Tác giả: Li Tana
Việt dịch: Phan Văn Song
Cambridge University Press
MỘT VIỆT NAM GẮN VỚI BIỂN
Mặc dù có đường bờ biển dài 3000 km nhưng ít người coi Việt Nam là một quốc gia gắn với biển. Ở đây Li Tana trình bày một lập luận mới đầy sức thuyết phục về lịch sử Việt Nam: rằng những thay đổi chính trị then chốt là kết quả của tác động về mặt kinh tế và mặt khác của biển. Đây là một tài liệu được trình bày chi tiết về hai thiên kỉ trước thời thuộc địa, tái cấu trúc một cách triệt để cách chúng ta hiểu về vai trò của biển và xuyên khu vực trong lịch sử ban đầu của Việt Nam. Dựa trên sự nghiên cứu toàn diện từ các nguồn tiếng Trung, tiếng Việt và tiếng Nhật, Li tiết lộ rằng chỉ khi nhìn trong bối cảnh của biển thì quá khứ của Việt Nam mới có thể được hiểu một cách đúng đắn. Trái ngược với những nhận thức truyền thống về một xã hội hướng nội bị chi phối bởi ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc, Việt Nam được định hình bởi sự tiếp xúc văn hoá và kinh tế duyên hải năng động.
LI TANA là Nghiên cứu viên Cao cấp Danh dự, Trường Văn hoá, Lịch sử và Ngôn ngữ, Đại học Nghiên cứu Châu Á và Thái Bình Dương, Đại học Quốc gia Australia (ANU).
Dành cho các các đồng nghiệp và các bạn ở Đại học Quốc gia Australia (ANU): David, Tony, Nola, Philip và Cathy
MỤC LỤC
MỘT VIỆT NAM GẮN VỚI BIỂN………………………………………………………………………. 3
Lời nói đầu…………………………………………………………………………………………………….. 9
Dẫn nhập……………………………………………………………………………………………………… 13
Lịch sử dính tới biển của các dân tộc và hàng hoá………………………………………. 21
Các chủ đề chính của cuốn sách……………………………………………………………….. 22
Tính đô thị: Một lối sống……………………………………………………………………….. 23
Các diễn viên phi quốc gia: Các xã hội ven biển trên bờ biển Đông………….. 26
Kết luận…………………………………………………………………………………………………… 28
1 Việc hình thành biển………………………………………………………………………………….. 30
Những biến đổi của biển và câu chuyện lịch sử Việt Nam…………………………….. 30
Người Việt từ biển……………………………………………………………………………………. 32
Tạo ra Giao Chỉ………………………………………………………………………………………… 40
Tìm kiếm các cảng biển sâu của Giao Chỉ…………………………………………………… 44
Cửa ngõ Lạch Trường ở Thanh Hoá………………………………………………………….. 47
Lúa gạo và các kết nối ven biển phía Đông của đồng bằng sông Hồng………….. 54
Các tuyến đường sông khác của đồng bằng sông Hồng đi từ biển………………… 58
Đường sông từ Vân Nam………………………………………………………………………….. 59
Kết luận…………………………………………………………………………………………………… 65
2 Chất thơm, đạo Phật và việc hình thành trung tâm thương mại ở biển Nam. 66
Giao Châu và Ấn Độ…………………………………………………………………………………. 68
Các nhà sư du hành…………………………………………………………………………………. 71
Chất thơm trong thương mại Giao Châu……………………………………………………… 75
Giao Châu hợp nhất vào các nền kinh tế chất thơm khu vực………………………… 80
Long não tốt lành và Giao Châu trỗi dậy như một trung tâm chế biến…………….. 82
Chùa Phật giáo là trung tâm sản xuất và phân phối……………………………………… 85
Kết luận…………………………………………………………………………………………………… 91
3 ‘CÁI bến và CON đường của mọi nước’…………………………………………………….. 95
‘Bọn man di vận chuyển hàng’ thế kỉ 1 BCE là ai ?……………………………………….. 95
Sa Huỳnh, Nhật Nam và sự trỗi dậy của Lâm Ấp…………………………………………. 98
Rừng cây thơm và sự bành trướng về phía Bắc………………………………………… 103
Vương quốc thương mại biển giàu có……………………………………………………….. 112
Kết nối hàng hải……………………………………………………………………………………… 114
Mất rừng phía Bắc: Từ Lâm Ấp tới Champa………………………………………………. 120
Kết luận…………………………………………………………………………………………………. 124
4 Sự hồi sinh của hàng hải và sự trỗi dậy của Đại Việt……………………………….. 126
Nguồn sức mạnh của nhà Lí……………………………………………………………………. 128
Dân số, nhân lực và cướp bóc trên biển………………………………………………. 129
Xây dựng kinh thành……………………………………………………………………………….. 134
Kết nối với Phúc Kiến……………………………………………………………………………… 137
Sự trỗi dậy của bờ biển…………………………………………………………………………… 140
Sự hồi sinh của vùng vịnh Bắc Bộ…………………………………………………………….. 145
Nhà Trần soán ngôi………………………………………………………………………………… 149
Kết luận…………………………………………………………………………………………………. 154
5 Các luồng gió thương mại từ Trung Đông……………………………………………….. 157
Một lộ trình ở thế kỉ 8………………………………………………………………………………. 158
Người Ả Rập ở bờ biển Chăm…………………………………………………………………. 170
Bí ẩn Lưu Kế Tông: Sự lưu chuyển của người Ả Rập ở Đại Việt?……………….. 173
Kinh đô Chăm dời về Vijaya…………………………………………………………………….. 176
Kết luận…………………………………………………………………………………………………. 179
6 Thương mại của người Hồi giáo và cuộc chinh phục bờ biển………………….. 181
Thương nhân Hồi giáo ở biển Giao Chỉ…………………………………………………….. 184
Triều cống và tranh đua giành bờ biển…………………………………………………. 184
Cuộc di cư của người Hồi giáo……………………………………………………………. 186
Yếu tố Hồi giáo trong sự trỗi dậy của mạng lưới thương nhân Phúc Kiến.. 191
Gốm sứ và cuộc chinh phục bờ biển…………………………………………………………. 193
Người Hồi giáo và Yếu tố Mân?………………………………………………………….. 193
Sứ xanh trắng và sự sụp đổ của Chăm………………………………………………… 195
Sứ trắng Xanh của Việt Nam ở vùng Đông Nam Á đảo thế kỉ 14……………. 200
Bột màu xanh và yếu tố Vân Nam……………………………………………………….. 203
‘Khoảng trống thời Minh’ và sản xuất gốm sứ ở Champa………………………. 206
Cuộc chinh phục bờ biển……………………………………………………………………. 208
Kết luận…………………………………………………………………………………………………. 211
7 Tơ lụa và xã hội……………………………………………………………………………………….. 213
Bối cảnh lịch sử………………………………………………………………………………………. 214
Thương mại quốc tế và sự nổi lên của hoạt động đổi lụa lấy bạc…………………. 218
Tơ lụa phát triển nhảy vọt và hậu quả của nó…………………………………………….. 224
Hệ quả đầu tiên: xây dựng đạt đỉnh cao……………………………………………….. 228
Hệ quả thứ hai: mạng lưới chợ búa dày đặc………………………………………… 230
Hệ quả thứ ba: Đình làng nổi lên…………………………………………………………. 234
Hệ quả thứ tư: Sách và sự hình thành giới văn nhân làng xã…………………. 239
Kết luận…………………………………………………………………………………………………. 244
8 Đàng Trong thế kỉ 17……………………………………………………………………………….. 247
Tàu thuyền và sức mạnh họ Nguyễn………………………………………………………… 251
Cảng và việc mở rộng sức mạnh ven biển về phía Nam……………………………… 257
Một xã hội lai………………………………………………………………………………………….. 261
Ngoại thương của họ Nguyễn: Xương sống của nền kinh tế Đàng Trong……… 263
Xuất khẩu lâm sản và tác dụng………………………………………………………………… 269
Kết luận…………………………………………………………………………………………………. 272
9 Những thăng trầm của biên giới sông nước thế kỉ 18………………………………. 273
Biên giới mới của Đàng Trong………………………………………………………………….. 276
Các hoạt động của hệ thống: xuất khẩu, vốn, trung chuyển hàng………………… 278
Xuất khẩu: Động lực của thương mại miền Nam…………………………………… 278
Quảng Châu : Nguồn vốn của Đàng Trong…………………………………………… 282
Gia tộc Nhan, liên hệ chính giữa Quảng Châu và Đàng Trong thế kỉ 18….. 283
Căng thẳng trong hệ thống………………………………………………………………………. 288
Đầu cơ, tham nhũng và thuế nặng: kẽm, vàng và mây………………………….. 289
Chiến tranh và thoái trào: Hệ thống bị hủy diệt…………………………………………… 295
Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn…………………………………………………………………… 295
Thị trấn thương mại biến mất và thương nhân phân tán………………………… 297
Kết luận…………………………………………………………………………………………………. 302
10 Tàu thuyền và Vấn Đề Hội Nhập Chính Trị……………………………………………… 306
Bối cảnh kinh tế………………………………………………………………………………………. 308
Tào vận : chuyên chở lúa gạo bằng thuyền từ Bắc vào kinh đô……………………. 313
Nguy cơ giông bão đối với các đoàn thuyền phía Bắc………………………………… 316
Gạo, tiền đồng và nhân công từ phía Bắc………………………………………………….. 319
Tiêu hao phía Bắc lớn như thế nào?…………………………………………………………. 321
Cái giá của tào vận và đóng tàu……………………………………………………………….. 325
Kết luận…………………………………………………………………………………………………. 329
Kết luận……………………………………………………………………………………………………… 332
Lời nói đầu
Bốn mươi lăm năm trước, tôi bắt đầu nghiên cứu về Việt Nam và tiếng Việt tại Đại học Bắc Kinh. Một trong những điều đầu tiên tôi biết đến ở đó là bài hát có tên ‘Làng tôi’ ’. Tôi vẫn nhớ lời của nó, có thể viết lại là ‘làng tôi xanh bóng tre, từng tiếng chuông ban chiều, tiếng chuông nhà thờ rung. Ðời đang vui đồng quê yêu dấu bóng cau với con thuyền một dòng sông‘.[1] Là một người Mông Cổ đến từ thảo nguyên, tôi thấy nhạc và ca từ thật quyến rũ. Trong tâm trí, tôi có thể thấy một ngôi làng nhỏ, yên tĩnh và thanh bình, bao quanh bởi những hàng tre xanh cao lớn. Giữa hàng rào tre đó có một dòng sông thì thầm êm đềm chảy dọc theo hàng cau che bóng cho thuyền bè qua lại dưới nắng gắt. Tiếng chuông phai dần khi vang vọng khắp cánh đồng màu mỡ của làng. Tôi đã yêu hình ảnh này của Việt Nam trước khi thật sự đặt chân tới đất nước này.
Trong những nghiên cứu rộng hơn của mình, tôi phát hiện ra rằng hình ảnh làng quê mà tôi yêu quý về Việt Nam khó phải là hình ảnh duy nhất. Ở Trung Quốc cũng như khắp thế giới, các khái niệm học thuật về Việt Nam dựa trên quan niệm “ngôi làng” là đơn vị cơ bản của xã hội. Tuy nhiên, nếu xã hội Việt Nam về cơ bản là nông thôn – thật ra là nông nghiệp, như tôi đã được dạy – thì nó cũng mang tính cách mạng không kém. Những từ cốt yếu “nông thôn” và “cách mạng” đã trở thành không thể tách khỏi óc tôi, là chìa khoá để hiểu lịch sử Việt Nam. Đầu tiên, người ta phải vật lộn với xã hội làng quê nông thôn, mà vào thế kỉ 19 đã tập trung ở hai vùng cốt lõi, vùng đồng bằng rộng lớn của sông Hồng và của sông Mekong. Những khu vực quan trọng này bị chia cách bởi hàng ngàn dặm bờ biển khúc khuỷu hướng ra biển Đông – đối với phần còn lại của chúng ta gọi là South China Sea – mà ở đó đất mỏng và khí hậu khắc nghiệt khiến nông nghiệp trở nên khó khăn. Khi tập trung vào hai vùng đồng bằng này, hình ảnh quen thuộc đàn ông, phụ nữ nông dân đội nón lá đi làm ruộng rất dễ hình dung. Các làng có khả năng tự cung tự cấp và có ruộng chung (công điền), được phân bổ luân phiên cho dân trong làng bốn năm một lần, do đó đảm bảo mỗi hộ gia đình đều có thể tiếp cận những lô đất màu mỡ. Người Việt Nam mang theo đơn vị xã hội ổn định và hướng nội này với mình, nhân nó lên không ngừng với chỉ những thay đổi nhỏ, khi họ từ nơi gốc ở đồng bằng phía bắc tiến về nam đến sông Mekong, trong quá trình bình ổn lãnh thổ của nước Việt Nam hiện đại. Các nhà sử học ví đất nước này như hai thúng gạo treo trên một chiếc đòn gánh dài – sự tán dương ví von của Việt Nam có tính làng xã, trong đó hai vùng đồng bằng giàu có về nông nghiệp được gắn kết với nhau bởi một dải lãnh thổ ven biển nghèo khó, khu vực miền Trung ngày nay.
Theo các tài liệu mà tôi nghiên cứu, tôi biết được rằng trên lãnh thổ hình chữ S này, người Việt Nam đã xây dựng một chính quyền tập trung không khác gì Trung Quốc. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, vì câu chuyện về người Việt vốn mô tả sự phát triển ban đầu của họ dưới cái bóng che lâu dài của Trung Quốc, khởi đầu là một tỉnh của Trung Quốc vào thế kỉ thứ hai BCE (trước kỉ nguyên hiện nay) và kết thúc 10 thế kỉ sau đó với tư cách là một vương quốc độc lập. Sau đó, tinh thần mạnh mẽ của người dân Việt Nam đã nhiều lần đập tan nỗ lực tái chinh phục tỉnh cũ của Trung Quốc. Trong thiên kỉ thứ hai này, chúng ta đã được dạy rằng việc chống ngoại xâm chiếm đóng đã phát triển mạnh mẽ ở các làng quê Việt Nam. Tinh thần quyết liệt này đã châm ngòi nhiều cuộc nổi dậy chống lại sự thống trị của Trung Quốc và các cuộc xâm lược sau độc lập sau này, những sự kiện đã truyền cảm cho người Việt Nam cho đến ngày nay và với chúng người Việt Nam trong thế kỉ 19 và 20 đã sử dụng để huy động đồng bào chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Ở đây, mối liên hệ giữa xã hội nông thôn và cách mạng trở nên rõ ràng.
Tôi đã hài lòng với sự hiểu biết cơ bản, phổ thông này về lịch sử Việt Nam, thậm chí còn háo hức xây dựng nghiên cứu học thuật của riêng mình về nó, khi tôi đến Australia vào đầu năm 1988 để thực hiện nghiên cứu sau đại học tại Đại học Quốc gia Australia. Ở đó, tôi được tiếp xúc với một nhóm thầy giáo rất khác, và với một khối tư liệu mới rộng lớn, sản phẩm của các lớp diễn giải chất chồng lên nhau được thêm vào qua nhiều thế hệ bởi một cộng đồng học giả đa dạng – một số là người Trung Quốc, một số người Pháp, một số người Mĩ, hầu hết là người Việt – những người được thúc đẩy bởi nhiều hệ tư tưởng và chương trình khác nhau. Tôi vô cùng biết ơn các thầy của tôi ở Canberra, đặc biệt là David Marr và Anthony Reid, vì đã mở mang tầm mắt và hướng dẫn tôi vượt qua hình ảnh tĩnh tại, bị giới hạn của những năm đầu đời. Thật may mắn cho tôi, thời gian làm việc tại Trường Nghiên cứu Lịch sử Thái Bình Dương và Châu Á trùng hợp với thời gian của một số nghiên cứu sinh khác, những người sau này trở thành bạn và đồng nghiệp của tôi, trong số đó có Christopher Goscha, Nola Cooke, Philip Taylor, Đỗ Thiện và Andrew Hardy. Sự tương tác của tôi với giáo viên và sinh viên đều thách thức tôi đặt ra câu hỏi quan trọng mà trước đây tôi chưa nghĩ đến: Việt Nam là gì? Khi được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, câu hỏi này đột nhiên trở nên không dễ trả lời.
Kể từ đó trở đi, câu hỏi đó và sự đắm chìm trong hướng nghiên cứu mới chớm nở đã thu hút sự quan tâm của tôi. Được thúc đẩy từ phê phán mới về các giả định không bị chất vấn đã duy trì mô hình được chấp nhận từ lâu về lịch sử và xã hội Việt Nam “truyền thống”, các cách tiếp cận mới đã mở lĩnh vực này theo nhiều hướng. Như Keith Taylor đã thúc giục vào năm 1997, dường như nhiệm vụ của chúng tôi là xem xét lại khái niệm “một Việt Nam thống nhất, một Việt Nam nông thôn, một Việt Nam Nho giáo và một Việt Nam cách mạng”.[2] Được gợi hứng từ những ý tưởng như vậy, tôi đã từ bỏ việc tìm cách bảo vệ những mô hình cũ quay sang tìm kiếm những nguồn thông tin mới và những hiểu biết mới về Việt Nam cùng quá khứ của nước này. Điều này dẫn tôi đến một thời kì và địa điểm trong lịch sử Việt Nam mà mô hình phổ thông phần lớn đã bỏ sót, có lẽ bởi vì nó có vẻ là một mô hình không thật khớp – vương quốc Cochinchina thời kì đầu hiện đại, hay Đàng Trong, có những đặc điểm đa sắc tộc, hỗn tạp và thương mại tương phản sắc nét với hình ảnh của một vùng trung tâm đồng bằng sông Hồng trọn khối, lấy làng quê làm trung tâm ở phía bắc.[3] Tại vương quốc biên viễn này, bên lề lịch sử truyền thống của Việt Nam, tôi đã tìm thấy một kiểu Việt Nam mới vốn khó nhận biết qua lăng kính hạn chế của ‘truyền thống’ lịch sử Việt Nam. Tôi phát hiện ra rằng tất cả những gì cần thiết là một đầu óc cởi mở và ý nguyện tìm kiếm các nguồn thay thế, dù có khác biệt đến đâu.
Dần dần sự chú ý của tôi hướng về phía biển và các quan hệ thương mại với thị trường nước ngoài mà mạng lưới thương mại đã làm chúng trở thành hiện thực. Hai cuốn sách đồng biên tập xuất hiện từ phần đầu tiên trong hành trình tìm kiếm của tôi, Water Frontier: Commerce and the Chinese in the Lower Mekong Region, 1750–1880 (biên giới sông nước: Thương mại và người Hoa ở vùng Hạ Mekong) và The Tongking Gulf through History (Vịnh Bắc Bộ qua lịch sử), cả hai đều dựa trên những hội thảo hiệu quả quy tụ các học giả từ Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Pháp và Hoa Kì cũng như Australia. Mối quan tâm ngày càng tăng của tôi trong việc tìm hiểu xem cách nhìn từ biển có thể cho chúng ta biết điều gì về cuộc sống trên đất liền đã được tập trung rõ ràng hơn vào thời điểm này nhờ việc tôi tìm tòi nghiên cứu công trình của các học giả như Keith Taylor, John Whitmore, Victor Lieberman, James Warren, Carl Trocki, Richard O’Connor, Paul van Dyke, Bruce Lockhart, Roderick Ptak, Mark Selden, George Souza, Sakurai Yumio, Fukui Hayao, Momoki Hiro, Charles Wheeler, Geoff Wade, Catherine Churchman và Judith Cameron, chỉ kể tên một ít người. Nhìn lại, việc tôi chuyển sang cách nhìn từ biển có vẻ là một bước đi hợp lí. Tác phẩm của tôi về Đàng Trong đã cho tôi thấy ngay lập tức rằng ‘Việt Nam truyền thống’ không phải là xã hội nông nghiệp tự cung tự cấp, hướng nội của các mô hình thuộc địa và hậu thuộc địa, mặc dù niềm tin này vẫn còn phổ biến rằng nó là như vậy. Tôi hi vọng cuốn sách này sẽ giúp giải thích tại sao.
Tôi mang ơn các đồng nghiệp và bạn bè Việt Nam rất lớn kể từ lần đầu tiên tôi đến thăm Việt Nam vào năm 1990. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới cố giáo sư Đỗ Văn Ninh, Nguyễn Đức Nghinh, Dạ Lân (Nguyễn Đức Du) và nhà khảo cổ học Nguyễn Tiến Đông (đã qua đời ngay khi bản thảo này được hoàn thành). Tất cả họ đều giúp đỡ tôi một cách ân cần, dù tôi không có cơ hội để bày tỏ lời cảm ơn nồng nhiệt. Đối với Nguyễn Văn Kự, Đỗ Bằng, Nguyễn Nghi, Nguyễn Đình Đầu, Hoàng Anh Tuấn, Cao Tự Thanh, Vũ Minh Giang, Hồ Trung Tú, Nguyễn Quang Ngọc, Đinh Khắc Thuần, và nhiều học giả mà tôi ngưỡng mộ nhưng không thể liệt kê hết đầy đủ ở đây – cảm ơn quý vị đã coi tôi là một trong những người bạn trong suốt những năm qua và không mệt mỏi giúp tôi hiểu Việt Nam là gì.
Tôi xin cảm ơn Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Đại học Kyoto và Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore đã cấp cho tôi học bổng tham quan cấp cao trong năm 2008 và 2017 về chủ đề này. Học bổng Nhật Bản về Đông Nam Á là nguồn cảm hứng chính cho việc học của tôi. Tôi mang ơn Yumio Sakurai, Momoki Hiro, Fukui Hayao, Koizumi Junko, Kaoru Sugihara, Nishimura Masanari và Shine Toshihiko vì họ đã truyền cảm hứng và kiên nhẫn trả lời nhiều câu hỏi của tôi
Tôi thật may mắn khi Charles Wheeler sẵn lòng giúp tôi biên tập bản thảo này. Cuốn sách này theo một cách nào đó là một cuộc đối thoại giữa hai chúng tôi. Cuốn sách này không thể có được hình thức hiện tại nếu không có những lời phê bình và khuyến khích của ông.
Nguồn cảm hứng bất tận của tôi đến từ các công trình của Anthony Reid. Cảm ơn Tony, vì đã mở hết cánh cửa này đến cánh cửa khác cho tôi trong suốt những năm qua và đã khuyến khích tôi giải quyết vấn đề Việt Nam gắn với biển, điều dường như không thể thực hiện được vào thời điểm tôi bắt đầu. Tôi không thể thực hiện dự án này nếu không có những thách thức và vô số giờ thảo luận và tranh luận căng thẳng với các đồng nghiệp của tôi là Nola Cooke, Philip Taylor và Catherine Churchman. David Marr, thầy giáo và người giám sát của tôi, người đã đưa tôi đến Australia 34 năm trước, chưa bao giờ bỏ lỡ việc gợi hứng và khuyến khích tôi tiến lên trong suốt những năm qua. Ông đã đọc bản thảo tất cả các chương trong cuốn sách này và đưa ra những nhận xét cùng những gợi mở sâu sắc. Tôi không thể mơ có một người thầy kĩ lưỡng và tận tâm hơn David. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban Bản đồ của ANU vì đã làm gần như tất cả các bản đồ trong cuốn sách này cho tôi.
Chồng tôi Lihong chưa bao giờ tỏ ra thiếu yêu thương và ủng hộ tôi trong suốt những năm qua. Rất nhiều ngày giờ thay vì chúng tôi có thể dành cho nhau đã được sử dụng cho cuốn sách này. Tôi nợ anh, Lihong.
Và cuối cùng, tôi dành tặng cuốn sách này cho các đồng nghiệp và bạn bè tại ANU: David, Tony, Nola, Philip và Cathy. Cảm ơn bạn đã khuyến khích và trợ giúp để biến nó thành hiện thực. Đây là một phần công việc tập thể của chúng tôi, một công việc nhóm. Tất nhiên, những sai sót là trách nhiệm của riêng tôi.
Dẫn nhập
Gần 30 năm trước, nhà khảo cổ học Đỗ Văn Ninh trong một lần khai quật, đã “choáng váng” khi vớt được hàng ngàn vũ khí chìm sâu dưới lòng hồ Ngọc Khánh (Hà Nội) và các ruộng rau muống gần đó.[4] Vào những năm 2000, các nhà khảo cổ Việt Nam tiếp tục tìm thấy một lượng lớn súng ngắn, súng bắn đá và đại bác từ các địa điểm khai quật ở khu Giảng Võ và Kim Mã, Hà Nội.[5] Những vũ khí này không phải là hàng nhập khẩu từ nước ngoài: hầu hết các loại súng này đều được đúc tại địa phương, ở Đại Việt thế kỉ 15 dưới thời Lê Thánh Tông. Chúng là một phần trong kho vũ khí khổng lồ của Đại Việt được sử dụng để thực hiện các chiến dịch bành trướng chính trị đầy tham vọng, bao gồm cả việc tiêu diệt Champa.
Đại Việt dưới thời Lê, như Tôn Lai Thần (孙来臣/Sun Laichen) nói, là một ‘đế chế thuốc súng’ nhỏ. Ông ước tính rằng trong thế kỉ 15 có khoảng 98 800 binh sĩ, hay 38% quân đội Đại Việt, có mang súng trong thời chiến. Hỏa lực này đã mang lại cho triều đình Lê một lợi thế quân sự và nâng cao cán cân quyền lực trong khu vực trong những năm 1470 và 1480: đặc biệt là với những nước láng giềng phía tây, xâm lược Ai Lao, Mường Phuan và Lan Sang (gần như toàn bộ nước Lào ngày nay) vào năm 1479 trong khi đe dọa Sipsongbanna ở Vân Nam và tràn qua Lanna (nay là miền bắc Thái Lan) vào năm 1480, và về phía nam, đè bẹp Champa vào năm 1471 và hoàn thành một nỗ lực lớn trong việc mở rộng lãnh thổ Việt Nam tới miền Trung và miền Nam Việt Nam ngày nay. Phạm vi của ‘đế chế thuốc súng’ Đại Việt phát triển hùng mạnh đến nỗi, trong các chiến dịch của nhà Lê, quân đội đã hành quân đến tận sông Irrawaddy thuộc vương quốc Ava vào năm 1479.[6]
Những thành công quân sự rực rỡ như vậy, đã định hình đáng kể lịch sử Việt Nam và lục địa Đông Nam Á, rốt cuộc phải dựa trên một thứ: nguyên liệu làm thuốc súng, gồm lưu huỳnh và diêm tiêu. Tuy nhiên, Đại Việt thiếu cả hai thành phần then chốt đó. Lưu huỳnh chỉ có thể đến từ đất núi lửa ở những nơi như Java, Sumatra và Nhật Bản. Diêm tiêu có thể tìm thấy ở Đại Việt nhưng với số lượng rất ít. Trong thế kỉ 15, diêm tiêu chỉ có ở Trung Quốc. Quả vậy, vào thời điểm đó, nó được gắn liền với Trung Quốc đến mức người Ả Rập gọi nó là ‘tuyết Trung Hoa’. Triều đình nhà Minh, hiểu được tầm quan trọng chiến lược của nó, đã áp đặt lệnh cấm nghiêm ngặt xuất khẩu những vật liệu chiến lược như vậy vì đe dọa gây chết chóc. Để tích lũy hỏa lực cần thiết nhằm đạt được tầm vóc mà sử Việt Nam chỉ ra hoặc tầm vóc thành công quân sự mà triều Lê đạt được trong những năm 1470, họ phải nhập khẩu nhiều tấn thuốc súng. Nhưng họ có được nó cách nào?
Người Việt Nam có lí do chính đáng để giấu kín bất kì thông tin nào về nguồn thuốc súng của triều Lê, vì họ nhập khẩu qua các kênh bất hợp pháp từ Trung Quốc. Một manh mối là từ nguồn châu Âu xưa, cuốn du kí của nhà bào chế thuốc và nhà thám hiểm Tomé Pires, người Bồ Đào Nha. Ông đến Đại Việt (mà ông gọi là Cauchij = Giao Chỉ) vào lúc nào đó giữa lúc ông đến Trung Quốc năm 1511 và chuyến đi đến Trung Quốc năm 1516-1517, không lâu sau khi hoàng đế Lê Thánh Tông mất vào năm 1497. Tóm tắt hoạt động thương mại của Đại Việt, Pires có nêu:
Vị vua này rất thiên về chiến tranh, ông có vô số lính cấm vệ và súng bắn đá nhỏ. Thuốc súng được sử dụng rất nhiều ở đất nước của ông, cả trong chiến tranh lẫn trong tất cả các bữa tiệc và trò giải trí cả ngày lẫn đêm của ông. Tất cả các lãnh chúa và những người quan trọng trong vương quốc của ông đều dùng nó như thế này. Thuốc súng được sử dụng hàng ngày trong tên lửa và tất cả các trò tiêu khiển khác. Lưu huỳnh từ Trung Quốc có giá trị rất lớn. Rất nhiều thứ từ các đảo Solor ngoài Java . . . đến Melaka (Malacca) và từ đó đi đến CoChin China (Đại Việt).
Một lượng lớn diêm tiêu cũng có giá trị, và một lượng lớn đến đó là từ Trung Quốc và tất cả đều được bán ở đó [Cochin China]. Họ hiếm khi đến Malacca bằng thuyền của mình. Họ đến Trung Quốc, tới Quảng Châu vốn là một thành phố lớn, để kết nối với người Trung Quốc; sau đó đi mua hàng với người Trung Quốc trên thuyền của họ.[7] [chữ đậm thêm vào]
Căn cứ vào thời của cuốn sách của Pires, viết ở Malacca một lúc nào đó trong khoảng năm 1512 và 1515, rõ ràng là những người nhập khẩu diêm tiêu vượt biển đến Quảng Châu ‘để kết nối với’ người Trung Quốc thật ra là những kẻ buôn lậu. Họ có lẽ là người Trung Quốc xen lẫn với người Việt vì vào thời điểm này ở triều Minh, thương mại đường biển là bất hợp pháp và việc xuất khẩu nguyên liệu thô để chế tạo vũ khí bị cấm nghiêm ngặt. Pires dường như chỉ rằng lưu huỳnh đã đến Đại Việt thông qua con đường thương mại tam giác, đi đến Malacca trên các tàu Trung Quốc trước khi các thương nhân Trung Quốc chuyển nó đến Đại Việt.[8]
Những khẳng định như vậy tiết lộ sự tồn tại đáng ngạc nhiên của một nền thương mại về hàng lậu liên khu vực phát triển mạnh vốn nuôi sống ngành công nghiệp vũ khí do triều Lê bảo trợ. Cấu trúc của nó rất sâu rộng và tinh vi, bao gồm các tuyến đường kéo dài có khoảng cách xa đi ngược trên sông, đi trên bộ và tất nhiên là cả trên biển. Sự tồn tại về độ tinh vi như vậy trong công nghiệp, vận tải, thương mại hoặc trong chiến lược chính trị, chứ đừng nói đến trong công nghệ quân sự, là điều không thể tưởng tượng được đối với các chuyên gia Việt Nam chỉ cách đây vài thập kỉ .[9]
Lê Thánh Tông (trị vì 1460-1497), được mọi người coi là vị vua sùng Nho học nhất trong lịch sử Việt Nam, dưới triều đại của ông, hệ thống thị cử định kì ba năm một lần của Trung Quốc đã được đưa vào áp dụng, và ở đó người ta khó thể kì vọng là sẽ tìm thấy thương mại đường biển là một vấn đề có tầm quan trọng rất cao đối với triều đình. Tuy nhiên, chắc chắn ở đây ông được thông tin đầy đủ về các hoạt động thương mại và thậm chí còn khuyến khích chúng diễn ra. Chắc chắn ông phải biết rằng nếu không có những người đi biển Trung Quốc và Việt Nam này thì không thành công quân sự nào của ông có thể thành hiện thực.
Nếu vị vua sùng Nho học nhất Việt Nam còn bị thương mại đường biển tóm vào, thì bao nhiêu thứ lịch sử như vậy khác vẫn bị còn chôn vùi trong ao hồ, nhấn chìm dưới đáy sông, hoặc chìm khuất dọc theo bờ biển dài uốn lượn của Đại Việt? Những câu hỏi như vậy lần đầu tiên đặt ra cho tôi sự tìm kiếm của mình. Trong quá trình theo đuổi, tôi đã được khai sáng bởi Momoki Hiro, người có những lời đáng được trích dẫn:[10]
Nhiều nhà sử học coi Đại Việt trong thời kì [tiền thuộc địa] này là một nước nông nghiệp tự cung tự cấp, hướng nội, nhưng điều này không đúng. Các cơ sở nông nghiệp ở Đông Nam Á thời kì đầu trên thực tế chưa phát triển đủ để duy trì các [thực] thể chính trị (polity), và những gì diễn ra trong tiến bộ nông nghiệp chủ yếu là để đáp ứng với các kích thích thương mại và sự nổi lên của các thành phố – vốn đòi hỏi tăng nguồn cung sản phẩm nông nghiệp cho tiêu dùng thực phẩm và xuất khẩu – hơn là cho sự phát triển nội bộ.
Nói cách khác, nông nghiệp đã được sự tăng trưởng của ngoại thương và đô thị hoá kích thích, chứ không phải ngược lại như tôi đã tin tưởng từ khi còn là sinh viên.
Đưa mắt ra khỏi các nhà Nho, làng mạc, các vị vua và các trận chiến, một điều kì diệu dần dần xảy ra: những mảnh quá khứ chưa biết bắt đầu tự hiện ra trước mắt tôi với số lượng hàng trăm, hàng ngàn, như vỏ sò và đá cuội lấp lánh khi thủy triều rút xuống. Thoạt nhìn có vẻ rải rác, nhưng khi nhìn từ một góc độ mới, các kiểu hình (pattern) lại xuất hiện giữa chúng, những kiểu hình đã bị các nhà sử học thời kì đầu bỏ qua, bắt đầu với chính các nhà viết sử biên niên truyền thống. Các thế hệ sử gia thuộc địa và hậu thuộc địa kế tiếp đã đi theo sự dẫn dắt của họ. Ở Việt Nam, các nhà sử học Marxist và dân tộc chủ nghĩa thời hậu thuộc địa cũng đã bỏ qua phần lớn những vấn đề này khỏi các siêu thuật sự (metanarrative) của họ, chỉ vì những gì lộ ra có xu hướng tiết lộ một kiểu hình hàng ngàn năm có sự dính líu của người nước ngoài, thường là người Trung Quốc, vào đời sống thương mại biển của khu vực mà ngày nay được biết là Việt Nam. Đối với những nhà Marxist, các thương nhân nước ngoài không khác gì những kẻ ăn bám trong xã hội nông nghiệp phong kiến; trong khi những người dân tộc chủ nghĩa, gần như theo định nghĩa, đã loại bỏ họ ra khỏi sự hoà quyện rất chọn lọc về dân tộc, sắc tộc và bản sắc. Phân tích khối lượng dữ liệu mới khổng lồ này trong suốt 20 năm, tôi đã nhận ra trong những kiểu hình này các thành phần của một bộ sử mới và một câu chuyện tổng thể mới tiết lộ một câu chuyện rất khác với các bộ sử khác của những vùng đất cổ hình thành nên nước Việt Nam hiện đại.
Denys Lombard, trong cuộc thảo luận năm 1988 về vấn đề này trong mọi lĩnh vực nghiên cứu về Đông Nam Á, đã chỉ ra xu hướng sau:[11]
Nhận thức này được phản ánh ít nhiều rõ ràng trong tất cả các lịch sử nối tiếp nhau của Đông Nam Á. Ban đầu được viết theo quan điểm thuộc địa, và sau đó là theo quan điểm dân tộc chủ nghĩa, trong cả hai trường hợp, chúng đều được đánh dấu bằng mong muốn mạnh mẽ trong việc nhấn mạnh rằng những ảnh hưởng lớn nhất là từ phương Tây đến: trước hết là ‘Ấn Độ hoá’, sau đó là ‘Hồi giáo hoá’ (về cơ bản được quan niệm là như từ Ấn Độ bị Hồi giáo hoá, hoặc từ Trung Đông đến) và cuối cùng, tất nhiên, ‘phương Tây hoá’, sau khi người Bồ Đào Nha đến vào đầu thế kỉ 16.
Ban đầu được viết bởi người châu Âu và trên hết là nhằm mục đích dạy người đọc nhìn về châu Âu (và sau này là Mĩ), những lịch sử này thực sự đã giảm thiểu nhịp điệu đến từ phương Bắc đến mức rất ít, ngoại trừ cuộc bạo loạn ở Nhật Bản năm 1942, dù như vậy, nó vẫn được kể lại chính xác như một thảm họa hoàn toàn không lường trước được và thậm chí bất thường. Theo loại quan điểm này, không gian Đông Nam Á đương nhiên vẫn để mở đối với thế giới Ấn Độ, vượt ra ngoài vịnh Bengal cũng như đối với thế giới Melanesian (mà chúng ta biết là bắt đầu từ chính Indonesia, ở Maluku, Irian và Timor). Tuy nhiên, trái lại, nó loại trừ mọi quan hệ với thế giới Trung Quốc.
Trong diễn ngôn thuộc địa và dân tộc chủ nghĩa, “Trung Quốc” rất thường bị khái quát và trừu tượng hoá trở nên không hơn một cái tên chẳng thể hiện gì ngoài một bóng ma đe dọa sự tồn tại của Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, với những thực tế lịch sử phức tạp bị mất đi trong quá trình này.
Chủ đề ‘chống ngoại xâm’ đã trở thành trọng tâm của sử học dân tộc chủ nghĩa, đến nỗi, như Victor Lieberman chỉ ra, nó đã trở thành ‘nguyên tắc bao trùm nhất để giải mã 2000 năm qua’ và nó ‘đặt Hà Nội ngay trung tâm của sự phát triển “quốc gia” ‘. Trích dẫn Keith Taylor, ông gán điều này với ‘nỗi ám ảnh ngột ngạt với bản sắc và tính liên tục do niềm tin dân tộc chủ nghĩa đòi hỏi. . . đã làm xao động hầu như mọi nhà sử học thế kỉ 20 viết về Việt Nam’.[12] Kết quả là, như Nhung Tran và Anthony Reid lưu ý, các học giả “đã vô tình xây dựng một mô hình về ‘tính bản địa’ (indigenousness) mà những người dân tộc chủ nghĩa sẽ sớm áp dụng trong việc xây dựng tính tất yếu của dân tộc Việt Nam. Các chủ đề chiếm ưu thế sẽ là nguồn gốc khác biệt, không Trung Quốc, và tính thuần nhất của văn hoá Việt Nam.[13] Thông qua những thủ thuật rời rạc như vậy, diễn giải lại quan điểm sắc bén của Clare Sutherland, chủ nghĩa dân tộc đã trở thành một phương thức thanh lọc,[14] một phương thức mà trong đó sự vận hành của ‘yếu tố Trung Quốc’ đã được khẳng định chắc chắn là nằm ngoài cơ thể quốc gia.
Với việc Trung Quốc bị đưa thành cốt yếu và bị bác bỏ trong cách xây dựng độc tôn và giáo điều về dân tộc Việt Nam đến mức chiếm ưu thế trong lịch sử Việt Nam thế kỉ 20, ngay cả những tương tác liên khu vực như giữa miền bắc Việt Nam với các tỉnh Vân Nam và Quảng Tây của Trung Quốc cũng bị loại khỏi diễn ngôn chủ đạo. Điều này rất quan trọng, bởi vì cái được nói đến đằng sau những cái tên mà chúng ta sử dụng để xác định Việt Nam thời kì đầu có thể rất mơ hồ. Chẳng hạn, điều gì cấu thành nên dân tộc mà chúng ta gọi là “Việt” hay “Lạc” chưa bao giờ rõ ràng, như Catherine Churchman đã chỉ ra. Hơn nữa, các hành động được thực hiện ở những khu vực này có thể có tác động quan trọng đến các láng giềng phía Nam. Churchman cũng tiết lộ rằng chính các bộ tộc Li (Lê) và Lao (Lão) ở Quảng Tây và phía tây Quảng Đông hiện nay đã làm chậm đáng kể sự di cư của người Hán từ miền bắc Trung Quốc tới từ thế kỉ 3 đến 7 CE,[15] một phát triển mở đường cho sự độc lập của Đại Việt. Mối liên hệ quan trọng như vậy vượt xa những liên hệ chỉ tập trung vào động lực bên trong.
Gần đây hơn, các nhà sử học đã bắt đầu ghi nhận sự tồn tại và tầm quan trọng của các khu vực dính với biển trong các lịch sử dân tộc, cũng có mở rộng cho cả Việt Nam. Cách tiếp cận dân tộc chủ nghĩa đối với lịch sử Việt Nam, trong khi làm cho nền độc lập ban đầu của Đại Việt giống như một sự tách rời hào hùng khỏi các nước láng giềng trong đất liền, về cơ bản đã xóa bỏ các liên hệ của khu vực mà ngày nay được gọi là Việt Nam với thế giới gắn với biển mà nó cậy nhờ rất nhiều, như cuốn sách này sẽ trình bày. Nó làm cho Đại Việt giống các láng giềng không có biển như Lào hay Vân Nam và có vẻ hoàn toàn khác với các nước láng giềng Đông Nam Á dính với biển. Như Charles Wheeler giải thích, sự bóp méo lịch sử là đặc biệt đáng chú ý khi xem xét vai trò của biển trong lịch sử Việt Nam: ‘Ảnh hưởng bởi các ranh giới nhân tạo trên đất liền đã biến hệ sinh thái của con người thành các hiện thực đế quốc, theo truyền thống các ngành học thuật đã bỏ qua các kiểu hình (pattern) cơ bản, lâu dài về trao đổi văn hoá chéo, cả trong và ngoài khu vực này.’[16] Trớ trêu là mặc dù có 3 200 km bờ biển, cho đến gần đây, bờ biển và nhiều cảng của nó vẫn là những nơi mà qua chúng ít có khả năng tiếp cận lịch sử Việt Nam nhất trong sử học chính thống. Cuốn sách này phản ánh và ủng hộ chủ trương của Wheeler trong việc tiếp cận lịch sử Việt Nam từ biển; theo một cách nào đó, nó giống như một cuộc đối thoại với tác phẩm của ông, khi chúng ta cùng đào xới những vấn đề giống nhau trong lịch sử Việt Nam trong nhiều thập kỉ.
Tuy nhiên, để tiếp cận những cấu trúc sâu hơn của lịch sử Việt Nam qua biển, chỉ nguồn tư liệu chuẩn thôi là chưa đủ; nỗ lực liên ngành là cần thiết. Các nhà địa lí, khảo cổ và địa chất đã giúp tôi đi sâu vào hình thái lịch sử của bờ biển, trong đó ranh giới liên tục thay đổi giữa các vùng đất và vùng nước tương tác nhau đã giúp hình thành nền văn hoá vật chất của các dân tộc địa phương. Có thể nói, chính góc nhìn mới này đã cho phép tôi ‘đảo ngược cái nhìn thông thường’ và khám phá lịch sử chìm khuất của vùng ven biển này qua việc nhìn đất liền từ phía biển.
Việc khám phá quá trình tinh tế này diễn ra như thế nào về phía Đại Việt thách thức chúng tôi, những người dốc lòng tìm hiểu vị trí lịch sử của Việt Nam trong lịch sử châu Á và thế giới rộng lớn hơn. Ai đã tạo ra và duy trì nền kinh tế này? Phải chăng giao thông giữa Trung Quốc và Đại Việt đã được những kẻ buôn lậu trên cả bờ biển Việt Nam lẫn Trung Quốc làm cho trôi chảy hơn? Dù không có tài liệu chính thức nào viết vào thời điểm đó có thể dùng được, nhưng chính sách của nhà Nguyễn thế kỉ 18 và 19 đã đưa ra một số so sánh hữu ích cho thấy các thương buôn đường biển có thể đã vận chuyển hàng lậu vào Việt Nam một cách công khai.
Trong thế kỉ 19, hoàng đế nhà Nguyễn khuyến khích nhập khẩu các mặt hàng chiến lược, thường xuyên giảm và đôi khi miễn cả thuế xuất nhập khẩu đối với các thuyền vận chuyển hàng hoá như sắt, thiếc, kẽm và lưu huỳnh, v.v.[17] Quả thật, Đại Nam không có lựa chọn nào khác ngoài việc dựa vào việc nhập khẩu lưu huỳnh, diêm tiêu và các mặt hàng quân sự trọng yếu khác, như ví dụ sau đây cho thấy. Năm 1834, năm thứ 14 dưới triều đại của mình, hoàng đế Minh Mạng của Việt Nam đã ra lệnh cho mỗi tỉnh phía nam của đế quốc phải trữ 6000 cân (1 cân = 500 gram) diêm tiêu và 1 200 cân lưu huỳnh, và các tỉnh phía bắc phải trữ 4 000 cân diêm tiêu và 800 cân lưu huỳnh. Hà Tiên ở vịnh Thái Lan phải giữ 1000 cân diêm tiêu và 200 cân lưu huỳnh.[18] Nếu đúng theo quy định thì điều này có nghĩa là các tỉnh của Đại Nam phải duy trì tổng dự trữ là 131 000 cân (65,5 tấn) diêm tiêu và 26 200 cân (13,1 tấn) lưu huỳnh, không bao gồm kho dự trữ chiến lược đặt ở kinh đô Huế. Tuy nhiên, 19 mỏ [diêm tiêu] của đế quốc này cùng lắm chỉ sản xuất được 2 350 cân, hay 1,8% nhu cầu, con số này đã giảm xuống gần như bằng 0 sau khi hầu hết mỏ bị bỏ hoang dưới thời Minh Mạng.[19] Điều này có nghĩa là toàn bộ lưu huỳnh thiết yếu và hầu hết diêm tiêu đều phải nhập khẩu. Nếu điều này xảy ra dưới thời các hoàng đế nhà Nguyễn thế kỉ 19 thì rất có thể cũng đã xảy ra dưới thời vua Lê Thánh Tông có óc bành trướng ở thế kỉ 15. Lời giải thích hợp lí duy nhất cho sức mạnh quân sự phi thường của ông là Việt Nam thời Lê, giống như Việt Nam kế tục thời Nguyễn, đã khuyến khích và bảo vệ các thương nhân Trung Quốc buôn lậu vật liệu chiến lược vào Việt Nam. Nói một cách đơn giản, buôn lậu bằng đường sông, đường bộ và đường biển là chính sách chính thức ở Đại Việt.
Như dự đoán, nền kinh tế buôn lậu đã phát triển đủ lớn để thu hút số lượng hàng hoá ngày càng lớn. Trước thế kỉ 20, người Việt có học đều đọc sách chữ Hán, tạo nên nhu cầu thị trường ổn định mà ngay cả giá sách cao cũng không ngăn được.[20] Nếu việc vận chuyển hàng hoá của Trung Quốc đến Nagasaki là điển hình thì những cuốn sách như vậy thường được xuất khẩu cùng với các mặt hàng khác.[21] Sách bán cho Đại Việt nhờ đó có được giá cao, đảm bảo việc buôn bán sách lâu bền trong suốt thiên kỉ thứ hai – chắc chắn đủ lớn để giúp duy trì thương mại đường biển ổn định, bất kể quy mô. Nhưng ngoài những cân nhắc về thị trường, những ảnh hưởng liên quan đến biển thông qua việc buôn sách chắc chắn cũng ảnh hưởng đến hai sự kiện văn hoá quan trọng ở Đại Việt thời kì đầu hiện đại, sự bành trướng của Tân Nho học thế kỉ 15 và sự hồi sinh của giới nho sĩ (literati) vào thế kỉ 17.[22] Với vai trò là công nghệ truyền tải văn hoá, sách Trung Quốc nhập khẩu chắc chắn đã ảnh hưởng đến độc giả ưu tú ở địa phương, đôi lúc đóng vai trò như một yếu tố ổn định trong việc hội nhập chính trị của Đại Việt hoặc, trong một số trường hợp, lại là một yếu tố mang tính lật đổ.[23]
Những xuất khẩu này, rất quan trọng – có thể là cốt yếu – đối với sự thịnh vượng của thế kỉ 15 và 17, không thấy ghi trong chính sử hoặc trong dã sử. Cũng không thấy có trong các nguồn tài liệu của Trung Quốc, vì những mặt hàng này chính xác là sản phẩm thay thế cho đồ sứ và lụa xuất khẩu của Trung Quốc trong thời kì cấm biển của nhà Minh và nhà Thanh. Nếu không có bằng chứng nào cho thấy các tác nhân của Việt Nam trên trường quốc tế – như là các thương nhân Nhật Bản và Bồ Đào Nha thế kỉ 17 hay các nhân tố Hà Lan và Anh mua lụa trong các ghi chép lịch sử, hay các nhà cung cấp xuất khẩu gốm sứ thế kỉ 15 được các nhà khảo cổ học dưới nước tiết lộ gần đây – thì Đại Việt có thể thực sự có vẻ giống với Đại Lí và Lào, không có đường ra biển, có thu nhập liên quan tới biển cho nền kinh tế và tác động đến xã hội gần như bằng 0.
Nhiều chủ đề được đưa ra và khám phá trong cuốn sách này cho thấy có một dòng chảy ngầm của cải thực sự chảy qua các mạng lưới hàng hải của Trung Quốc di chuyển qua Việt Nam mà triều đình Việt Nam có thể khai thác trong những thời điểm cần thiết về mặt chính trị. Nhưng vai trò trọng yếu của các diễn viên phi quốc gia này trong việc thành lập, củng cố và mở rộng các nhà nước Việt Nam hiếm khi thu hút được sự chú ý của lịch sử hoặc sách vở chính thống, có lẽ vì các mô hình Sinitic không khuyến khích các hoạt động như vậy do nằm dưới mức thực sự đáng quan tâm. Một hiểu biết chính xác hơn về lịch sử Việt Nam sẽ phải giúp làm cho các diễn viên, mạng lưới và phong trào phi quốc gia thoát khỏi tình trạng mù mờ không đáng có trên hàng ngàn kilomet bờ biển của Việt Nam,[24] để bộc lộ các quan hệ phức tạp của chúng với các thế lực chính trị trong triều đình Việt Nam.
Các ví dụ của tôi gợi ra điều gì đó quan trọng về sự hiểu biết của chúng ta về lịch sử Việt Nam: Bên dưới một Việt Nam làng quê và Nho học là một Việt Nam chìm khuất, một Việt Nam duy trì mối liên hệ với cả nội địa Đông Nam Á – Zomia của James Scott, các xã hội phi nông nghiệp ở vùng Đông Nam Á xa biển – và biển Đông theo hàng ngàn cách.[25] Như cuốn sách này sẽ chỉ ra, ở nhiều điểm nối những liên hệ này đóng vai trò cơ bản ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều nhà nước khác nhau đã phát triển trong khu vực mà ngày nay được gọi là Việt Nam.
Lịch sử dính tới biển của các dân tộc và hàng hoá
Nhưng kể câu chuyện về Việt Nam dính với biển trải rộng qua hai vịnh, vịnh Bắc Bộ và vịnh Xiêm La (vịnh Thái Lan) theo cách nào? Mô hình dân tộc chủ nghĩa xưa cũ không phải là một lựa chọn, vì nó gộp các vương quốc ven biển Việt, Lâm Ấp, Champa và Khmer hạ vào một công thức duy nhất có sẵn và nấu chúng với nhau trong chiếc nồi gọi là ‘Việt Nam’.[26] Một cách tiếp cận khả dĩ khác, phản ánh sự bành trướng về phía Nam của Việt Nam, cũng không thỏa đáng. Về mặt lịch sử, sự bành trướng này xảy ra dọc theo bờ biển, và chính tại các khu vực ven biển mà những thay đổi lớn xảy ra trước khi lan dọc theo các con sông và thung lũng tới vùng nội địa. Biển và sông thường đóng vai trò cốt yếu trong việc định hình những thay đổi chính trị khu vực trong ít nhất 2000 năm qua, nhưng việc chỉ đơn giản sắp xếp câu chuyện của chúng theo trình tự thời gian có nguy cơ tạo ra một câu chuyện về sự bành trướng của đế quốc Việt Nam về phía Nam, điều mà tôi cũng còn nghi hoặc. Trong số tất cả các nước Đông Nam Á, Việt Nam có lẽ là nước có lịch sử liên quan đến biển khó kể nhất, đầy rẫy những chướng ngại trong việc liên tục xác định và xác định lại xem khu vực ven biển đương đại nào từng thuộc về người nói tiếng Môn-Khmer, Chăm, Mạ, Stiêng và Khmer. Liệu có một cách tiếp cận tương đối trung lập nào cho phép kể một cách đơn giản câu chuyện biển của hơn 3 000 km phía đông lục địa Đông Nam Á mà không đặt các ranh giới hiện đại lên hàng đầu hay không?
Charles Higham đã chỉ ra một khả năng khi ông viết: ‘Lông chim bói cá và ngọc trai, mai đồi mồi và tiền vỏ ốc [được tìm thấy ở miền trung Trung Quốc] từ đâu ra? Ngược lại, làm thế nào mà lưỡi [dao] nha chương (yazhang) lại tìm được đường vào các ngôi mộ thời kì đồ đá mới ở miền Bắc Việt Nam? Chỉ có thể có một câu trả lời, thông qua thương mại và trao đổi ý tưởng giữa các dân tộc ở vùng Đông Nam Á và khu vực lõi của Trung Quốc.’[27] Nghiên cứu của tôi ủng hộ nhận thức thâm trầm của Higham: khu vực này rất quan trọng cho việc đánh giá các quan hệ giữa Đông Nam Á và các cộng đồng rộng mở thời kì đồ đá mới, và các nhà nước sau này, thuộc thung lũng sông Dương Tử và Hoàng Hà. Mặc dù ranh giới hình chữ ‘S’ hiện tại chỉ mới tồn tại 50 năm lúc người Pháp đến, nhưng sự tương tác giữa các dân tộc trong các ranh giới đó đã có từ hàng chục ngàn năm. Lịch sử gắn với biển của các dân tộc và hàng hoá ở đây xứng đáng được kể lại mà không cần quy chiếu vào các khuôn khổ sử học do nhà nước gợi ra sau này. Đây là cách tốt nhất có thể có để khôi phục lại một quá khứ phong phú, đầy màu sắc và đầy ý nghĩa, nhiều yếu tố trong đó đã bị chìm khuất trong đại dương lãng quên hoặc cố ý xem nhẹ.
Một lịch sử như vậy sẽ cần phải kết nối bờ biển phía nam Trung Quốc với vùng Đông Nam Á quần đảo, Ấn Độ và Tây Á. Tất cả đều tự nhiên thuộc về lịch sử biển của khu vực mà nay là Việt Nam. Để đạt được mục đích đó, cuốn sách này tập trung vào hàng hoá, ý tưởng, dân tộc và tìm cách truy tìm lịch sử của nhiều trao đổi định hình đáng kể các nền văn minh dọc theo bờ biển Đông. Theo định nghĩa, lịch sử dính đến biển của đường bờ biển này phải được đặc trưng bởi sự gián đoạn, đứt gãy và khoảng trống khi các dạng hoàn toàn mới xuất hiện hoặc khi các dạng cũ mất đi và khi sự phân bổ lại đột ngột xảy ra dọc theo bờ biển dài hơn 3 200 km.[28] Cũng theo cách này, cuốn sách đứng ngoài sự liên tục suôn sẻ của các thứ lịch sử kiểu giản lược của nhà nước.
Các chủ đề chính của cuốn sách
Trong cuốn sách này Việt Nam gắn với biển được trình bày trong 10 chương theo trình tự thời gian, được sắp xếp xoay quanh 3 chủ đề chính. Đó là tính đô thị (urbanism) như một lối sống; tầm quan trọng của mạng lưới Hồi giáo đối với cả Champa và Đại Việt; và mối liên hệ giữa các diễn viên phi quốc gia và cộng đồng ven biển trên khắp bờ biển Đông.
Tính đô thị: Một lối sống
Lập luận chính của cuốn sách này là chúng ta cần hiểu phần bờ biển Việt Nam hiện đại bao gồm Giao Chỉ ở phía bắc và Lâm Ấp hay Champa ở phía nam (tiếp giáp miền bắc và miền trung Việt Nam hiện đại) khác với quan điểm nông nghiệp vốn nhiều nhất là chỉ thích hợp với lịch sử sau này của nó. Rất nhiều thứ sẽ đi vào tầm chú ý nếu thay vào đó chúng ta coi nó như một loạt các trạm hoặc trạm chuyển tiếp chính giữa biển Đông và thế giới Ấn Độ Dương. Quan điểm mới này nắm bắt được bản chất của lịch sử ban đầu của nó. Thương mại mang đến đây các tôn giáo chính, ý tưởng lớn, hệ thực vật và động vật từ những thế giới xa xôi được trao đổi và thường được vận chuyển qua các tuyến đường khác tỏa khắp châu Á. Câu chuyện về những mặt hàng có giá trị như ‘dầu cánh kiến tuyệt vời của Giao Chỉ’, như được nêu trong Chương 2, khi kết hợp với những món hàng từ gỗ trầm hương dùng để trang trí các thanh kiếm hoàng gia ở Nhật Bản thế kỉ 7 và ‘âm nhạc Lâm Ấp’ được chơi ở các cung điện Nhật Bản thế kỉ 10 (chương 3), đều bộc lộ vị trí quan trọng mà Giao Chỉ và Lâm Ấp từng chiếm giữ trong nền văn hoá bậc cao của châu Á.
Như vậy, Giao Chỉ thế kỉ 10, sớm trở thành nền tảng cho Đại Việt độc lập, đã là một thực thể gắn với biển giống như nước láng giềng Champa hay, xét theo góc độ khu vực, giống như các nước láng giềng trong quần đảo ở phía nam. Sự thịnh vượng chính của nó đến từ biển. Tuy nhiên, không giống như Champa hay khu vực Đông Nam Á đảo, Giao Chỉ là tiền đồn trên biển của các đế quốc Trung Quốc nối tiếp nhau, trải rộng qua các triều đại từ Hán đến Đường. Như vậy, nó không chỉ đơn thuần đóng vai là một tỉnh của Trung Quốc mà còn giống với Hong Kong của Trung Quốc thời nhà Thanh. Nếu sự so sánh này nghe có vẻ gượng ép, hãy xét các đặc điểm sau của Giao Chỉ: một trạm trung chuyển mà hàng hoá của nó có thể được vận chuyển theo cả hai hướng giữa biển Đông và Trung Quốc thuần túy; một không gian an toàn nơi mà mọi người từ các vùng khác nhau của châu Á có thể gặp nhau bên ngoài phần lõi chính trị của đế chế Trung Hoa; một trung tâm chính của những ý tưởng mới du nhập từ phía nam, chẳng hạn như đạo Phật và đạo Bà La Môn; trung tâm đầu tiên tinh chế chất thơm chính cho thị trường Trung Quốc; và cuối cùng là một trung tâm quốc tế, nơi mà nhiều học giả hàng đầu của Trung Quốc thời bấy giờ tìm đến nương náu. Tất cả những người này đến Giao Chỉ không phải vì nó ở xa xôi, biệt lập và lạc hậu, mà chính là vì điều ngược lại: một nơi giàu có, thú vị, nơi mà các dân tộc và ý tưởng đa dạng có thể hoà trộn với nhau. Chẳng phải điều này giống với Hong Kong trong thế kỉ 19 và 20 sao?
Chỉ bằng cách nhìn lịch sử ban đầu của nó dưới góc độ này, chúng ta mới có thể hiểu được sự tăng trưởng dân số nhanh chóng của Giao Chỉ và mật độ dân số lạ thường của nó vào đầu kỉ nguyên hiện tại (Common Era – CE), dù nó có vị trí có vẻ xa xôi, ở phần rìa đế chế Hán. Góc nhìn này cũng lí giải việc trồng cây chất thơm lan rộng vào thế kỉ 4 ở những vùng đất nằm giữa đồng bằng sông Hồng và biên giới với Vân Nam. Chỉ khi xem Giao Chỉ và kinh đô Luy Lâu của nó như một đô thị lớn, chúng ta mới có thể hiểu tại sao có rất nhiều ngôi chùa bắt đầu xuất hiện ở đó vào thế kỉ 3 CE và tại sao Luy Lâu lại trở thành trạm chuyển tiếp chính cho các nhà sư Phật giáo trong hành trình giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Rất có thể ở đây những Phật tử Ấn Độ trên đường tới Trung Quốc đã lần đầu làm quen với tiếng Trung. Như Paul Wheatley từ lâu đã lập luận:
Các ngôi chùa ở Tongking (Bắc Việt Nam) có thể là nơi có nhiều khả năng nhất để tìm thấy các nhà sư biết nói cả tiếng Trung lẫn một số ngôn ngữ khác ở vùng các biển phia Nam như tiếng Chăm hoặc tiếng Java, hoặc có thể tiếng Phạn, rằng khu vực này sẽ là một điểm dừng chân thuận tiện, nơi mà một người Java hoặc một tu sĩ Ấn Độ có thể được giải thích những điểm phức tạp của ngữ pháp tiếng Trung bằng ngôn ngữ của họ. . . Giao Chỉ nói chung và nơi đóng của chính phủ nói riêng đã trở thành một phần của hệ thống trật tự tôn giáo vươn từ Trung Quốc đến Ấn Độ và của một mạng lưới thương mại kéo dài từ biển Đông đến Địa Trung Hải.[29]
Với tư cách là các thực thể chính trị, Giao Chỉ lẫn Lâm Ấp/Champa đều chú trọng đến kinh đô và các cảng, cùng nhau tổ chức đời sống và sản xuất và từ đó nảy sinh chế độ chuyên chế đô thị. Các nguồn tài liệu hiện có tiết lộ rằng các chế độ chuyên chế đô thị đã tồn tại trong các xã hội sống ở bờ tây vịnh Bắc Bộ, thậm chí cho đến tận thế kỉ 13 và 14 trong trường hợp Đại Việt, dưới sự bảo trợ của nhà Trần. Như Richard O’Connor đã chỉ ra, trong hai thiên kỉ, tính đô thị (urbanism) là một lối sống của người Đông Nam Á. Các thành phố gắn kết các dân tộc và xã hội đa dạng lại với nhau, và thậm chí cả những dân tộc ở vùng xa xôi cũng có thể tự định hình theo phản ứng của họ đối với quy tắc đô thị. Đối với O’Connor, thành phố Đông Nam Á ‘không phải là sự áp đặt xa lạ từ bên ngoài mà là một kiến trúc bản địa [. . . ] khác biệt, vượt trội nhưng vẫn đại diện cho xã hội’.[30] Thừa nhận vị trí trung tâm của thành phố là rất quan trọng đối với sự hiểu biết của chúng ta về trật tự xã hội và văn hoá của cả Giao Chỉ lẫn Champa.
Các mạng lưới Hồi giáo từ lâu ít được kể đến: Tham vọng của Đại Việt và Xuất khẩu của Champa
Việc đồng bằng sông Hồng tách ra khỏi Trung Quốc vào thế kỉ 10 và sự chuyển đổi thành công của nó thành vương quốc Đại Việt đánh dấu một bước ngoặt quan trọng cả về chính trị lẫn kinh tế. Được biết đến nhiều nhất trong lịch sử với cái tên Giao Chỉ vào thời Hán, từ thế kỉ 2 BCE, nó đã là một phần của một số đế quốc và vương quốc Trung Quốc, như các thảo luận trước đây đã lưu ý. Trong phần lớn thời gian đó, khu vực này từng là cửa ngõ chính của Trung Quốc – trong những năm đầu là cửa ngõ chính cho ngoại thương, như Chương 1 và 2 sẽ trình bày. Ngay cả sau khi Quảng Châu trở thành cảng biển lớn vào thế kỉ 7 CE, Giao Chỉ vẫn giữ được vị trí đứng đầu về hàng hải ở vịnh Bắc Bộ. Vai trò này mất đi vào thế kỉ 10. Khi là một vương quốc độc lập, Giao Chỉ nhường lại vai trò của mình cho Tuyền Châu, một sự kiện được thể hiện rõ khi triều đại nhà Tống mới thành lập cơ quan Hải quan (Thị bạc ti) tại Tuyền Châu vào năm 1087. Điều này tạo ra những cơ hội mới cho Champa, ở phía nam Đại Việt. Nó đã tối đa hoá vị thế của mình là ‘Cảng và Con đường’ (xem Chương 3 và 5) thương mại của vùng Đông Nam Á dính với biển đối với các lãnh thổ trên đất liền như Lào và Campuchia cũng như có thể khai thác hiệu quả các mạng lưới Hồi giáo hiện có của mình trong thương mại với Trung Quốc.
Tuy nhiên, vào thế kỉ 12, sự trỗi dậy của giao thương Giao Chỉ Dương (biển Giao Chỉ trong cuốn sách này) ở vịnh Bắc Bộ đã giúp Đại Việt khôi phục vai trò trung gian béo bở của Giao Chỉ, nối Tứ Xuyên, Vân Nam và Quảng Tây với các thị trường khu vực Đông Nam Á đảo và, thông qua chúng, tới thế giới thương mại Ấn Độ Dương và Tây Á. Trong đó, các mạng lưới thương mại Hồi giáo là rất cốt yếu. Các thương nhân Hồi giáo khi ghé vào Champa và Đại Việt đã mở rộng một cách hiệu quả phạm vi thương mại của biển Giao Chỉ về phía tây qua Ấn Độ Dương. Họ cũng mở rộng nó về phía đông, khi các cộng đồng thương nhân Hồi giáo đang lớn mạnh ở các thành phố Trung Quốc như Tuyền Châu ở Phúc Kiến sáp nhập Champa vào mạng lưới của họ, điều này cũng mang lại lợi ích cho Đại Việt và thúc đẩy tham vọng kiểm soát bờ biển của nước này. Như Chương 6 cho thấy, nhiều diễn biến quan trọng trong lịch sử ban đầu của Đại Việt bao gồm sự bùng nổ dân số, mở rộng nông nghiệp đến bờ biển, hội nhập chính trị với sự phát triển văn hoá ở thượng nguồn, trung lưu và duyên hải như sự trỗi dậy của tân Nho giáo và xuất khẩu gốm sứ – tất cả đều được thúc đẩy, ít nhất một phần, bởi tác động của những ảnh hưởng và cơ hội dính với biển. Nhiều diễn biến trong số này dính dáng đến các thỏa thuận thương mại Chăm – Việt phi nhà nước có lợi nhuận. Nhưng khi Lê Thánh Tông đập tan Champa vào năm 1471, chiếm lấy vùng đất phía bắc và bắt cóc, giết hại hoặc phân tán phần lớn dân cư của nước này, ông đã vô tình đặt tất cả những điều đó vào vòng nguy hiểm.
Chiến dịch năm 1471 và hậu quả của nó, tách rời các kết nối phi nhà nước Chăm-Việt, đã tạo ra một bước ngoặt ít được biết đến trước đây trong lịch sử Việt Nam. Trước năm 1471, các thương nhân Chăm làm trung gian cho giới thương mại Đại Việt và quần đảo Malay trong một thiên kỉ rưỡi; việc đánh mất họ đã làm tổn hại đến thương mại Đại Việt vì nước này thường dựa vào người bên ngoài để vận chuyển hàng hoá của mình. Việc mất đi những người Hồi giáo này và những kết nối phía nam của họ cũng khiến vùng vịnh mất đi những cơ hội giao thương quý giá mà Giao Chỉ và Đại Việt buổi đầu đã có được trong nhiều thế kỉ. Như Keith Taylor đã lưu ý, chính việc tiếp cận thương mại với Chăm và Khmer – cả hai nền văn hoá không Trung Quốc phát triển tốt – đã mở rộng quan điểm văn hoá của giới tinh hoa cầm quyền Đại Việt trong nhiều thế kỉ.[31] Bây giờ những kết nối đó đã bị hủy hoại. Bắt đầu vào thế kỉ 16, sản xuất của Đại Việt bắt đầu cạnh tranh ngày càng tăng với sản xuất của vùng ven biển Trung Quốc hơn là bổ sung cho nó.
Các diễn viên phi quốc gia: Các xã hội ven biển trên bờ biển Đông
Các nhà sử học chưa hề đặt câu hỏi về tầm quan trọng của thương mại đường biển với Champa, nhưng, như đã thảo luận trước đó, những hạn chế áp đặt lên lịch sử Việt Nam bởi cách viết sử với tầm chú ý hạn hẹp, hướng nội và khoá chặt vào đất liền khiến cho ý tưởng về một Việt Nam thương mại, gắn với biển dường như khó phù hợp với nhiều thế hệ nghiên cứu lịch sử. Nhưng những nghiên cứu điển hình được tập hợp trong cuốn sách này, dựa trên khảo sát tường tận các tài liệu hiện có của Trung Quốc và Việt Nam, cùng với nhiều nguồn khác, giờ đây cho phép chúng tôi tự tin nói rằng những ảnh hưởng của biển rất sâu rộng và thường cực kì quan trọng. Những thứ lịch sử từ trên xuống hiếm khi thừa nhận tầm quan trọng của chúng bởi vì các sử quan chính thống tại các triều đình Việt Nam phần lớn không thừa nhận vai trò kinh tế của các diễn viên không phải người Việt. Nhưng điều này không có nghĩa là không có hoạt động nào như vậy xảy ra. Nhiều nguồn khác nhau gợi ra rằng các thỏa thuận dường như đã được thực hiện giữa các triều đình khác nhau của Việt Nam với nhiều thế hệ thương nhân đường biển để những hoạt động buôn bán này có thể được tiến hành đôi lúc bí mật và hầu hết đều công khai. Những dàn xếp như vậy được thực hiện bởi vì những vấn đề có liên quan không hề tầm thường hay bên lề mà rất trọng yếu đối với cơ cấu cơ bản của nhà nước Đại Việt. Như James Anderson đã lập luận về thương mại ven biển Trung-Việt thời kì đầu sau độc lập, ‘các dân tộc địa phương có thể đã tiến hành thương mại, nhưng các triều đình giờ đây đã biết cách thao túng môi trường thương mại để thu lợi cho chính mình’.[32]
Suy ngẫm về nhiều cách mà các yếu tố này đóng vai trò thiết yếu trong thời gian dài, người ta tự hỏi liệu có quốc gia Đông Nam Á nào dựa vào các liên hệ dính với biển thông qua những người vận hành phi nhà nước nhiều như Đại Việt hay không. Tuy nhiên, ‘dàn diễn viên phụ ẩn mình nhưng thiết yếu trong câu chuyện lớn về các sự kiện’, như Anderson nói,[33] có quá ít điều để nói về bản thân đến nỗi họ hầu như không xuất hiện trong các tường thuật, ghi chép và thống kê chính thức hiện có. Việc buôn muối giữa bờ biển phía đông của đồng bằng sông Hồng và vùng núi sâu của Vân Nam và Quảng Tây cho thấy những trao đổi quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của người dân có thể đã bị loại ra khỏi lịch sử chính thức như thế nào. Như được thảo luận ở Chương 4, một mạng lưới các bên quan tâm – các quan Việt Nam ở bờ biển, các quan nhà Tống ở miền nam Trung Quốc, và các thủ lĩnh Tai-Kadai đứng trung gian – vì mối lợi riêng của họ đã tạo điều kiện cho hoạt động buôn bán muối béo bở được thuận lợi, được làm ra trên bờ biển nhưng được bán qua Vân Nam hay Quảng Tây vào nội địa Trung Quốc. Các xã hội ven biển của cả bờ biển Trung Quốc lẫn Việt Nam – những người làm muối, thương nhân, người bán rong, thủy thủ, người khuân vác và người dẫn đường không để lại ghi chép nào về trải nghiệm hàng ngày và sinh kế gắn với biển của mình.[34] Đối với cả hai xã hội này, việc đó sẽ gây ra sự chú ý không mong muốn từ chính phủ. Đối với người Việt, còn thêm một lí do nữa: ngôn ngữ viết không phải là tiếng mẹ đẻ của họ.[35] Trong số những người có thể viết, rất ít nho sĩ quan tâm đến việc ghi lại những điều liên quan đến tiền bạc như học giả Lê Quý Đôn đã làm ở thế kỉ 18. Về khía cạnh này, đàn ông Việt Nam có những điểm tương đồng với đàn ông Đông Nam Á. Đàn ông quan tâm đến những thứ khác, đặc biệt là địa vị, và thể hiện nam tính qua việc coi thường thương mại và đổi chác, thích để những hoạt động đó cho phụ nữ và người nước ngoài làm.[36]
Kết luận
Vì sao câu chuyện liên quan tới biển lại chìm khuất lâu đến mức vắng bóng trong lịch sử dân tộc Việt Nam? Việt Nam với tư cách là một quốc gia-dân tộc (nation-state) đã nhận thức sâu sắc về vị trí lịch sử của mình, nằm giữa Trung Quốc và Champa, một bên là kẻ xâm lược thường trực và bên kia là đối thủ lâu năm đã bị đánh bại. Tuy nhiên, chính Champa mới đặt ra vấn đề gai góc và khó xử nhất đối với các học giả Việt Nam. Như Bruce Lockhart đã chỉ ra, “Vương quốc Champa không còn tồn tại và sự biến mất của nó là hậu quả trực tiếp của sự bành trướng và thuộc địa hoá của người Việt”.[37] Cho đến gần đây, nghiên cứu của họ từ lâu đã bày ra một bãi mìn chứa các vấn đề nhạy cảm tiềm ẩn liên quan đến mối quan hệ lịch sử của Việt Nam với các nước láng giềng và những căng thẳng cũ vẫn tồn tại giữa nhiều dân tộc mà dù sẵn lòng hay không, vẫn muốn hợp thành một quốc gia đa sắc tộc duy nhất. Từ quan điểm này, hình ảnh một “Việt Nam nông nghiệp, làng xã và Nho học” đem lại một cơ sở an toàn hơn, ấm cúng hơn cho các nhà sử học xây dựng trên đó. Sử học sau Thế chiến 2 của trường phái tự trị tìm kiếm lực đẩy địa phương như là lực lượng lịch sử cơ bản củng cố cách tiếp cận này.[38]
Việc xây dựng hình ảnh một nước Việt Nam cách mạng thì phức tạp hơn. Từ những năm 1860 đến năm 1975, hơn một thế kỉ Việt Nam buộc phải đối mặt với câu hỏi liệu mình có thể tồn tại như một quốc gia độc lập hay không. Rất ít dân tộc trên thế giới hiện đại phải chịu đựng những gì mà người Việt Nam từng phải chịu đựng, trước xâm lược của Pháp, Nhật, Mĩ và có lẽ lần cuối cùng là của Trung Quốc trong Chiến tranh Trung-Việt năm 1979. Với tư cách một quốc gia, với những nguồn lực ít ỏi lại còn bị những rào cản kinh tế do những kẻ thù giàu có hơn áp đặt, Việt Nam cần tất cả các nguồn lực mà nó có thể có được để duy trì cuộc chiến đấu để tồn tại. Tuy nhiên, một nguồn lực trọng yếu mà nó có thể vun đắp trong nước là sự quyết tâm tinh thần. Những huyền thoại dân tộc quan trọng đối với mọi quốc gia, nhưng nó càng có vai trò rất lớn trong thời kì chiến tranh ở Việt Nam như một phương tiện truyền cảm hứng cho các lực lượng quân sự còn non trẻ của mình để đương đầu liên tiếp với bọn Goliath quyết tâm tiêu diệt nó. Như vậy, huyền thoại dân tộc về cuộc kháng chiến chống xâm lược của nước ngoài như từ người Hoa và từ người Chăm đã giúp khơi dậy bản chất “chiến binh” của sử học Việt Nam mà Philippe Papin đã chỉ ra một cách sâu sắc, phản ánh bối cảnh mà nó được tạo ra.[39] Trong quá trình đó, dù tốt hay xấu, một số mặt nhất định của lịch sử đã bị đạp đổ. Lịch sử Chăm và lịch sử biển có chung một số phận.
Việc chịu đựng kéo dài. Theo cái nhìn của nhà sử học, Việt Nam không mấy may mắn kể từ cuộc chiến Tây Sơn tai ương (1771-1802) xé nát đất nước. Nỗi khổ đau kéo dài của đất nước dường như cuối cùng đã đến hồi kết. Ngay cả trong năm 2020, khi cả thế giới phải đối mặt với đại dịch và suy thoái kinh tế, Việt Nam vẫn tiếp tục là một trong những quốc gia có nền kinh tế đạt thành quả hàng đầu thế giới và là điểm đến ưa thích của đầu tư nước ngoài, hi vọng đảm bảo một tương lai thịnh vượng cho nhiều thế hệ mai sau.
Gió đã bắt đầu đổi chiều ít nhất 20 năm trước. Từ cuối thế kỉ 20, các nhà sử học Việt Nam đã tiếp cận lịch sử nước mình từ nhiều góc độ khác nhau, tất cả đều mở ra những chân trời mới.[40] Trước đó rất lâu, học giả Việt Nam, Thành Thế Vỹ, đã xuất bản cuốn Ngoại thương của Việt Nam vào thế kỉ XVII-XVIII và đầu XIX vào năm 1961, trong năm khó khăn nhất của Chiến tranh Việt Nam.[41] Tôi rất cảm động khi biết cách ông kiên trì đề cập đến chủ đề này trong khi các sử gia khác lao vào những chủ đề có tính thời thượng hơn như các cuộc nổi dậy của nông dân.[42] Cuốn sách của ông được in trên giấy có chất lượng xấu nhất vì lệnh cấm vận nhưng đó là nguồn cảm hứng tuyệt đối của tôi. Thành Thế Vỹ khiến tôi tin rằng có điều gì đó quý giá và ẩn giấu phải tìm trong lịch sử Việt Nam. Tôi đã được thừa hưởng cả học thuật cũ và mới ở Việt Nam và hi vọng cuốn sách này sẽ có đóng góp vào đó, cùng nhau khám phá một lịch sử Việt Nam phong phú hơn.
[1] Bài hát nổi tiếng này được Văn Cao sáng tác năm 1947, về quê hương ông ở huyện Vụ Bản, Nam Định.
[2] Keith Taylor, ‘Vietnamese Studies in North America’ [Việt Nam học ở Bắc Mỹ], bài phát biểu quan trọng tại Hội nghị quốc tế về Việt Nam học lần thứ nhất, Hà Nội (7/1997), tr. 2
[3] Li Tana, Nguyen Cochinchina (Ithaca: Chương trình Đông Nam Á của Đại học Cornell, 1998).
[4] http://khaocohoc.gov.vn/kho-vu-khi-co-duoi-long-ho-ngoc-khanh , truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2020. Các địa danh cũ ‘Bãi Đạn’ và Trường bắn vẫn còn được nhớ đến ở xóm Ngọc Khánh.
[5] Sun Laichen, ‘Chinese-style Firearms in Dai Viet (Vietnam):The Archaeological Evidence’ [Súng kiểu Trung Quốc ở Đại Việt (Việt Nam): Bằng chứng khảo cổ học], Revista de culture 27 (2008), 4345.
[6] Sun Laichen, ‘Công nghệ thuốc súng Trung Quốc và Đại Việt, ca. 1390-1497, trong Nhung Tuyết Trần và Anthony Reid (eds), Việt Nam: Borderless Histories [Lịch sử không biên giới] (Maddison: Nxb Đại học Wisconsin, 2006), tr. 102; điều này đã được chính Sử Việt xác nhận. Xem Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử ký Toàn thư 1479, ấn bản mới, Chen Chingho (ed.) (Tokyo: Tokyo Daigaku Toyo Bunka kenkyujo), tập 2: 710:'[Quân đội của chúng tôi] tấn công Ai Lao và đánh bại chúng. [Chúng tôi] Đi vào kinh đô của Lào và lấy được kho báu của họ. Vua họ trốn thoát nên chúng tôi bắt dân của họ và tiến quân đến sông Kim Sa (sông Irrawaddy) ở phía nam Miến Điện 偭國, ở đó chúng tôi lấy được sách và tài liệu của Miến Điện và chiến thắng trở về.
[7] Tomé Pires, The Suma Oriental of Tomé Pires: An Account of the East, from the Red Sea to Japan [Câu chuyện về phương Đông, từ biển Đỏ đến Nhật], viết ở Malacca và Ấn Độ năm 1512-1515 (London: The Hakluyt Society, 1944), tập 1, tr. 115.
[8] Đồng là một nguyên liệu thô khác cần để sản xuất súng. Phải mất một lượng lớn kim loại này để rèn ra một khối lượng lớn pháo và súng như vậy, nhưng Đại Việt sở hữu rất ít vào thời điểm đó. Tuy nhiên, họ đã đảm bảo đủ số lượng kim loại chiến lược từ nguồn thượng nguồn sông ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Về bằng chứng, Sun trích dẫn trong số các nguồn khác một quan chức dân sự Trung Quốc thế kỉ 15 ở Vân Nam, ông đã báo cáo: ‘Đồng được khai thác bởi những kẻ xấu xa và bán nó cho Giao Chỉ [Đại Việt] để chế tạo thành vũ khí. ‘ Sun Laichen, ‘1390~1497 間中國的火器技術與 越南’ [Công nghệ súng ống của Trung Quốc và Việt Nam, 1390-1497], Hải dương sử Nghiên cứu 海洋史研究 7 (2015), 43-44.
[9] Tài liệu lưu trữ tại làng Minh Hương ở Vĩnh Long giúp xác định cách thức hoạt động của người Hoa trong nền kinh tế và xây dựng nhà nước thời Nguyễn. Một tài liệu như vậy liệt kê các nhiệm vụ của cộng đồng người Hoa từ năm 1783 đến năm 1847, bao gồm nhập khẩu gạo, đồng, thiếc, kẽm và thuốc súng cho các mục đích chính thức. Xem Nguyễn Cẩm Thủy (ed. ), Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ: Tứ thế kỉ XVIII đến 1945 (Thành phố Hồ Chí Minh: Viên khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, 2000), tr. 281-292.
[10] Momoki Hiro, ‘Dai Viet and the South China Sea trade from the 10th to the 15th century’ [Đại Việt và thương mại đường biển Đông từ thế kỉ 10 đến thế kỉ 15], Crossroads: An Intersurgical Journal of Southeast Asian Studies 12, 1 (1998), 1-2.
[11] Denys Lombard, ‘ ‘Another “Mediterranean” in Southeast Asia’ [Một “Địa Trung Hải” khác ở Đông Nam ], dịch. Nola Cooke, Chinese Southern Diaspora Studies 1 (2007), 3, http://chl.anu.edu.au/chinese-southern-diaspora-studies/chinese-southern-diaspora-studies-volume-one-2007 . Được xuất bản lần đầu trong Hérodote 88 (1988), 184-192.
[12] Victor Lieberman, Strange Parallels Volume 1: Integration on the Mainland: Southeast Asia In Global Context, c. 800-1830 [Những điểm tương đồng kì lạ], Tập 1: Hội nhập trên đất liền: Đông Nam Á trong bối cảnh toàn cầu, c. 800-1830] (Cambridge: Nxb Đại học Cambridge, 2003), tr. 342.
[13] Nhung Tuyết Trần và Anthony Reid, ‘Introduction’ [Giới thiệu], trong Nhung Tuyết Trần và Anthony Reid (eds), Việt Nam: Borderless Histories (Madison: The University Press of Wisconsin Press, 2005), p. 7.
[14] Cụm từ chính xác là ‘Chủ nghĩa dân tộc là một trong những phương thức thanh lọc như vậy, mặc dù sự không tương thích rõ ràng của nó với chủ nghĩa quốc tế không rõ ràng như lúc đầu người ta tưởng. ‘Claire Sutherland, ‘A Post-modern Mandala? Moving beyond Methodological. Nationalism’ [Mandala hậu hiện đại? Vượt ra ngoài Phương pháp luận. Chủ nghĩa dân tộc], HumaNetten37 (2016), 91 ( http://dx.doi.org/10.15626/hn.20163705 , truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2017).
[15] Catherine Churchman, The People between the Rivers: The Rise and Fall of a Bronze Drum Culture, 200-750 CE [Người dân giữa các dòng sông: Sự trỗi dậy và sụp đổ của nền văn hoá trống đồng, 200-750 CE] (New York: Rowman & Littlefield, 2016).
[16] Charles Wheeler, tóm tắt hội thảo, ‘Maritime Southeast Asia: The Sea as Center’ [Vùng Đông Nam Á biển: Biển là trung tâm], Đại học California Irvine, tháng 1 năm 2004.
[17] Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (Huế: Nxb. Thuận Hoà, 1993), 4:429-431.
[18] ‘Tỷ hoa pháo’, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, 1:307308.
[19] Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, 4:240.
[20] Vào đầu thế kỉ XVII, một sĩ quan thủy binh người Phúc Kiến tên là Trương Tiếp đã lưu ý: “Các học giả [Việt] yêu thích sách đến mức họ thường trả giá rất cao để mua”. Trương Tiếp 張燮, Đông Tây dương khảo 東西洋考. Hoàn thành 1617, chú thích. Xie Fang (Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 1981), tr. 20.
[21] Oba Osamu, 大庭脩 Jianghu shidai zhi rizhong mihua 江戸時 代日中秘話 [Mối quan hệ bí mật giữa Nhật Bản và Trung Quốc trong thời Edo], xuyên. Xu Shihong (Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 1986), trang 58-61. Đôi khi, các quan chức Trung Quốc tìm cách ngăn chặn việc xuất khẩu của họ, nhưng lợi ích vượt trội của triều đình trong việc khuyến khích văn hoá Hán ở những nơi như Việt Nam đã chiếm ưu thế, như đã xảy ra vào những năm 1100, hoàng đế Tống Huy Tông (1082–1135) đã bác bỏ sự phản đối của các quan về việc bán sách cho thăm sứ giả Việt Nam. Trương Tiếp nhận xét: “Tình yêu sách của đất nước không bắt đầu và kết thúc vào thời điểm đó”. Trương Tiếp, Đông Tây dương khảo, tr. 20.
[22] Nguyễn Ngọc Huy và Tạ Văn Tài, The Le Code [Mật mã nhà Lê], 3 tập (Athens: Nxb Đại học Ohio, 1987); John Whitmore, ‘The Development of Le Government in Fifteenth-century Vietnam’ [Sự phát triển của Chính phủ nhà Lê ở Việt Nam thế kỉ XV], Luận án Tiến sĩ, Đại học Cornell, 1968; Keith W. Taylor, ‘The Literati Revival in Seventeenth-century Vietnam’ [Sự hồi sinh của văn học ở Việt Nam thế kỉ XVII XVI], Journal of Southeast Asian Studies 18, 1 (tháng 3/1987), 1–23.
[23] Lieberman, Strange Parallels, tập 1: 341-342.
[24] ‘Introduction’’, trong Tran và Reid, Vietnam: Borderless Histories, tr. 4.
[25] James Scott, The Art of Not Being Governed: An Anarchist History of Upland Southeast Asia [Nghệ thuật không bị quản lí: Lịch sử vô chính phủ của vùng cao Đông Nam Á] (New Haven: Nxb Đại học Yale, 2009).
[26] Cả Christopher Goscha và Ben Kiernan đều cảnh báo việc lùi các quan niệm địa lí hiện đại về quá khứ, và Goscha chỉ ra rằng đã có nhiều nước Việt Nam khác nhau. Christopher Goscha, Vietnam: A New History [Việt Nam: Một lịch sử mới (New York: Basic Books, 2016), trang 1–3; Ben Kiernan, Vietnam: A History from Earliest Times to the Present [Việt Nam: Lịch sử từ thời sơ khai đến hiện tại] (Oxford: Nxb Đại học Oxford, 2017), tr. 4.
[27] Charles Higham, ‘Crossing National Boundaries: Southern China and Southeast Asia in Prehistory’ [Vượt qua ranh giới quốc gia: Nam Trung Quốc và Đông Nam Á trong thời tiền sử], trong Ian C. Glover et al. (eds), Uncovering Southeast Asia’s Past: Selected Papers from the 10th International Conference of the European Association of Southeast Asian Archaeologists [Khám phá quá khứ của Đông Nam Á: Các bài viết chọn lọc từ Hội nghị quốc tế lần thứ 10 của Hiệp hội các nhà khảo cổ học Đông Nam Á châu Âu] (Singapore: NUS Press, 2006), tr. 14.
[28] William Southworth, ‘The Origins of Campa in Central Vietnam, A Preliminary Review’ [Nguồn gốc của Campa ở miền Trung Việt Nam, Đánh giá sơ bộ]. Luận án tiến sĩ, SOAS, Đại học London (2001), tr. 27, trích dẫn Michel Foucault, L’archéologie du savoir, bản dịch tiếng Anh. Khảo cổ học tri thức (New York: Pantheon Books, 1972), trang 169-170.
[29] Paul Wheatley,The Origins of Campa in Central Vietnam, A Preliminary Review [Nagara và Commandery: Nguồn gốc của truyền thống đô thị Đông Nam Á] (Chicago: Đại học Chicago, Khoa Địa lí, 1983), trang 371-373.
[30] Richard O’Connor, ‘Indigenous Urbanism: Class, City and Society in Southeast Asia‘ [Lối sống đô thị bản địa: Giai cấp, Thành phố và Xã hội ở Đông Nam Á], Journal of Southeast Asian Studies 26, 1 (1995), 30-31.
[31] Keith W. Taylor, The Birth of Vietnam [Sự ra đời của Việt Nam] (Berkeley: Nxb Đại học California, 1991), tr. 299.
[32] James A. Anderson, ‘Slipping through Holes: The Late Tenth- and Early Eleventh-Century Sino-Vietnamese Coastal Frontier as a Subaltern Trade Network‘ [Trượt qua các lỗ: Biên giới ven biển Trung-Việt cuối thế kỉ 10 và đầu thế kỉ 11 như một mạng lưới thương mại phụ’, trong Nola Cooke, Li Tana, và James Anderson (eds), Tongking Gulf through History (Philadelphia: Nxb Đại học Pennsylvania, 2011), trang 99.
[33] Anderson, ‘Slipping through Holes’, tr. 89.
[34] Quan điểm này được Nguyễn Văn Kim nêu trong Người Việt với Biển (Hà Nội: Thế Giới, 2011), tr. 98.
[35] Mặc dù hệ thống chữ viết bản địa được gọi là Chữ Nôm bắt đầu được sử dụng từ thế kỉ 15, như Woodside chỉ ra, nó thường tạo ra những chữ phức tạp hơn từ những chữ Hán hiện có. Alexander B. Woodside, Vietnam and the Chinese Model: A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century [Việt Nam và Mô hình Trung Quốc: Nghiên cứu so sánh Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc trong nửa đầu thế kỉ 19] (Cambridge, MA: Trung tâm Châu Á của Đại học Harvard, 1988), tr. 51.
[36] Anthony Reid, A History of Southeast Asia [Lịch sử Đông Nam Á] (West Sussex: Wiley Blackwell, 2015), trang 24-25.
[37] Bruce Lockhart, ‘Colonial and Post-Colonial Construction of “Champa”‘ [Xây dựng thuộc địa và hậu thuộc địa của “Champa”‘, trong Trần Kỳ Phương và Bruce M. Lockhart (eds), The Cham of Vietnam: History, Society and Art [Người Chăm Việt Nam: Lịch sử, Xã hội và Nghệ thuật] (Xinh-ga-po: NUS Press, 2011), tr. 1.
[38] Harry J. Benda, ‘The Structure of Southeast Asian History: Some Preliminary Observations’ [Cấu trúc lịch sử Đông Nam Á: Một số quan sát sơ bộ], Tạp chí Lịch sử Đông Nam Á 3, 1(1962), 106-138; Victor : Lieberman, Strange Parallels [Những điều tương tự kì lạ], 1: 9-15.
[39] Philippe Papin, ‘Géographie et politique dans le Viêt-Nam ancient’, Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient 87, 2 (2000), 609.
[40] Chẳng hạn, chỉ nêu tên nhưng một số ít, xem Đồ Bằng, Phố cảng vùng Thuận Quảng thế kỉ XVII-XVIII (Huế: Nxb. Thuận Hoà, 1996) ; Hoàng Anh Tuấn, Silk for Silver: Dutch-Vietnamese Relations, 1637-1700 [Tơ đổi bạc: Quan hệ Hà Lan-Việt Nam, 1637-1700 (Leiden/Boston: Brill, 2007); Nguyễn Văn Khánh và cộng sự. (eds), Việt Nam trong hệ thống thương mại Châu Á thế kỉ XVI-XVII (Hà Nội: Nxb. Thế Giới, 2007); Nguyễn Văn Kim (ed. ), Người Việt với Biển (Hà Nội: Nxb. Thế Giới, 2011); Nguyễn Văn Kim, Vân Đồn- Thượng cảng quốc tế của Việt Nam (Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014); Đỗ Thị Thúy Lan, Hệ thống cảng thị trên Sông Đàng Ngoài: Lịch sử ngoại thương Việt Nam thế kỉ XVII–XVIII (Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016). Luận án Tiến sĩ Lê Thị Mai về môi trường và sinh thái biển Quảng Nam (2016), cùng nhiều công trình xuất sắc khác.
[41] Thành Thế Vỹ, Ngoại Thương Việt Nam hồi thế kỉ XVII-XVIII và đầu XIX (Hà Nội: Sử Học, 1961).
[42] Thư từ cá nhân với người bạn cũ Nguyễn Văn Kư.