Nguyễn Khắc Dương – Đức tin Công giáo và lãng tử trần gian

Công Nguyễn

Đã lâu lắm, tôi mới đọc một mạch hết một tập sách như tập Hồi ức của Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương đây (350 trang, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2020).

Tập sách như tự truyện của một người suốt đời “đi tìm chính mình”, đồng thời cũng là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” của một Kitô hữu dâng lòng tri ân lên Thiên Chúa.

Không hẹn mà gặp, tập sách đến với tôi trong những tháng ngày “trống rỗng” – mang mang cảm giác của chàng triết gia Đan Mạch Søren Kierkegaard trong bữa kia thuở nọ năm nào: “bất lực khi đi tìm một trung tâm hay tiêu điểm nào đó cho cuộc sống của mình”, tâm tư xuống, lên, trập trồi câu hỏi: “làm sao ban cho cho cuộc đời mình một ý nghĩa?”. Bỗng nhớ lời nhắc nhở của Nietzsche, rằng: “không có chân lý hay giá trị tuyệt đối, chỉ có những viễn cảnh và cách thế sáng tạo giúp chúng ta đối phó với cuộc sống”. Vậy thì “thông dự” vào những trang Hồi ức của Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương cũng là việc làm của một trong những “cách thế sáng tạo” giúp tôi “đối phó với cuộc sống” trong những tháng ngày dài.

Tập sách được viết bởi một bậc trí thức uyên bác, đã từng tốt nghiệp Cử nhân triết tại Đại học Sorbonne, nguyên là Giáo sư – Trưởng ban Triết, Khoa trưởng Đại học Văn khoa, Viện Đại học Đà Lạt. Lời lẽ kể chuyện quá đỗi mộc mạc, chân thực, gần gũi, thân tình. Đây là lời của một “đứa con” quê hương hơn 30 năm phong trần lưu lạc, xa cách, nay trở về, kể chuyện mình với bạn bè, anh em, bà con, chòm xóm. Đây cũng là lời của một tín hữu Kitô, đứa con của Chúa (nhận lễ rửa tội vào ngày 09-01-1949, tại Thánh đường Xứ Nghĩa Yên, Đức Thọ, Hà Tĩnh) xem tất cả mọi người là anh em bình đẳng, tương giao “liên ngã vị”, thông dự vào Sự sống và Tình yêu muôn thuở của Chúa.

Xuyên suốt tập Hồi ức, hai dòng chảy cảm hứng là đời và đạo hòa vào nhau tạo thành một giọng điệu đầy ma lực. Đời là đời của một người con xứ Nghệ Tĩnh vốn thuộc “mạch thư hương”, “danh gia vọng tộc”, nhà Nho – quan lại Nam triều vào buổi suy tàn. Người con ấy đã cất bước ngao du giang hồ, muôn nẻo… cuối cùng làm một kẻ “bên lề”. Sự việc được kể trong “tinh thần thống hối”, “ăn năn”. Một lý lịch “về mặt nào quả cũng là một tạp phí lù”. Một lối sống, đoạn nào cũng đầy chất “tài tử” (thời sinh viên, những năm “tu hành” đến thời làm Giáo sư của Thế Tâm Stêphanô Nguyễn Khắc Dương). Đạo là đạo của một tín hữu Kitô trọn Đức tin, đâu đâu Chúa cũng ở trong lòng mình, nay dâng lời kinh Phụng vụ Tạ ơn. Lắng đọng, ngân vang những “tán tụng tuyên xưng Lòng Từ Ái vô biên của Thiên Chúa”, “hướng lòng lên cao về Thiên Chúa, nơi phát xuất mọi nguồn ơn sủng tưới khắp vũ trụ”.

Tập sách chứa đựng nhiều tầng giá trị, ý nghĩa, gợi mở tư duy trên nhiều góc cạnh, của: lịch sử, triết học, tôn giáo, thần học, tâm lí học, văn chương… Chính vì vậy nhiều đối tượng có thể đọc và thu nhận giá trị ở nội dung tập sách theo góc độ, nhu cầu văn hóa của riêng mình.

Người đọc có thể tìm thấy ở nội dung tập sách nhiều tư liệu lịch sử quý giá gắn với bao khúc quanh cuộc đời cá nhân, gia đình, quê hương, đất nước, dân tộc… của người viết. Sự vật, sự việc được sẻ chia bằng một tâm tình hồn nhiên, cởi mở, với tất cả những thương yêu vô bờ bến. Tác giả đã đưa ta sống và hiểu lại, hiểu thêm những giá trị và bi kịch của con người ở một gia đình danh Nho, khoa bảng Xứ Nghệ Tĩnh vào buổi giao thời, tương khắc, tương sinh Nho học – Tây học – Cách mạng, thời kỳ đất nước chia cắt, rồi Cải cách ruộng đất. Người đọc hiểu thêm về tinh thần yêu nước, quan niệm tôn giáo, những sinh hoạt của Cộng đoàn, Giáo hội Việt Nam kể từ sau Cách mạng tháng Tám 1945. Người đọc cũng được hiểu thêm về những liên quan đến bối cảnh văn hóa, giáo dục miền Nam thập niên 60, 70 của thế kỷ 20 cũng như bối cảnh “học tập, cải tạo” của trí thức lưu dung sau 1975. Qua lời kể của tác giả, đặc biệt ở phần Phụ bản “Thừa thiên thụ nhân, tưởng niệm Cha Lập…” chúng ta được hiểu rõ hơn về sự ra đời và hoạt động của Viện Đại học Đà Lạt, một mô hình Đại học lí tưởng, hiếm hoi, đến bây giờ vẫn là giấc mơ của giới trí thức Đại học Việt Nam.

Riêng người viết bài này, khi đọc những dòng Hồi ức của Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương về đất Hương Sơn, Phố Châu, đất Nghĩa Yên (Đức Thọ – Hà Tĩnh), lòng không khỏi bồi hồi nhớ về một thuở hoa niên với vùng Giáo xứ thân yêu, thanh bình thơ mộng. Cây Thánh giá, nóc Nhà thờ cổ kính… hắt bóng xuống dòng La Giang xanh ngắt khi bình minh lên, hoàng hôn xuống, sinh khí vui tươi, ấm áp tình người trong tương quan liên ngã vị nơi người dân Xóm Đạo quanh dải bờ đê Đức Thọ… Tất cả gợi lên biết bao kỷ niệm êm đềm. Tập Hồi ức kể nhiều chuyện nhưng dưới đáy hồn, trong tiềm thức tác giả, mối tình quê vẫn luôn luôn chiếm ngự. Tình quê ấy luôn ray rứt, nhắc nhở ông. “Rời quê cha, rời quê mẹ, rời Thọ Ninh, Nghĩa Yên, hay nói cách khác là rời Nghệ Tĩnh và địa phận Vinh chỉ là để đi tu, nay không đi tu nữa thì trở về với gia đình ở Nghệ Tĩnh, về với giáo phận gốc là Vinh” (Hồi ức, tr.217 – 218).

Như trên đã nói, tập Hồi ức chứa đựng nhiều tầng giá trị tri thức, trong đó có nhiều nội dung tri thức về Thần học, về Thiên Chúa giáo mà tiếc thay, người viết bài này không đủ tư cách để lạm bàn. Chỉ một điều dễ thấy là trong lời kể chuyện của tác giả luôn ngập tràn cảm hứng “thống hối” và “hoan ca”. Có thể nói đó là nguồn cảm hứng dạt dào chất thơ, làm nên chất men say đắm nơi những trang Hồi ức của Nguyễn Khắc Dương. Thật đúng như tác giả viết trong Lời mở đầu: “Lẽ đương nhiên, tôi hay bất cứ ai, cũng đều có ơn thiên triệu đó, nên cũng là một sự kỳ diệu do Thiên Chúa làm nên cả. Và nếu lưu ý đến khía cạnh ơn tái tạo cứu độ của Ngài, sau khi con người bị phá hủy, tự hạ phẩm giá của mình do tội lỗi, thì con người càng sa đọa bao nhiêu mà vẫn được Chúa đoái thương lại càng kỳ diệu bấy nhiêu. Cho nên khi một kẻ tội lỗi trở về cùng Thiên Chúa, “chín tầng trời vang dội tiếng hoan ca”. Cái giây phút tôi được nhận bí tích Thánh tẩy (đúng hơn là được “Thánh hóa” và “Thánh hiến”, vì từ giây phút ấy tôi được trở nên đền thánh nơi Chúa Ba Ngôi ngự xuống ở cùng), chắc chắn là chín phẩm Thiên Thần đều quỳ gối thờ lạy tung hô “Danh Cha cả sáng”, vì nước Chúa đã trị và đã đến trên một tâm hồn!

Kể lại đời mình chẳng qua là vọng lại lời tung hô thờ lạy ấy…” (Hồi ức, tr. 07).

Trong nhiều đoạn văn, quá trình chuyển hóa tâm lý trở thành Kitô hữu của một con người được tác giả dẫn dắt, phân tích đầy thăng hoa, lồng trong lời kể chuyện hồn nhiên, chân thực, say mê tha thiết, rất có sức lan truyền tâm cảm. Sự so sánh hoạt động trong thể giới người Công giáo so với ở các tôn giáo khác dưới sự dẫn dắt của tác giả làm nổi bật được những vẻ đẹp của người Công giáo nhưng không hề hạ thấp giá trị của các đạo khác mà trái lại, giúp người đọc hiểu thêm những sắc thái sinh động của sự thể hiện đức tin ở mọi tôn giáo… Đây là những trang viết khá nhiều thú vị của ngòi bút Nguyễn Khắc Dương.

Đức tin Công giáo, đời sống hiện sinh, ngã vị cá nhân ngao du, phiêu bạt… tổng hòa nên một tâm hồn, tư tưởng Nguyễn Khắc Dương, chứa đựng không ít mâu thuẫn, như ông nói: “lắm lúc tâm tư như cả một chiến trường, các xu hướng lôi kéo đủ mọi nẻo”. Bởi vậy, trong lời kể chuyện của tác giả Hồi ức, người đọc dễ nhận ra hai điều trái ngược: xung khắc nội tâm và chất thơ lãng tử. Đọc Nguyễn Khắc Dương, thấy phảng phất, bàng bạc một chút Nguyễn Bắc Sơn (Sơn Biển), Nguyễn Đức Sơn (Sơn Núi) – những nhà thơ phong trần, bụi, phủi. Đậm hơn một chút là “chất” Bùi Giáng. Có một tương đồng nào đó giữa Nguyễn Khắc Dương và Bùi Giáng. Đây là một nội dung thú vị chờ triển khai ở một bài viết khác.

Cảm thức “thống hối”, “ăn năn” như một ám ảnh trở đi trở lại trên nhiều trang sách của Nguyễn Khắc Dương. Số phận hay sự sắp đặt của Chúa cho cuộc đời ông, như ông nói: “do sự trật đường rầy trên con đường tìm một dạng thức tu trì mà phải bị ném ra giữa cuộc đời thế tục, chứ lòng tôi chẳng hề dính bén về mặt danh lợi và tình duyên” (Hồi ức, tr. 204). Ai làm cho ông “trật đường rầy”? Hãy mặc sự vẹn nguyên của câu hỏi đó. Nếu không có sự cố “trật đường rầy” làm sao chúng ta có được một Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương đẹp vẻ đẹp phong trần lãng tử của một “Sơn Biển”, “Sơn Núi”, “Bùi Trung niên thi sĩ”… như nói ở trên kia.

Trong khi mang theo sự tận tụy của người thầy, tri thức uyên thâm của một chuyên gia giảng dạy, tín hữu Kitô Nguyễn Khắc Dương, Giáo sư Nguyễn Khắc Dương đồng thời mang theo một cốt cách tài tử, một tâm hồn khoáng hoạt vào giảng đường Đại học mà truyền đến người học tinh thần tự do học thuật, “thừa thiên thụ nhân”. Giảng đường Đại học cần một “tự trị” khoa học, tự do và chân thành trong “tương quan liên ngã vị tự nhân” chứ không phải một cơ chế máy móc, trói buộc. Nguyễn Khắc Dương – Giáo sư Đại học gắn với một mẫu người của tiểu thuyết hiện sinh: “Tận tụy nhưng tài tử, cần mẫn nhưng lung tung lung tang; lại còn cái việc hay lê lết vỉa hè, các quán cà phê, gặp ai cũng chuyện trò, cũng ăn uống, cũng ngủ nghỉ, cả ở bến xe, nhà bếp, khách sạn, lân la với đủ hạng người, kể cả cao bồi, hành khất, và gái giang hồ, bất chấp mọi quy định thói thường của xã hội” (Hồi ức, tr. 207).

Cuộc đời trần gian của Nguyễn Khắc Dương là một cuộc đời dang dở. Như ông nói nhiều lần: “21 năm trời dang dở, chẳng làm nên bất cứ công việc nào cả” (Hồi ức, tr. 244); “suốt 20 năm tôi vẫn tìm chính tôi” (Hồi ức, tr. 248); “cho đến hôm nay tôi vẫn bên lề và trôi dạt” (Hồi ức, tr. 257); “Tính sổ lại suốt cuộc đời gần như một cuộc ngao du tài tử không có gì tệ mạt lắm, nhưng cũng không có đóng góp gì nên thân cho gia đình, đất nước và Hội Thánh cả” (Hồi ức, tr. 287). Nhưng chính cuộc đời đó, lại là một bài thơ – “bài thơ tự do” tuyệt đẹp. Bởi vì, bài thơ đẹp nhất là bài thơ dang dở. Bài thơ dang dở là bài thơ chưa bao giờ dừng cái ý của người viết, nên mở ra cả chân trời bí ẩn mênh mông. Có phải Nguyễn Khắc Dương đã thực thi lời dặn dò của nhà thi sĩ đáng yêu Hồ Dzếnh: “Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ/Cho nghìn sau… lơ lửng… với nghìn xưa”, “Tình mất vui khi đã vẹn câu thề/Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở”…

Vậy thì Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương ơi, ông có phải mãi mãi là vầng trăng lơ lửng, một nửa hắt ánh sáng đức tin lên bầu trời tình thương bao la của Chúa, nửa kia soi bóng dịu êm xuống trần gian. Một trần gian có “Non Tiên Ngàn Phố (quê cha), Sông Giang, núi Bút (quê mẹ)”, có một vùng non nước La Giang xanh ngát, với Thánh đường Giáo xứ Nghĩa Yên – nơi bước đầu tiên ông nhận bí tích Thánh tẩy… Hay Nguyễn Khắc Dương chính là cái vầng trăng của Nguyễn Khắc Hiếu, người anh họ năm xưa, mà có lần ông đã nhắc trong Hồi ức – cùng một gốc gác Nho gia – tài tử “Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi” (Tản Đà).

Vâng, kể từ khi“ trời đất” “xa cách”, rất có thể linh hồn Thế Tâm Stêphanô Nguyễn Khắc Dương sẽ được “Đấng Muôn Trùng khứng nhận trong lượng thương xót vô cùng vô tận vô biên” nhưng cái đẹp thì đã rơi vào thiên thu lơ lửng.

Hay có thể, Nguyễn Khắc Dương tự thuở nào đã là “giọt máu” của “tổ phụ Abraham, suốt đời lưu lạc, từ khi rời khỏi nơi chôn nhau, cắt rốn ở đất Lưỡng Hà! Lạc lõng, bơ vơ lữ hành, dang dở nửa vời… Và trong cái thời đại mà nhân loại hầu như cũng bơ vơ lạc lõng giữa trăm ngàn vạn nẻo đường dường như không có lối, và phải chăng như thế cũng là một cách để thông dự “bước phong trần” chung? “Bắt phong trần phải phong trần!”. Đường đời gió bụi có một lữ hành hát bài Kẻ lưu đày của Lamennais (Emile): có thể là một dạng của kiếp người muôn thuở. Trên đường lữ thứ ấy, rồi chỉ còn dấu chân lạc lõng in lại trên cát bụi, chỉ trong chốc lát, rồi gió cuốn mưa sa sẽ xóa nhòa, không dấu vết” (Hồi ức, tr. 295).

Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương là ai? Câu hỏi vẫn còn đó, phong kín trên những nẻo đi về. Bài viết này, thay cho lời chúc mừng sinh nhật lần thứ 100 Nguyễn Khắc Dương (24/9/1925 – 24/9/2025), chỉ là lời ghi vài cảm tưởng của một người em “đồng quận” về tập Hồi ức của ông.

Mùa thu Hà Nội, 15/9/2025

C. N.

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged . Bookmark the permalink.