Khi một bài thơ không chịu ngủ yên

Tino Cao

Năm mươi năm sau ngày chiến tranh kết thúc, tờ Văn Nghệ, cơ quan ngôn luận của Hội Nhà văn Việt Nam, bất ngờ đăng lại hai hôm trước bài thơ Với Khánh Ly của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Bài thơ được viết vào đêm 21 tháng 5 năm 1975 tại Sài Gòn, chỉ ba tuần sau khi Dinh Độc lập đổi chủ. Một bài thơ từng ra đời trong âm vang của chiến thắng, khi người viết còn đang say men khải hoàn, nay được đưa ra giữa thời bình sau nửa thế kỉ. Việc ấy, thoạt nhìn tưởng chỉ là một hành động hồi tưởng nhưng thật ra là một sự chọn lựa mang nhiều ẩn ý. Nó không phải chuyện công bố một văn bản cũ mà là một tuyên bố của quá khứ, cho thấy cách con người hôm nay vẫn đang tự kể về mình bằng chính ngôn từ của một thời đã lùi xa để diễn giải cho hiện tại.

Phạm Tiến Duật là nhà thơ tiêu biểu của chiến tranh. Ông từng được xem là tiếng nói của tuổi trẻ miền Bắc trên tuyến lửa, người ghi lại hình ảnh những đoàn xe Trường Sơn, những cô thanh niên xung phong, những con người đi trong khói lửa mà lòng vẫn ngân lên tiếng hát. Ở ông, chất lính và chất thơ hòa vào nhau, tạo nên một thứ giọng mạnh, thẳng, đôi khi pha cả sự hồn nhiên và niềm tin tuyệt đối vào chiến thắng của những người cộng sản miền Bắc. Chính niềm tin tuyệt đối vào chính nghĩa của mình đã khiến những câu thơ như Với Khánh Ly ra đời trong tư thế của người nói từ trên cao. Khi Phạm Tiến Duật cất tiếng gọi Khánh Ly, người ca sĩ đã rời đất nước, bằng câu “Em ơi em, sao em không về”, giọng nói ấy không còn là một lời hỏi han. Đó là tiếng của người vừa đặt chân vào một thành phố xa lạ, nửa ngỡ ngàng nửa kiêu hãnh, một người tin rằng mình đang nắm giữ chân lí và quyền được phát ngôn thay cho lịch sử.

Ở những khổ thơ sau, Sài Gòn hiện lên dưới mắt một người lính vừa rời chiến trường, trên áo còn nguyên mùi bụi đường Trường Sơn. Cái nhìn ấy vừa háo hức vừa dè chừng, pha giữa tò mò, thương hại và sự khinh miệt kín đáo. “Trả nợ đời em, chỉ có đồng tiền giấy / Mỏng như là hơi thở cắt vuông ra”, “Soi đồng tiền lên chỉ thấy hình vợ Thiệu / Như mụ sì ke nhìn đời bêu riếu” – những câu thơ không chỉ hướng đến một người đàn bà mà gói trong đó cái nhìn định tội dành cho cả một miền đất được cho là đã “sa sút về tinh thần” và “suy đồi về đạo đức”. Ở đây, thơ không còn là sự thấu cảm mà là lời kết án. Và khi ông viết “Tôi thương em dù chưa một lần quen / Dù giữa hai ta có khác nhau đến mấy / Thì sẽ gần lại với nhau nếu em ở lại”, chữ “nếu” ấy không còn là một giả định mà là một điều kiện. Nó đánh dấu khoảng cách giữa người gọi và người bị gọi, giữa kẻ mời và người phải quy phục. Trong câu thơ ấy, sự thương cảm bị che phủ bởi ý thức chiến thắng và cuộc gặp gỡ bị thay thế bằng mệnh lệnh của bên cầm quyền.

Nếu năm 1975, giọng thơ ấy còn có thể được coi là tự nhiên bởi nó ra đời trong cơn hưng phấn của một tập thể vừa chiến thắng, thì năm 2025, việc đưa nó trở lại trên mặt báo chính thức của giới văn nghệ không thể xem là tình cờ. Mỗi ấn phẩm của Văn Nghệ đều là một phát ngôn văn hóa có chủ ý. Việc chọn đăng lại Với Khánh Ly đúng vào thời điểm tròn nửa thế kỉ thống nhất là một hành động hồi sinh kí ức chính trị trong tư thế chủ động. Nó cho thấy cách nhìn cũ vẫn được duy trì như chuẩn mực và rằng chúng ta vẫn chưa đủ bình tĩnh để đối thoại với chính quá khứ của mình.

Một đời sống văn hóa trưởng thành không né tránh việc nhìn lại, nhưng nhìn lại phải đi cùng khả thể đối thoại. Khi một văn bản ra đời trong thời chiến được đưa trở lại, điều cần thiết không phải là sự tán dương mà là lời dẫn giúp người đọc hiểu tiếng nói đó thuộc về một khoảnh khắc lịch sử nhất định. Trong trường hợp này, bài thơ được in như một tác phẩm đương thời, không có lời mở, phản biện, hay đối thoại. Nó không được đọc lại để hiểu mà được in lại để khẳng định. Và chính khi ấy, những người từng ở phía bên kia chiến tuyến sẽ nhận ra mình đang nghe lại tiếng nói cũ; và rằng những năm dài gìn giữ bình tâm vẫn chưa được nhìn nhận.

Từ sau 1975, diễn ngôn chính thức ở Việt Nam thường nhấn mạnh đến “hòa hợp dân tộc”. Cụm từ ấy được lặp đi lặp lại như một khẩu hiệu chính trị và một lời cam kết đạo lí, nhưng lại hiếm khi được gắn liền với “hòa giải”. Hai khái niệm tưởng gần nhau nhưng thực chất khác biệt sâu xa. “Hòa hợp” đòi hỏi người thua cuộc chấp nhận hiện trạng, gác lại kí ức và hòa mình vào trật tự mới do bên thắng cuộc định hình. “Hòa giải”, ngược lại, là một tiến trình hai chiều, đòi hỏi thừa nhận lẫn nhau, đối thoại bình đẳng và nỗ lực kiến tạo một kí ức chung. “Hòa hợp” có thể đạt được bằng sự im lặng, còn “hòa giải” chỉ có thể khởi đầu bằng sự trung thực, can đảm và khoan dung.

Trong bài thơ Với Khánh Ly, người ta nhận ra một thứ ngôn ngữ của “hòa hợp” bề ngoài, nhưng không có tinh thần của “hòa giải”. Lời kêu gọi “Em ơi em, sao em không về” mang vẻ dịu dàng của cảm thông, nhưng bên trong là thái độ ngạo nghễ. Tác giả không thật sự muốn hướng tới việc thấu hiểu một phận người mà chỉ muốn xác lập lại vị thế của bên chiến thắng. Giọng điệu ấy, dù được bao phủ bằng từ ngữ nhân hậu vẫn mang sắc thái trịch thượng của người trao ân huệ. Chính vì vậy, cái mà bài thơ đạt được không phải là sự cảm thông mà là sự củng cố ranh giới giữa “người trở về” và “người được phép trở về”.

Năm mươi năm sau, khi Văn Nghệ tái đăng bài thơ mà không có bất kì chú giải hay khung phê bình nào, họ đã lặp lại đúng tinh thần ấy. Giọng nói của người chiến thắng, vốn từng chi phối toàn bộ không gian kí ức sau 1975, lại một lần nữa được đưa ra như lẽ tự nhiên. Người đọc hôm nay không được mời tham dự vào một cuộc đối thoại lịch sử mà chỉ được yêu cầu nghe lại lời tuyên giáo cũ. Cách làm ấy không chỉ làm nghèo đi ý nghĩa của bài thơ, của văn chương mà còn làm tổn thương tiến trình hòa giải vốn đã mong manh.

Trong khi đó, ngoài đời sống, những con người từng bị xem là “bên kia” đã tự tìm thấy con đường bình yên của mình. Khánh Ly đã nhiều lần trở về, đứng trên sân khấu trong nước, hát cho công chúng nghe bằng giọng hát cũ, không kêu gọi gì ngoài tình người. Bà không làm chính trị hay phát biểu gì về quá khứ, nhưng chính sự im lặng của bà lại mang trong nó một thông điệp sâu sắc về hòa giải. Khi âm nhạc có thể làm cho người ta cùng lắng nghe, nó đã đi xa hơn mọi lời tuyên bố. Vì thế, việc một tờ báo chính thức chọn đăng lại một bài thơ viết bằng giọng điệu châm biếm người nghệ sĩ ấy không chỉ là một sai lầm biên tập mà là một sự phủ định đầy ẩn ý và đau đớn đối với những nỗ lực hòa giải đang diễn ra ngoài đời sống thực.

Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận Phạm Tiến Duật. Nhà thơ ấy là một phần không thể tách rời của lịch sử văn học Việt Nam thế kỉ hai mươi. Nhưng để công bằng, cần nhìn ông trong bối cảnh của thời đại ông sống. Người viết chiến tranh không thoát khỏi ngôn ngữ chiến tranh. Ông nói bằng niềm tin của người được nuôi dưỡng trong hệ thống chính nghĩa một chiều, và thơ của ông phản chiếu tâm thế đó. Cái sai, nếu có, không thuộc về ông, mà thuộc về những người hôm nay vẫn muốn mượn lại giọng nói ấy trong khi không cần đặt lại câu hỏi.

Hòa giải là điều khó nhất đối với mọi dân tộc từng đi qua chia cắt. Nó không thể có nếu người cầm quyền vẫn độc quyền kể lại quá khứ. Văn chương có thể là nơi khởi đầu của sự hóa giải ấy, nhưng chỉ một khi nó chịu buông bỏ vai trò tuyên truyền. Một bài thơ viết trong thời chiến, nếu được đọc lại với tinh thần phản tỉnh, có thể giúp ta hiểu rõ hơn về chính mình. Nhưng nếu được đọc lại với giọng khẳng định, nó trở thành thứ ngôn ngữ của vết thương. Khi tờ báo Văn Nghệ đem đăng lại Với Khánh Ly không kèm lời giới thiệu, họ không chỉ là phục dựng một tác phẩm “lỗi thời” mà đang gửi đi thông điệp rằng họ vẫn chưa sẵn sàng nhìn thấy phần con người của bên kia.

Tác động của việc đăng lại bài thơ không dừng ở phạm vi cảm xúc cá nhân mà lan sang cảm thức cộng đồng. Với những người từng rời khỏi đất nước hay lớn lên trong những gia đình mang kí ức miền Nam, việc thấy bài thơ xuất hiện trên một tờ báo của Hội Nhà văn Việt Nam là một gợi ý lạnh lùng rằng họ vẫn bị chế độ mới nhìn qua lăng kính cũ. Với lớp sáng tác trẻ, đó là tín hiệu bảo thủ như một hàng rào vô hình giới hạn tự do suy nghĩ. Với độc giả đại chúng, hành động ấy vô tình khẳng định rằng lịch sử chỉ có một giọng nói được phép tồn tại. Khi kí ức chung bị định dạng theo một hướng duy nhất, xã hội đánh mất khả năng lắng nghe và văn hóa đánh mất cơ hội trưởng thành từ sự khác biệt.

Người ta có thể nghĩ rằng việc tái đăng chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng trong đời sống văn hóa, không có trùng hợp vô ý. Mọi lựa chọn xuất bản đều phản ánh một lập trường. Một tờ báo văn nghệ không in một bài thơ chỉ vì hoài niệm; khi chọn in, họ đồng thời chọn thái độ. Ở đây, thái độ ấy là sự quay lại giọng nói của năm 1975, như thể năm mươi năm qua không hề có quá trình tự vấn nào. Đó mới là điều đáng suy nghĩ. Bởi sau nửa thế kỉ, lẽ ra chúng ta đã có thể đọc Phạm Tiến Duật như một người từng trải qua chiến tranh, thấu hiểu ông trong giới hạn lịch sử của thời đại ấy, nhưng không thể để giọng nói của ông đại diện cho hiện tại.

Hòa giải dân tộc không khởi đầu từ những văn kiện chính trị mà bắt đầu từ cách con người sử dụng ngôn ngữ. Khi ta có thể nói về người khác mà không cần phán xét, khi ta dám soi lại quá khứ mà không chia thành bên thắng và bên thua, khi ta đủ bình tĩnh để nhìn vào vết thương mà không đòi trả thù, khi ấy mới có thể xuất hiện một cơ hội thật sự để hàn gắn. Một bài thơ có thể mở ra cuộc đối thoại ấy, nhưng cũng có thể làm nó khép lại. Với Khánh Ly thuộc về một thời đã qua; đưa nó trở lại mà không kèm suy tư, không đặt nó trong ngữ cảnh lịch sử, chẳng khác nào để bóng tối quay lại giữa ban ngày.

Điều cần thiết hôm nay không phải là quên lãng, mà là khả năng sống chung với nhiều kí ức khác nhau. Khi người đọc được phép lắng nghe nhiều giọng nói, sự cảm thông mới có thể hình thành; và chỉ từ cảm thông, hòa giải mới có chỗ đứng. Việc tái đăng Với Khánh Ly cho thấy con đường ấy vẫn còn dài. Nó nhắc rằng vết thương tinh thần không thể tự lành nếu ta vẫn nhìn quá khứ bằng ánh mắt cũ. Một xã hội trưởng thành không sợ kí ức nhưng biết giải mã kí ức bằng sự thấu hiểu. Văn học sinh ra để giúp con người làm điều đó. Nó cảnh tỉnh rằng mọi cuộc chiến, dù phía nào giành phần thắng, cuối cùng đều phải trả giá bằng nỗi mất mát của chính con người.

 

* Nguyên văn bài thơ Với Khánh Ly cùng bức ảnh do Thầy Dũng Hoàng chụp lại trang đăng trên báo Văn Nghệ số ra ngày 1.11.2025, nay đã bị tờ báo gỡ bỏ. Ảnh chụp bản viết tay bài thơ, mang thủ bút của nhà thơ Phạm Tiến Duật [có ghi rõ ngày và nơi viết bài thơ: “Sài Gòn, 21-5-1975” nhưng khi đăng báo Văn Nghệ cắt chi tiết quan trọng này – Văn Việt], hiện lưu hành trên trang Facebook cá nhân của nhà văn Nguyễn Đình Bổn.

VỚI KHÁNH LY

Thơ Phạm Tiến Duật

VỚI KHÁNH LY

Thơ Phạm Tiến Duật

Tiếng hát em còn trong băng nhạc ấy

Em ơi em, sao em không về

Cả Sài Gòn đông vui nhộp nhịp

Tôi gọi em mà em có nghe?

Đời em đi qua những khúc hát sầu bi

Hạnh phúc lội tìm lặn tìm chẳng thấy

Trả nợ đời em, chỉ có đồng tiền giấy

Mỏng như là hơi thở cắt vuông ra

Đặt đồng tiền xuống, thấy nước mắt sa

Soi đồng tiền lên chỉ thấy hình vợ Thiệu

Như mụ sì ke nhìn đời bêu riếu

Và bóng triệu người vất vưởng khuất sau lưng

Tiếng hát gieo sương chót lá rưng rưng

Thoắt cái giọng hiền thành lời phẫn nộ

Giọng em bỗng già như giọng bà quả phụ

Khóc chồng đi theo Mỹ lìa nhà

Để gió cuốn đi rồi tình nhớ với tình xa

Tất cả cạn dần chỉ còn mơ ước

Ngày đoàn tụ ôi vẹn tròn đất nước

Cầu mong, cầu mong, em hát khúc cầu mong

Thì đầu phố nhà em cây điệp lại lên hồng

Môi của mùa hè hát trời xanh giải phóng

Người về. Giặc tan. Đất lành yên tiếng súng

Bè bạn quây quần mà thiếu bóng em

Tôi thương em dù chưa một lần quen

Dù giữa hai ta có khác nhau đến mấy

Thì sẽ gần lại với nhau nếu em ở lại

Khánh tận chi mà ly biệt vội vàng?

Lặng rồi giọng hát mịn màng

Kìa bao cánh nhạc rộn ràng lại bay

Đời vui rạng rỡ ánh ngày

Chút riêng lựa một khúc này tiếc thương.

This entry was posted in Trên Facebook/Minds and tagged . Bookmark the permalink.