải nhỏ, với khoảng gần 20 đầu sách đủ loại, đa số là sách Sử, Địa, Khảo cổ học và cả Nhân chủng học. Sự ra đi của ông không những là một mất mát riêng cho gia đình, bạn hữu, mà còn làm cho Nhóm Nghiên Cứu Sử Địa Việt Nam mất đi một động lực chính yếu, và một thiệt hại đáng kể cho sinh hoạt văn hóa Việt Nam ở hải ngoại.
May thay Nguyễn Khắc Ngữ đã để lại một tác phẩm quan trọng và giá trị: Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, cuốn sách nóng hổi về tháng 4, 1975.
Ông đã tạ thế vào ngày 23 tháng 12 năm 2009, Paris, Pháp quốc, hưởng thọ 81 tuổi.
Mối tình đầu
Tôi trọ học năm lớp 10 ở xóm Hoàng Tân vốn là huyện lị của Tiền Hải từ những năm đầu thế kỷ 20. Vụ nông dânTiền Hải đấu tranh, biểu tình 1930 và bị đàn áp ở đây. Sau này do thời thế, huyện lị chuyển đi chỗ khác. Công đường thành bãi đất hoang tàn. Còn lại một đoạn phố cổ lát đá phiến nối ra một cái hồ có đền thờ Nguyễn Công Trứ ở giữa, một cây gạo to, hai cây phượng già ở góc hồ giáp đầu đường nở hoa đỏ rực mỗi lúc hè về. Học sinh các lớp học cấp 2, cấp 3 hay kéo nhau ra chụp ảnh kỷ niệm. Tôi có một người bạn gái nhà ở trong xóm này. Cả hai cùng được xếp vào Khoa Lý Đại học Tổng hợp Hà Nội. Rồi tôi chuyển sang Khoa Văn. Tôi đi bộ đội. Tình bạn tan vỡ. Vì một lý do bạn đã mất tháng 8-1972. Bài thơ
GIẤC MƠ
Em lại trở về
Trên con đường cát nhỏ ven hồ
Có cây phượng già lớp mình chụp ảnh ngày chia tay hết cấp
Một cây gạo hoa đỏ rụng đầy gốc mỗi tháng Ba.
Em vẫn trẻ con như cái ngày ấy
Nhảy lò cò trên những phiến đá xanh
Em chỉ khóc
Và cuối cùng em hỏi
Tại sao ngày ấy chúng ta bỏ nhau
Rồi bỏ đi mãi mãi
Câu hỏi bao năm nhói vào tim anh
Tại sao ngày ấy chúng ta bỏ nhau
Em lại trở về
Em chỉ khóc
Nếu như bây giờ
Ta có thể rời bỏ được những cố chấp ngây thơ
Nhưng em mãi mãi trẻ con…
Mộ tổ
Cụ Thái Văn Vinh thủy tổ họ tôi trong gia phả chỉ ghi là từ Nam Đàn Nghệ An ra dạy học ở thôn An Khang xã Tây An Tiền Hải rồi ở lại lập nên họ Thái Tiền Hải. An Khang là làng cổ, khi Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ khai lập Tiền Hải, An Khang là làng cựu, đời thứ năm họ Thái là cụ Thái Nhung được cử ra tham gia lập làng mới Vĩnh Ninh, làm lý trưởng. Một cái làng như hiện nay bình yên thật sự nhưng trong quá khứ của nó chứa chất bao sự tranh chấp, hằn thù. Cụ nội tôi đẻ được ba người con trai chiếm cả một dải đầu làng. Ba ông con cụ đẻ được gần chục người con trai nữa trong đó có bố tôi. Cộng với số đinh họ Thái cùng lứa trong làng họ làm nên một phe cánh mạnh, người các họ khác không dễ bắt nạt. Vì thế trong làng có câu ngạn ngữ: Con giai họ Thái, con gái họ Hồ. Họ Hồ cũng là một họ lớn có nhiều nhà giàu, nhiều con gái đẹp. Bá tôi có lần kể với tôi rằng ngày xưa đây là rừng mọc trên cồn cát khai phá vất vả lắm. Các cụ bảo đêm trăng là thấy lợn rừng và chồn cáo chạy trước cửa nhà. Đầu làng còn phải chống lại trộm và cướp nữa, nó vào bắt lợn, gà, dắt cả trâu bò… Tôi cũng biết có năm gần tết, trộm bắt hết cả chuồng gà. Để chống trộm bố tôi vẫn giữ thói quen từ các cụ là chuẩn vị hàng tối mấy bị cói gạch vỡ để ngoài hè. Đêm thấy chó cắn về hướng vườn nào là bố tôi dậy ném gạch về phía đó. Tôi cũng được chứng kiến vài ba vụ giết người vì cờ bạc, vài vụ các dòng họ đánh nhau.
Cụ Thái Văn Thanh, tổ đời thứ 3 của dòng họ Thái gốc Mạc Tiền Hải dạy học ở Phương Công. Khi mất cụ được môn sinh hai họ Phạm, họ Trần giữ lại làm đám ma rồi an táng tại địa phương. Môn sinh hai họ luân phiên cúng giỗ cụ cho tới đầu chiến tranh phá hoại của Mỹ lan đến. Họ tôi quyết định đưa mộ cụ về nghĩa trang dòng họ. Ngôi mộ đã to như một quả đồi nhỏ tại đất nhà ông trưởng tộc họ Phạm nhưng cả hai họ đào hàng chục ngày trời mà không thấy tiểu của cụ. Hài cốt của cụ đã bị lấy trộm, không biết lấy để làm gì.
Mãi sau mấy năm chú Minh em tôi cư trú ở Hải phòng đi xem một cô đồng mới biết được mộ cụ Thái Văn Thanh vẫn còn nhưng nằm ngoài nghĩa trang ngoài bờ sông. Qua cô đồng cụ chỉ cách đi từ địa điểm cũ qua đình làng, chùa làng ra cánh đồng. Mộ to tròn có cây quýt gai bên trên, nằm cuối nghĩa trang họ Trần nhưng ở góc ngoài tường vây, giữa góc ba khu mộ họ khác. Ngôi mộ được chăm sóc chu đáo. Khi chúng tôi đốt vàng, thắp hương nhận mộ có vài người con cháu họ Trần ra bảo là đấy là mộ tổ của họ. Dân làng thì bảo họ này vẫn nói họ có ngôi mộ tổ thiêng lắm luôn phù hộ cho con cháu họ. Thì ra thế, con cháu môn sinh họ Trần đã đào trộm mộ cụ Thanh về làm của riêng của họ nhưng không dám nhập vào nghĩa trang họ. Sau vài lần tranh chấp rồi con cháu họ Trần cũng rút lui. Mặc nhiên từ đó họ tôi cúng lễ mộ cụ bình thường. Qua cô đồng cụ lại nói: Ở đây phong thủy cũng tốt rồi, không cần phải đưa cụ về nghĩa trang họ nữa.
Bạn cũ
Tôi có nhiều bạn, trong mười năm học cấp 1, cấp 2 rồi cấp 3, trong các đợt tập trung luyện thi học sinh giỏi miền Bắc. Thế nhưng Thái Bình là nơi lấy học sinh đi bộ đội rất nhiều và số hy sinh cũng không ít. Chẳng hạn xã Tây Ninh của tôi, cả một tổ hơn chục người giờ chỉ còn hai người. Tôi và Bùi Văn Phòng. Làng tôi có bốn người nay chỉ còn tôi, ba người Hồ Tam Năm, Thái Văn Thoái, Trương Văn Kha là liệt sỹ. Nếu tính cả số rơi rụng sớm thì còn nhiều nữa. Tôi đã rơi vào trạng thái cô đơn mỗi khi về quê vì không còn người bạn thân thiết nào. Tất nhiên tại Hà Nội cũng chỉ còn một người bạn cùng lớp là Tô Văn Nam, dạy Toán ở Đại học Bách khoa.
Nhà ông ngoại
Tôi không có quê ngoại, bởi vì quê ngoại để gọi nơi nhà ông ngoại sinh sống. Nhà tôi thưởng lấy Riêm Trì thuộc xã Tây Giang làm quê ngoại là làng của bà ngoại tôi. Trong tuổi ấu thơ những cuộc đi về thăm viếng quê ngoại thường chỉ xảy ra vào dịp lễ tết, cúng giỗ. Một chuyến đi hơi xa, thường khoảng bốn năm cây số, qua nhiều khung cảnh lạ, được đón tiếp nồng nhiệt thật là thú vị đối với một đứa trẻ. Còn nhà ông ngoại tôi thì ngay sát nhà ông nội, cách nhau một vài cây mít cổ, một đoạn tre dầm, khóm mây. Sau khi bố mẹ tôi lấy nhau thì đoạn bờ tre đó được phá đi làm lối đi chung cho hai nhà. Tôi cũng không có khái niệm quê nội, quê ngoại nữa, bởi vì tôi cũng hay sinh hoạt bên nhà ông ngoại, xem ông cúng lễ, vót nan tre đan thúng mủng, học bài, tối rét thì ngủ với ông hoặc bà. Nửa trên nhà ông nội tôi bị cắt đứt vì bác bá tôi bị quy oan địa chủ. Căn nhà bảy gian của bác bị chia cho hai, ba hộ bần cố nông gì đó. Cái sân gạch rộng lớn, nhà tôi còn một phần ba bị ngăn bằng dây thép gai. Cả nhà bác tôi phải dọn xuống bếp ở. Khi đó ba anh chị con bác đều đang học cấp hai. Cho đến hôm nay đã gần 80 tuổi tôi vẫn còn nhớ anh em tôi có cho nhau nắm xôi, miếng bánh, quả chuối đều phải đút qua hàng rào dây thép gai đó. Có lần lớp học vỡ lòng ở nhà tôi ra chơi học nhảy lòng vòng quanh sân xảy ra tai nạn, một bạn ngã và hàng rào bị dây thép gai đâm chảy tóe máu.
Xin nói thêm một chút ông ngoại tôi là Chánh hội bị quy phú nông cũng vào loại giàu có trong làng, vườn trước, vườn sau, hai vườn chè, hàng chục gốc mít cổ, trầu cau, na quả, ao trước, ao sau… Ông có hai bà. Bà cả được năm bá, Ông lấy bà hai đẻ được bốn người, mẹ tôi là cả, hai cậu và dì út. Chỉ có mẹ tôi là không được đi học. Cậu Trứ đi học Sư phạm trung cấp trung ương ở Quế Lâm Trung Quốc từ năm 1951. Cậu Mỹ thứ hai học sư phạm Hải Dương 1953. Dì Nhung út học Sư phạm trung cấp Thái Bình.
Nhà ông nội tôi có một gian chái phía Nam làm điện thờ và để sách vở của các cậu dì tôi. Đó là một không gian mờ ảo thần bí lúc nào cũng thoảng mùi hương trầm, mùi khói nến. Ông ngoại tôi là thầy cúng nổi tiếng trong vùng. Ông bắt quyết giỏi, có âm binh, gọi được đạo tràng. Khi ông mất sau cải cách ruộng đất điện và đồ cúng của ông bàn giao cho hai người giúp ông ở xã miền Đông là ông Tụng và ông Hoán. Con cháu của ông sau này có mang một ít nghề học được của ông ra hành nghề như xem tử vi, phong thủy, cúng bái thường nhật… Tôi có lấy vài cuốn sách chữ Nho của ông để làm diều. Những gương mặt người với những dấu chấm, phẩy, những vòng tròn nhỏ sau này tôi mới hiểu đó là hình tướng số.
Còn trong số sách của các cậu dì, có nhiều sách tiếng Pháp, văn học tiếng Việt, sách chép thơ sưu tầm, thơ của cậu Mỹ cùng phác thảo tiểu thuyết của ông còn dang dở. Trong sổ thơ tôi còn nhứ những câu thơ của Pushkin do Tế Hanh dịch như:
Em ơi! Em đừng hát
Những tiếng hát Gruzi
Vị chua cay nhắc lại
Một bờ bên kia, một đời bên kia
Nghe giọng em ta nhớ
Một đêm trên cánh đồng
Dưới ánh trăng trong
Một người con gái xa xăm đau khổ
Cái bóng ấy đáng thương và bất hạnh
Mỗi lần thấy em ta quên đi
Nhưng khi nghe tiếng em hát
Hình ảnh kia lại về
Em ơi! Em đừng hát
Những tiếng hát Gruzi
Vị chua cay nhắc lại
Một bờ bên kia, một đời bên kia
Hoặc bài Tự do của Paul Éluard:
Trên quyển vở nhà trường
Trên án viết thân cây
Trên cát trên tuyết
Ta viết tên em
Từ những năm học cấp I tôi vừa bế các em vừa đọc ngấu nghiến các bộ tiểu thuyết văn học cổ điển thế giới của cậu, có cả những tờ báo Nhân văn, Giai phẩm, Văn, Văn học của cậu. Sau này khi cậu lập gia đình, con cái, những va chạm với cấp quản lí ngành giáo dục đã làm cậu từ bỏ mộng văn chương.
Có lẽ tình yêu văn học của cậu là ngọn lửa đầu tiên thắp sáng thiên tư của tôi.
Nhưng thú vị nhất là những cuốn sách giáo khoa lịch sử, địa lí của dì út đã hấp dẫn tôi với những sự tích, những miền đất xa lạ, những hình vẽ minh họa về Hy Lạp, La Mã, Babylon cổ đại… Dù lúc ấy tôi chưa đi học phổ thông nhưng những trang sách đầu đời đã đánh thức niềm khát khao mãnh liệt về tri thức của tôi.
Tháng 8-2025