Tobi Trần – Giám tuyển Độc lập
Hiện tượng “bong bóng giá” trong nghệ thuật không chỉ là một thuật ngữ vay mượn từ kinh tế học mà là một thực tại có sức chi phối mạnh mẽ đến cách thị trường vận hành, đặc biệt ở những nơi mà hạ tầng định giá chưa phát triển hoàn chỉnh.
Ở Việt Nam, hiện tượng này xuất hiện rõ rệt trong hơn một thập kỷ qua, nhất là khi một số họa sĩ trẻ bất ngờ trở thành “hiện tượng” chỉ sau một hoặc hai triển lãm khiến giá tác phẩm tăng đột biến trong thời gian ngắn. Sự gia tăng này thường được dẫn dắt bởi một số gallery hoặc nhà môi giới có chiến lược tạo khan hiếm giả định khi trưng bày số lượng tác phẩm hạn chế, đẩy mạnh truyền thông và hướng tới nhóm nhà sưu tập sẵn sàng chi trả cao để sở hữu “trước khi quá muộn”!?
Vấn đề nằm ở chỗ là phần lớn các đợt tăng giá này không dựa trên nền tảng giá trị bền vững. Giá trị thực của một tác phẩm nghệ thuật trong dài hạn không chỉ là kết quả của thị hiếu tức thời mà còn là sự tổng hòa giữa hồ sơ triển lãm, phản hồi phê bình học thuật, mức độ hiện diện trong các bộ sưu tập uy tín và sự tham gia của tác phẩm vào những bối cảnh văn hóa xã hội rộng hơn. Khi những yếu tố này chưa kịp hình thành thì giá trị thị trường sẽ giống như một ngọn lửa được thổi bùng bởi gió nóng truyền thông theo cách rực rỡ nhưng dễ tàn lụi.
Ở những thị trường nghệ thuật quốc tế trưởng thành, cơ chế kiểm soát bong bóng giá không đến từ một cơ quan quản lý tập trung mà từ sự vận hành tự nhiên của một hệ sinh thái liên kết chặt chẽ. Các gallery uy tín thay vì khai thác ngay sự chú ý tức thời thì lại thường chủ động làm chậm tiến trình thương mại hóa để củng cố giá trị nền tảng.
Một nghệ sĩ mới nổi có thể mất nhiều năm chỉ để tham gia các triển lãm nhóm hay được mời vào các dự án được giám tuyển nghiêm ngặt và xuất hiện trong các ấn phẩm nghiên cứu trước khi giá trị tác phẩm của họ được điều chỉnh đáng kể. Các nhà sưu tập kỳ cựu, vốn đóng vai trò như “người gác cổng” của thị trường cũng có xu hướng cảnh giác với những mức giá tăng nhanh bất thường, đặc biệt khi provenance không rõ ràng hoặc tác phẩm thiếu ghi nhận học thuật.
Trái lại, ở Việt Nam, thị trường vẫn còn phân mảnh và chịu ảnh hưởng lớn từ yếu tố cảm tính. Việc thiếu một cơ sở dữ liệu giao dịch minh bạch khiến nhà sưu tập khó so sánh và đánh giá khách quan. Thêm vào đó, sự thiếu hụt của các định chế trung gian như hội đồng thẩm định độc lập hay hiệp hội gallery có tiêu chuẩn nghề nghiệp rõ ràng khiến việc kiểm soát tốc độ tăng giá gần như phụ thuộc hoàn toàn vào đạo đức và tầm nhìn của từng bên liên quan. Chính trong khoảng trống này, bong bóng giá có thể hình thành và phình to mà không gặp phải lực cản đáng kể.
Hệ quả của bong bóng giá một khi bị vỡ sẽ không chỉ ảnh hưởng đến nghệ sĩ và nhà sưu tập mà còn làm suy giảm niềm tin vào toàn bộ thị trường. Một tác phẩm từng được định giá cao gấp nhiều lần so với giá trị thực sẽ khó lòng khôi phục vị thế nếu bị bán lại với giá thấp hơn đáng kể.
Đặc biệt đối với nghệ sĩ trẻ, cú rơi này có thể đồng nghĩa với việc mất đi cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế, khi hồ sơ giá cả đã bị ghi dấu bởi sự biến động quá lớn trong thời gian ngắn. Vì vậy, chính bản thân mình khi làm việc với các họa sĩ trẻ đều hướng họ đến với các phương pháp định giá theo thông lệ quốc tế và vững bền chứ không vì có hiệu ứng truyền thông tốt hay có nst để ý mà định giá một cách tùy tiện, vô lý lẫn không đúng đạo đức nghề nghiệp.
Bài học từ các thị trường nghệ thuật quốc tế cho thấy, việc kiểm soát bong bóng giá không nằm ở chỗ triệt tiêu hoàn toàn biến động, vốn là một phần tất yếu của thị trường, mà ở việc thiết lập những tầng lọc giá trị trước khi tác phẩm được đưa vào quỹ đạo thương mại hóa. Điều này đòi hỏi một hệ sinh thái gắn kết, nơi mỗi bước định giá đều được neo vào các tiêu chí dài hạn, từ chất lượng học thuật cho đến sức ảnh hưởng văn hóa. Chỉ khi đó, thị trường nghệ thuật mới có thể phát triển theo một quỹ đạo ổn định và tránh bị chi phối quá mức bởi những làn sóng nhất thời.
VẬY VAI TRÒ CỦA GIÁM TUYỂN LIÊN QUAN THẾ NÀO ĐỐI VỚI VIỆC ĐIỀU TIẾT GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT?
Trong bức tranh thị trường nghệ thuật đương đại, giám tuyển thường được nhìn nhận như những người kể chuyện, kết nối tác phẩm và công chúng thông qua cấu trúc trưng bày và diễn giải.
Tuy nhiên, ở tầng sâu hơn họ còn đóng một vai trò ít được nhắc tới nhưng mang tính quyết định đối với sự ổn định của thị trường đó là vai trò của một lực cản có tính chiến lược trước những đợt sóng tăng giá thiếu nền tảng.
Trong những thị trường trưởng thành, giám tuyển không chỉ lựa chọn tác phẩm cho triển lãm mà còn thiết lập bối cảnh học thuật, đảm bảo rằng mỗi bước tiến thương mại của nghệ sĩ được neo chặt vào một quá trình tích lũy giá trị thực.
Giám tuyển quốc tế thường hợp tác chặt chẽ với gallery, bảo tàng và nhà sưu tập lớn để xây dựng “lộ trình thẩm mỹ” cho nghệ sĩ, một dạng bản đồ phát triển sự nghiệp trong đó các triển lãm, bài phê bình, ấn phẩm nghiên cứu và ghi nhận trong các bộ sưu tập được sắp xếp theo trình tự nhằm củng cố danh tiếng và giá trị lâu dài.
Khi nghệ sĩ mới nổi gây chú ý thì giám tuyển chính là người giúp điều tiết kỳ vọng, bảo đảm rằng những thành công ban đầu không bị biến thành chất xúc tác cho một đợt tăng giá đột biến. Họ thậm chí có thể chủ động khước từ việc đưa một nghệ sĩ vào triển lãm thương mại nếu cảm thấy giá thị trường đang chạy nhanh hơn giá trị học thuật, từ đó tránh việc thị trường “đốt cháy” nghệ sĩ trước khi họ đạt đến độ chín cần thiết.
Ở Việt Nam, vai trò này vẫn còn bị xem nhẹ lẫn xem thường khi trong nhiều trường hợp giám tuyển chỉ xuất hiện như một phần hình thức của triển lãm, phục vụ cho thông cáo báo chí hoặc lễ khai mạc hơn là một đối tác chiến lược trong định hướng sự nghiệp nghệ sĩ.
Sự thiếu vắng quyền tự chủ và ảnh hưởng của giám tuyển khiến nhiều dự án nghệ thuật bị dẫn dắt hoàn toàn bởi động cơ thương mại của gallery hoặc nhà sưu tập và từ đó làm suy yếu cơ chế lọc giá trị. Kết quả là giá trị tác phẩm có thể được nâng lên dựa trên sức hút truyền thông ngắn hạn, trong khi các yếu tố bảo chứng dài hạn chưa kịp định hình.
Nếu giám tuyển được trao đúng vai trò, họ có thể trở thành một “bộ nhớ dài hạn” của thị trường, lưu giữ và củng cố các tiêu chí đánh giá vượt lên trên những biến động tức thời. Điều này đòi hỏi họ không chỉ có kiến thức học thuật sâu mà còn phải am hiểu động thái thị trường, giám tuyển sẽ biết khi nào nên thúc đẩy nghệ sĩ tiến vào một phân khúc mới và khi nào cần giữ họ ở một quỹ đạo chậm rãi để tích lũy giá trị.
Một giám tuyển giàu kinh nghiệm có thể nhận ra dấu hiệu hình thành bong bóng giá trước cả khi nó trở nên rõ ràng khi nhu cầu tăng nhanh trong một nhóm nhà sưu tập hẹp, tần suất xuất hiện truyền thông vượt trội so với nền tảng học thuật hay việc tác phẩm bắt đầu được bán ra thị trường thứ cấp với biên lợi nhuận quá lớn so với giá gốc.
Trong các thị trường nghệ thuật quốc tế, nhiều giám tuyển tên tuổi đã từng đóng vai trò “hãm phanh” như vậy khi kiên quyết không đưa tác phẩm của một nghệ sĩ đang bị thổi giá vào triển lãm quy mô lớn, cho tới khi họ tích lũy đủ bề dày triển lãm quốc tế, được ghi nhận trong các nghiên cứu học thuật và chứng minh được sức hút bền vững qua nhiều mùa thị trường.
Một vài trường hợp đã được ghi nhận trong lịch sử thị trường nghệ thuật trên thế giới:
Whitney Biennial 1975 với quy tắc loại trừ “ngôi sao thị trường”. Kỳ Biennial này đặt ra nguyên tắc chỉ chọn những nghệ sĩ chưa từng trưng bày ở Whitney và không có triển lãm cá nhân tại New York trong 10 năm trước đó.
Chính sách được ghi nhận như một phản ứng trước “ảnh hưởng ngày càng lớn của thị trường nghệ thuật”, tức chủ động khóa cửa với những tên tuổi đang được đầu cơ/PR ồ ạt.
Whitney Biennial 2019 với việc ưu tiên nghệ sĩ mới nổi, “né” các gương mặt blue-chip.
Hai giám tuyển Jane Panetta và Rujeko Hockley tuyên bố hướng chọn lựa thiên về tài năng mới hoặc đang hình thành thay vì chọn những cái tên sẵn vị thế thị trường.
Phê bình đương thời ghi nhận biennial “đặt ưu tiên cho nghệ sĩ emergent hơn là những ‘market darlings’ đã định vị”. Đây là một chủ đích tuyển chọn mang tính kìm phanh trước hiện tượng cường điệu về chất lượng tác phẩm, hình ảnh nghệ sĩ và giá bán của tác phẩm.
Documenta fifteen (2022) với tuyên ngôn chống “star power” thị trường khi tập thể giám tuyển Ruangrupa xác quyết không chạy theo mô hình ngôi sao của thị trường phương Tây mà chuyển trọng tâm sang thực hành cộng đồng và mô hình hợp tác bền vững gọi là “lumbung”.
Tài liệu học thuật và tường thuật độc lập mô tả rõ lập trường khước từ quyền lực ngôi sao gắn với đầu cơ thị trường, một dạng “bẻ lái” quy mô lớn ở cấp độ siêu triển lãm.
“Zombie Formalism” (giữa thập niên 2010) với sự bùng nổ về giá nhưng bị hệ thống thiết chế giữ khoảng cách.
Các nghệ sĩ như Lucien Smith, Jacob Kassay từng tăng giá chóng mặt trên sàn đấu giá, song nhiều phân tích chỉ ra hồ sơ thiết chế (biennial, bảo tàng, phê bình hàn lâm) của nhóm này mỏng nên về cơ bản các viện hay biennial không vội vàng hợp thức hóa làn sóng này.
Artnet News sau đó tổng kết “ai sống sót sau ‘Zombie Formalism’” đã cho thấy chính bộ lọc thiết chế là yếu tố quyết định ai sẽ vượt qua cơn sốt đầu cơ.
THAY CHO LỜI KẾT
Ở Việt Nam, nếu vai trò này được thiết lập và trao quyền đúng mức thì giám tuyển có thể trở thành một nhân tố then chốt giúp thị trường tránh được những cơn sốt giá ngắn hạn và xây dựng một nền tảng định giá ổn định hơn. Từ đó sẽ mở đường cho nghệ sĩ bước vào quỹ đạo quốc tế với sự chuẩn bị vững vàng.
Tiếc là ngày này chắc sẽ còn rất xa khi Việt Nam vẫn chưa chuẩn bị cho việc có một hệ thống học thuật đầy đủ và hệ thống giám tuyển tương xứng đi kèm.
Thôi thì cứ tiếp tục làm tốt công việc hiện tại và hi vọng từng ngày vậy…