Một Việt Nam gắn với biển – từ thời kỳ sơ khai cho đến thế kỷ 19 (kỳ 5)

Tác giả: Li Tana

Việt dịch: Phan Văn Song

Cambridge University Press

Chùa Phật giáo là trung tâm sản xuất và phân phối

Mặc dù trải qua nhiều thế kỉ dưới sự cai trị của Trung Quốc, nhưng dấu vết ảnh hưởng của Nho giáo trong xã hội Giao Chỉ rất mờ nhạt trong khi dấu vết của Phật giáo lại rất phong phú.[1] Giống như tất cả các nước Đông Nam Á khác, các ngôi chùa Phật giáo là cơ sở giáo dục lớn ở Giao Chỉ. Vương Diễm (王琰), trong một cuốn sách quan trọng về Phật giáo thế kỉ 5, đã kể rằng khi còn là một đứa trẻ ở Giao Chỉ, ông đã được một nhà sư tên là Hiền (T. Trung: Xian) dạy dỗ.[2] Điều này cũng đúng với người sáng lập triều Lí là Lí Thái Tổ (947-1028), vốn lớn lên và học tập trong một ngôi chùa Phật. Những chữ viết được sử dụng trong các ngôi chùa Phật trong những thế kỉ trước đó có thể có sự kết hợp giữa tiếng Trung và tiếng Pali hoặc tiếng Phạn, như câu chuyện của Khang Tăng Hội cho thấy. Tuy nhiên, theo thời gian, ngôn ngữ giảng dạy ngày càng chuyển thành tiếng Trung – nói chính xác hơn là dạng văn viết của tiếng Trung (chữ Nho) được giới ưu tú sử dụng cho các diễn ngôn viết trên khắp thế giới văn hoá Hán cho đến đầu thế kỉ 20.[3] Chùa chiềng là cơ sở chính cho việc xuất bản các kinh sách Phật giáo ở khu vực này. Nhờ có lượng người theo đạo đông, nhiều tu viện Phật giáo đã có đủ phương tiện tài chính để chi trả cho việc in ấn và phân phối. Vào những năm 1940, học giả hàng đầu của Việt Nam Trần Văn Giáp đã thống kê có hơn 400 tên kinh sách Phật giáo trong bộ sưu tập sách do École française d’Extrême-Orient (trường Viễn Đông Bác Cổ) nắm giữ,[4] và một nghiên cứu gần đây hơn của Lưu Ngọc Quân (劉玉珺), cho thấy hơn 139 ngôi chùa đã in ấn kinh sách Phật giáo trong suốt lịch sử Việt Nam.[5] Theo học giả Đài Loan Trần Ích Nguyên (陳益源), gần một nửa số sách Hán Nôm được in lại ở Việt Nam là kinh sách Phật giáo.[6]

Chùa cũng là ứng viên có tiềm năng nhất cho việc phổ biến kiến thức về chất thơm và cách chế biến chúng, đồng thời đóng vai trò then chốt trong việc liên kết giới tinh hoa với việc sản xuất chất thơm và thị trường của nó. Các kết nối của họ với thương mại nước ngoài vừa lâu đời vừa được ghi chép đầy đủ. Trên thực tế, trong nhiều thế kỉ, việc buôn bán các di vật tôn giáo là một trong những động lực chính của thương mại Trung Quốc─Nam Á, cùng với nhu cầu về chất thơm để phục vụ trong các nghi lễ tôn giáo, một mặt hàng tới lượt nó nâng cao tầm quan trọng của thương mại Đông Nam Á.[7] Ví dụ, một bản văn được khắc trên gỗ và được lưu giữ tại một trong những ngôi chùa cổ nhất của Hà Nội, chùa Hồng Phúc (hay Chùa Hoè Nhai) giải thích tầm quan trọng của hương liệu trong cúng lễ đạo Phật:

Hương trong lư giờ đã cháy.

Toàn Pháp giới nhận được mùi hương

Khắp cõi Phật rộng lớn

Tất cả đều hít vào vị ngọt của nó

Kính lạy Đức Bồ Tát Hoàn Hảo Hương Vân Tán Mahasattva[8]

Hình ảnh trong bản khắc này gợi lên mối ràng buộc không thể tách rời giữa thắp nhang và tụng kinh, cả hai đều đã lan tỏa khắp các điện của ngôi chùa cổ này trong nhiều thế kỉ (Hình 2.1).

Hình 2.1 Hai lư hương của cung điện nhà Thanh (Bảo tàng Cung điện, Bắc Kinh)

Cánh của chúng có thể mở ra để chứa chất thơm, mùi hương tỏa ra qua mỏ của chúng.

Chùa đóng vai trò là chủ nhân và người quảng bá lớn nhất cho ngành thủ công ở Việt Nam thời tiền hiện đại, trong đó có ngành chế biến chất thơm, sau này trở thành nghề làm nhang. Chỉ riêng số lượng tu sĩ trong các các hội nhóm Phật giáo cho thấy rằng nhu cầu của họ rất lớn, lan rộng hơn và thường xuyên hơn so với nhu cầu của triều đình, chưa nói đến nhu cầu của các tín đồ tại gia. Các học giả của các nước Đông Nam Á lục địa khác đã nhấn mạnh tính trung tâm của của cải hiến tặng của chùa Phật giáo trong việc phát triển kinh tế và khám phá vai trò của chùa như là một trung tâm của nền kinh tế tái phân phối địa phương.[9] Việc áp dụng hiểu biết sâu sắc này giúp xây dựng một mô hình phù hợp với bối cảnh của các hoạt động kinh tế khác nhau và mối quan hệ của chúng với xã hội Giao Châu, cũng như trong việc thực hiện một phân tích định tính về tác động của ngoại thương đối với cấu trúc của nền kinh tế.[10]

Kể từ khi Phật giáo du nhập, hàng trăm ngàn (?) thôn làng hình thành xung quanh các ngôi chùa đã mọc lên khắp vùng đồng bằng sông Hồng. Đồng thời, vùng đồng bằng này đã tiến ra biển trên 200 km; trong suốt thời gian đó, việc định cư của con người cũng theo gót bước tiến của bờ biển. Việc cát mở rộng ra đã tạo ra hàng loạt vành đai phù sa (cát nổi) ở đồng bằng sông Hồng. Những khu vực như vậy rất lí tưởng để trồng các loại thảo mộc thơm, như học giả Khuất Đại Quân (屈大均) ở thế kỉ 17 đã viết theo những quan sát của ông về hiện tượng tương tự ở vùng đồng bằng sông Châu Giang của Quảng Đông.[11] Một loại cây mà ông mô tả là anisochilus hay paicaoxiang [排草香: bài thảo hương] trong tiếng Trung có nguồn gốc từ vùng Tamil. Một tác phẩm thế kỉ 17, A Vehicle of Aromatics [Hương thừa/thặng: cổ xe chất thơm] đã ghi lại rằng loại cây này có nguồn gốc từ Giao Chỉ và được trồng ở Quảng Đông.[12] Họ chọn trồng loại cây này ở đó vì nó tỏa ra mùi thơm nồng nàn và vì ‘không có mùi thơm nào tốt hơn loại này khi dùng để pha chế nước hoa’.[13] Nói cách khác, người dân địa phương Giao Chỉ đã đặc biệt trồng cây anisochilus để pha trộn nó với các chất thơm khác. Lợi nhuận của nó hẳn phải rất lớn vì việc trồng nó lan rộng từ Giao Châu đến Quảng Đông.[14] Đại Quân cho biết lợi nhuận từ việc trồng loại cây này lớn đến mức nông dân phải mua đất giá cao để trồng.[15] Vùng đất có điều kiện tương tự dọc theo bờ đồng bằng sông Hồng hẳn đã thu hút cũng những người trồng trọt này từ thời nhà Tấn.

Trên vùng đất cát một thời của tỉnh Hưng Yên ngày nay có một địa phương tên là thôn Cao. Dân làng ở đây đã sản xuất chất thơm trong nhiều thế kỉ. Vào thời nhà Đường, khi triều đại cai trị Giao Châu với tư cách là Phủ Đô hộ An Nam, thôn này nằm dọc theo bờ vịnh ở cửa sông Hồng. Vị trí này đã mang lại cho thôn những điều kiện tốt nhất có thể có cho công nghiệp chất thơm: Các bãi cát mới đem lại một vị trí tuyệt vời để trồng một số cây chất thơm nhất định, trong khi vị trí tại nơi giao nhau giữa các tuyến đường ven biển và đường biển cho phép họ dễ dàng nhập khẩu các chất thơm lạ từ nước ngoài. Nhiều thế kỉ đã trôi qua, bờ biển đã tiến ra xa hơn 100 km nhưng dân làng vẫn làm công việc mà từ lâu họ vẫn làm là làm hương / nhang. Mặc dù họ đã ngừng trồng cây chất thơm tại địa phương nhưng họ vẫn tiếp tục sản xuất bằng cách mua nguyên liệu từ nước ngoài. Trong sản phẩm của mình, họ pha trộn 32 loại cây cỏ Trung Hoa để cho ra loại nhang nổi tiếng nhất Việt Nam. Lợi nhuận từ làm hương khá tốt. Theo một nguồn tin đương thời, việc sản xuất nhang có thể thu được 50% lợi nhuận.[16] Vì vậy, một thôn nhỏ với hơn một trăm hộ gia đình vẫn còn lưu giữ dấu tích của ngành công nghiệp chất thơm mà một dân số từng có lúc đông đảo đã sản xuất cách đây một thiên kỉ.

Việc trồng trọt và chế biến chất thơm đã góp phần đáng kể vào sự thịnh vượng của Giao Chỉ, Giao Châu và An Nam trong thiên kỉ thứ nhất và phát triển mạnh mẽ trong các thế kỉ sau khi quận này giành được độc lập từ tay Trung Quốc với tên gọi Đại Việt vào thế kỉ 10 CE. Dưới đây là một số ví dụ từ các nguồn sử liệu Trung Quốc của triều Tống (960-1279), xuất hiện cùng thời với vương quốc Việt Nam. Chúng chỉ ra rằng sản xuất chất thơm tiếp tục là một hoạt động kinh tế quan trọng ngay cả sau thời kì bị Trung Quốc cai trị, như được chỉ ra trong những đoạn văn được viết vào thế kỉ 12:

Cyperus rotundus (cỏ tía): cả lá và thân đều có ba cạnh… Cỏ được tìm thấy ở Giao Châu là lớn nhất … khi dùng để pha trộn các chất thơm, chúng có mùi thơm gấp đôi so với các chất thơm còn lại.[17]

Chất thơm Silao (không xác định): Được tìm thấy ở [Nhật Nam]… Người dân Giao Chỉ dùng nó để pha trộn với các chất thơm khác.

 

Pinlangtai (rêu cây pinang): Tìm thấy trên các đảo phía tây nam. Nó mọc trên cây pinang… khi tự nóng lên thì có mùi rất hôi. Người dân Giao Chỉ dùng nó để hoà với bùn và biến [hỗn hợp] thành một mùi thơm ấm áp và dễ chịu.[18]

Hương bùn được đề cập trong nguồn trên đã cung cấp nguyên liệu thô để làm vòng tay thơm. Các nghệ nhân nặn bùn thành những hạt cườm, xếp xen kẽ với những hạt thủy tinh rồi xâu chúng lại bằng chỉ màu thành một chiếc vòng tay. Sau khi hoàn thành, họ vận chuyển những hạt này sang Trung Quốc để bán, chúng được cho là rất được phụ nữ Trung Quốc ưa chuộng.[19]

Những loại cây này, được trồng một cách có hệ thống ở Giao Châu, đã kích thích cho sự phát triển mặt tinh vi của kĩ thuật chế biến chất thơm, dẫn đến việc tạo ra nhiều hỗn hợp. Bằng chứng này cho thấy Giao Châu đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển các công thức pha chế chất thơm. Nghệ thuật ‘hội hương’ ở những nơi như Nhật Bản (he, hay kõe trong tiếng Nhật), nơi có 66 cách pha trộn chất thơm riêng biệt,[20] chắc chắn là di sản của một sự phát triển lâu dài trong kĩ thuật pha trộn hương liệu, được tinh chế ở Giao Châu và các nước láng giềng ven biển phía nam Champa và Phù Nam trong nhiều thế kỉ trước khi chúng được chuyển ra nước ngoài. Một công thức làm ‘nước hoa hoa ngọc bích’, vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay ở Kyoto, Nhật Bản, đòi hỏi ‘5 catties dầu cánh kiến hảo hạng của Giao Chỉ’.[21] Cây cánh kiến không phải là cây bản địa của Giao Chỉ. Đó là một loại cây bụi Địa Trung Hải rất khó kiếm và đắt tiền. Dầu cánh kiến, trước đây được phát triển ở các vùng bờ biển Berbera, Baghdad, Ghazni và Tiểu Á,[22] và được cho là có tác dụng chữa bệnh dịch,[23] thậm chí còn ít có khả năng lọt vào tay người dân ở Giao Châu. Vậy thật ra Giao Châu đã sản xuất ra loại dầu nào?

Từ bên kia biển Nam, hoắc hương đã cung cấp nguyên liệu thay thế cho cây cánh kiến mà các nhà sản xuất Giao Châu đang tìm kiếm. Giống như các nước láng giềng Nam và Đông Nam Á ở biển Nam, những người dân địa phương có đầu óc làm ăn ở Giao Châu đã tìm kiếm các nguyên liệu thay thế hợp lí để thay cho hàng nhập khẩu đắt tiền hơn nhằm sản xuất một loại hỗn hợp thơm nhằm tiếp cận nhiều người tiêu dùng hơn. Người Đông Nam Á thường cố tìm kiếm chất thay thế cho các chất thơm đắt tiền từ Châu Phi hoặc Trung và Nam Á để vươn ra thị trường lớn hơn. Giống như nhựa thông Indonesia được du nhập vào Trung Quốc để thay thế cho trầm hương [châu Phi],[24] người dân Giao Châu đã trồng và chế biến hoắc hương để thay thế cho loại trầm hương này. Một nguồn tài liệu của nhà Tấn, Giao Châu chí (thế kỉ 4 hoặc 5 CE),[25] nhận xét rằng ‘hoắc hương (huoxiang ) giống cánh kiến (suhe 蘇合: tô hợp), gợi tới mùi thơm tương tự của nó’.[26] Do đó, vào thế kỉ 5, các nhà sản xuất Giao Châu đã phát hiện ra rằng hoắc hương từ biển Nam mà tổ tiên của họ đã trồng lại một thế kỉ trước đó có thể được sử dụng làm nguyên liệu chính để sản xuất dầu cánh kiến.

Sản xuất thủ công ở đồng bằng sông Hồng nổi tiếng với những quy định chi tiết và hạn chế. Ví dụ, những cô gái lấy chồng ở làng khác bị cấm sản xuất đặc sản của làng mình. Ngay cả khi chỉ cần làm ra một lượng nhỏ, trước hết cô ta sẽ phải quay về làng cũ của mình để làm ra nó. Một số làng khác bảo vệ bí mật chế biến của họ cẩn thận đến mức ngăn không cho gái làng kết hôn với bên ngoài, trong khi ở những ngôi làng khác thì công thức chế biến giới hạn cho nam giới và phụ nữ đã có gia đình và tránh tất cả các cô gái chưa chồng.[27] Thôn Cao làm hương nêu trên cũng thực hiện đúng chính sách này.[28]

Kết luận

Trong khi nghiên cứu lịch sử của Giao Chỉ, Giao Châu và An Nam, tôi đã nhiều lần bị ngạc nhiên bởi một sự thật đơn giản: Trong khi thông tin về kinh tế và xã hội tổng thể rất ít ỏi thì thông tin về các chủ đề cụ thể như trồng trọt, thu hoạch và tinh luyện chất thơm lại dồi dào một cách đáng kinh ngạc. Lịch sử của Giao Chỉ phần lớn vẫn còn ẩn kín trong các kinh sách Phật giáo, lịch sử không chính thức, sách về hệ thực vật và động vật, dược liệu, và về chất thơm. Tầm quan trọng của nó đối với lịch sử vẫn chưa được công nhận. Chỉ riêng thực tế này đã chỉ ra con đường đi tới một lịch sử mới của Giao Chỉ, vốn vẫn chỉ nhỉnh hơn một ghi chép theo niên đại đơn điệu về các thái thú Trung Quốc, các sự kiện chính trị và chiến tranh đôi chút. Chuỗi sự kiện giản lược đó thậm chí còn không cung cấp được một bộ xương hoàn chỉnh về lịch sử Giao Chỉ, chứ chưa nói đến một thế giới ở dạng đầy đủ xác thịt. Ở đây có rất ít thứ để cung cấp cho chúng ta ngoại trừ những mô tả khô khan, còn sự thật lịch sử lớn hơn của nó đã bị thao túng và gần như bị hủy hoại. Điều này tới lượt nó phục vụ các mục đích chính trị khác nhau. Tầm quan trọng tiềm tàng của công việc nghiên cứu sâu xa hơn đối với sự hiểu biết của chúng ta về lịch sử đồng bằng sông Hồng và bờ biển lân cận nó dưới thời Trung Quốc cai trị, và mở rộng lịch sử Việt Nam, là rất lớn.

Sau khi được du nhập từ Ấn Độ và Đông Nam Á vào thế kỉ 3 CE, chất thơm đã trở thành một phần không thể thiếu trong nền văn hoá bậc cao của xã hội Trung Quốc.[29] Không quá lời khi nói rằng hình ảnh trong các bài thơ, tiểu luận và lịch sử còn tồn tại được viết trong thiên kỉ đầu tiên thấm đẫm hương thơm kì lạ của một thế giới dày đặc chất thơm đến mức dường như không thể tưởng tượng được ngày nay, nhưng chúng ta có thể tái hiện chúng nhờ vào bức chân dung tuyệt tác đầy chất thơ của Edward Schafer, The Vermillion Bird [Con chim màu son].[30] Cùng với những ý tưởng và di tích Phật giáo, chất thơm đã văn minh hoá giới ưu tú Trung Quốc theo một cách hoàn toàn khác với tổ tiên Tần và Hán của họ. Người ta có thể cho rằng lịch sử Trung Quốc đã được sinh ra mới sau thế kỉ 3 CE.

Giao Chỉ đóng một vai trò quan trọng trong quá trình này. Thương mại đường biển đã tổ chức nhân lực, việc sản xuất, vốn và thương mại trong không gian địa lí này. Người ta đã trồng nhiều loại cây chất thơm gốc nước ngoài và phát triển các xưởng tinh chế để chế biến thành những sản phẩm có thể thỏa mãn thị trường Trung Quốc rộng lớn ở phía bắc. Xã hội điều chỉnh và dịch chuyển xoay quanh một nền sản xuất như vậy sẽ có kết cấu khác với xã hội dựa trên nền kinh tế tự cung tự cấp. Kết nối hàng hải rất quan trọng đối với một xã hội và nền kinh tế như vậy. Vị trí của Giao Chỉ trong việc du nhập các loại cây chất thơm lạ gợi cho chúng ta nhớ đến Hong Kong thế kỉ 19 với tư cách là cảng chính của Trung Quốc, còn vai trò của Giao Chỉ như là trung tâm sản xuất thủ công gợi nhớ đến Quảng Đông thế kỉ 17. Không chút gì có thể khác hơn với hình ảnh một vùng quê Đại Việt truyền thống mà chúng ta đã quen thuộc.

Việc sản xuất dường như được giới tinh hoa tổ chức trong các trang viên của họ gần với các ngôi chùa. Không có nguồn tài liệu lịch sử chính thức nào của Việt Nam ghi lại hoạt động sản xuất như vậy nhưng với việc giữ bí mật trong sản xuất hàng hoá có giá trị cao thì việc không có ghi chép chính thức không phải là chỉ số về tầm quan trọng tương đối của nó đối với nền kinh tế địa phương. Quả thật, kiểu hình này đã tự lặp lại trong khu vực vào thế kỉ 14 và 15 với sự hình thành ngành gốm sứ ở Đại Việt, điều này sẽ được thảo luận ở Chương 6. Quan hệ giữa quyền lực chính trị địa phương và hai ngành sản xuất thủ công – chất thơm trong thiên kỉ thứ nhất và gốm sứ trong thiên kỉ thứ hai – vẫn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, tầm quan trọng của kết nối hàng hải đối với việc tạo ra các thị trường trọng điểm ở Giao Châu và sau này là Đại Việt là hiển nhiên.

Tất cả những thông tin trên cho chúng ta biết điều gì về bản chất của Giao Chỉ lúc ban đầu? Quận cực nam này của đế quốc Hán là một quận có tính quốc tế ở tuyến đầu trong tiếp xúc và chịu ảnh hưởng nước ngoài. Giao Chỉ có vẻ có rất nhiều, nếu không phải là tất cả các chỉ dấu của một nền kinh tế dựa trên thương mại vốn đặc trưng hoá bằng việc trồng cây thương mại của thế kỉ 17 được ghi chép rất đầy đủ cho tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc hay cho đồng bằng sông Mekong thế kỉ 18 được mô tả trong Chương 9 hơn là những ý tưởng thông thường của chúng ta về nền kinh tế của Việt Nam cổ. Điều này đặc biệt đúng khi nói đến vai trò của hàng hải, mà nếu không có nó thì thời kì Giao Chỉ trong lịch sử Việt Nam đơn giản là không bao giờ có thể xảy ra như đã thấy quá rõ ràng hiện nay.

Theo các nhà sử học Hong Kong, cái tên ‘Hong Kong’ [香港: Hương Cảng], ‘cảng thơm’, bắt nguồn từ những cây chất thơm thường mọc ở khu Taipo [大埔: Đại Phố] và khu Shatin [沙田: Sa Điền]. Những cây này đã được du nhập từ An Nam vào thời nhà Đường và trở nên quan trọng về mặt thương mại đối với nền kinh tế địa phương của huyện Đông Hoàn bao gồm thành phố Hong Kong và Thâm Quyến ngày nay. Chất thơm của Dongguan (東莞: Đông Quản/Hoàn), được gọi là guanxiang [莞香: quản hương], đã trở nên nổi tiếng từ thời nhà Nguyên. Người dân địa phương đã tinh chế và tập trung chúng tại cảng Aberdeen ngày nay để bán cho các thương nhân đường biển, họ vận chuyển đến Quảng Châu và các cảng lớn của đồng bằng sông Dương Tử và xa hơn nữa.[31]

Quan hệ giữa chất thơm và các chùa Phật cho thấy mối liên kết sâu sắc giữa lịch sử thương mại, văn hoá và tôn giáo vốn được ghi nhận trong các thời kì sau của lịch sử Việt Nam, một nối kết được tạo ra bởi sự lưu thông trên biển. Các khía cạnh quan trọng của Phật giáo và các chất thơm chính yếu đã đến Giao Châu thông qua giao thông đường biển ngày càng tăng của Ấn Độ Dương, mà các dòng văn hoá và thương mại của nó tới lượt chúng lại củng cố các nối kết của Giao Chỉ với thế giới gắn với biển ở biển Nam. Trong sách sử hiện còn, chúng ta thấy những ảnh hưởng đa dạng từ thế giới bên ngoài tràn vào bờ biển. Ví dụ, phái Kim Cương thừa (Vajrayana) hay Mật tông (Tantra) của Phật giáo đã đóng một vai trò quan trọng ở Giao Chỉ vào thế kỉ 6 và 7 và các quan hệ hàng hải của nó với những nơi xa xôi như Sri Lanka là rõ ràng, một nối kết đặt Giao Chỉ một cách chắc chắn vào bối cảnh của môi trường Đông Nam Á hoặc biển Nam mà nó đã là một phần từ lâu và chỉ ra những quan hệ quan trọng khác của thiên kỉ thứ nhất như với Java và Champa đáng được xem xét thêm. Những phát hiện như vậy cho thấy rằng những giả định của chúng ta về ảnh hưởng chủ yếu của Trung Quốc đối với Phật giáo Việt Nam, vốn chỉ trở nên sâu sắc hơn với sự trỗi dậy của phái Trúc Lâm vào thế kỉ 13, sai lầm đến mức độ nào. Tương tự, ngay cả chỉ mới liếc nhìn tới tôn giáo, thương mại và xã hội dưới thời Giao Châu và An Nam cũng cho thấy rõ điều tương tự cũng xảy ra với Nho giáo. So với Phật giáo, bằng chứng trong các nguồn tài liệu lịch sử là rất ít. Quả thật, khi Nho giáo hình thành một cách cụ thể trong xã hội đồng bằng sau khi Đại Việt trỗi dậy, nó dường như đã hình thành phần lớn nhờ vào các quan hệ hàng hải tiếp tục của Giao Chỉ cũ với Trung Quốc dưới triều đại nhà Tống mới.[32]

Tuy nhiên, ở phía nam đồng bằng sông Hồng, có vẻ như các quan hệ hàng hải, công nghiệp chất thơm và văn hoá Phật giáo kết hợp với nhau tạo ra một kết quả khác biệt, bắt đầu từ rìa xa nhất của đế quốc Trung Hoa, kết quả đó sẽ xúc tác cho sức mạnh của bờ biển ở khu vực ngày nay là miền Trung Việt Nam và thiết lập một động lực chính trị mạnh mẽ có thể định hình khu vực trong hơn một thiên kỉ. Đây là câu chuyện về Lâm Ấp mà chúng ta sẽ khám phá trong chương sau.

3 ‘CÁI bến và CON đường của mọi nước’

Lâm Ấp, 200-700 се

Để hiểu đầy đủ lịch sử Giao Chỉ, phải nhìn vượt khỏi thế giới của tổ tiên người Việt ở đồng bằng sông Hồng và nhìn về phía Nam, vào lãnh thổ của khu vực ngày nay là miền Trung Việt Nam.

Quận cực nam của đế quốc Hán tại khu vực Quảng Bình đến Quảng Nam ngày nay rất xa với triều đình ở Trường An đến nỗi nó được gọi là Nhật Nam, ‘Phía nam mặt trời’. Đây là trung tâm tương tác giữa đế quốc Hán, thương mại đường biển Trung–Ấn và việc di dân của các nhóm ngôn ngữ khác nhau vào khu vực. Trên vùng đất này vào thế kỉ 2 CE, một vương quốc tên là Lâm Ấp đã xuất hiện trong sử sách Trung Quốc. Vươn lên từ nền tảng thương mại – chủ yếu dựa vào việc vận chuyển đường dài giữa Trung Quốc và Ấn Độ và thu thập hàng hoá nước ngoài cho xuất khẩu – nó đã tách khỏi các lãnh chúa Hán và bắt đầu hun đúc vận mệnh chính trị của riêng mình. Ngay sau khi thành lập, Lâm Ấp đã trở thành đối thủ thương mại và chính trị của Giao Chỉ và các thực thể kế tục nó. Điều này sẽ phát triển, vào thế kỉ 7 CE, thành nơi được coi là ‘vương quốc’ Champa.

‘Bọn man di vận chuyển hàng’ thế kỉ 1 BCE là ai ?

Từ năm 300 BCE đến năm 300 CE, các bộ tộc (chiefdom) ven biển trên khắp Đông Nam Á bắt đầu tham gia vào nền kinh tế thương mại đường biển đang phát triển của châu Á. Điểm khởi đầu của quá trình toàn cầu hoá đầu tiên này cũng trùng hợp với cuộc di cư ồ ạt của người Việt (Yue) từ đồng bằng sông Dương Tử, được thảo luận ở Chương 1. Ở Ấn Độ, thời kì này chứng kiến sự trỗi dậy của các đế quốc và sự phân mảnh sau đó của chúng thành các vương quốc cạnh tranh nhau. Việc đi lại bằng đường biển trở nên thường xuyên và mạng lưới trở nên dày đặc. Các chuyến đi buôn đường dài trên biển giữa Trung Quốc và Ấn Độ trở nên thường xuyên và thông tin về các tuyến đường biển chi tiết đến mức nó xuất hiện trong Hán thư:

Từ rào chắn Nhật Nam, Từ Văn và Hợp Phố, mất khoảng 5 tháng để đến nước Duyuan [都元: Đô Nguyên]… [33] Những nước này rộng lớn, dân số đông và có nhiều sản phẩm lạ (đồ quý hiếm). Kể từ thời Vũ Đế [141-87 BCE], họ đã đến dâng cống. Có những thông ngôn trưởng trực thuộc Hoàng Môn cùng với các người tình nguyện ra khơi mua ngọc trai sáng bóng, thủy tinh, đá quý và các sản phẩm lạ để đổi lấy vàng và tơ lụa. Tất cả các nước mà họ đến đều cung cấp cho họ hàng hoá và tình bạn. Phải chuyển thuyền buôn của bọn man nhiều lần mới tới điểm đến. Đó là một công việc làm ăn có lãi [đối với bọn man di], bọn chúng cũng cướp bóc và giết người… Đi tiếp khoảng 8 tháng nữa thì đến biên giới Nhật Nam và Tượng Lâm [chữ nghiêng được thêm].[34]

Đoạn văn này đã trở thành kinh điển và được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử hàng hải châu Á trích dẫn, nhưng Ng Chinkeong gần đây đã đưa ra hai điểm then chốt đáng được nhắc lại: Việc vận chuyển hàng hoá giữa Trung Quốc và Ấn Độ cần ‘nhiều lần chuyển thuyền buôn của bọn man’.[35] “Nhiều lần chuyển thuyền này” sẽ đặt các cảng lớn Hợp Phố, Từ Văn, và Lạch Trường được thảo luận ở Chương 1 vào trong chuỗi hành trình dài liên Á kéo dài từ Trung Quốc và vịnh Bắc Bộ tới Ấn Độ. Ở đây, Ng đặt ra một câu hỏi quan trọng: ‘bọn thương lái người man’ đó là ai?[36]

Cả Vương Canh Vũ [Wang Gungwu] và Paul Wheatley đều tin rằng người Việt ở bờ biển phía nam Trung Quốc đóng một vai trò quan trọng trong vận tải đường biển. Quả thật, trong nghiên cứu xuất sắc The Golden Khersonese của mình, Wheatley đã khẳng định trực tiếp rằng ‘các thủy thủ Việt gần như chắc chắn là những người vận chuyển cả hàng hoá lẫn thương nhân’ ở vịnh Bắc Bộ và trên bờ biển Đông.[37] Nhưng đi đường dài đến Ấn Độ lại là một vấn đề hoàn toàn khác, và ở đây, cái đoạn văn thường được nhắc đi nhắc lại của triều đại nhà Hán nêu rõ rằng nó được thực hiện bởi tàu thuyền nơi khác, bởi ‘bọn man di’, nghĩa là những sắc dân bên ngoài Trung quốc. Cách mà Ng xác định thuyền vận chuyển có thể là của ai là rất khôn khéo, qua việc phân biệt các nước cùng thời đã vươn lên trở thành cường quốc biển lớn ở khu vực biển Đông trong thời kì này. Cuối cùng, ông xác định được hai ứng viên: Phù Nam và Chăm. Ng giải thích: ‘Chúng ta có thể giả định một cách hợp lí rằng người Phù Nam và người Chăm là những thủy thủ có tay nghề có khả năng thực hiện việc chuyển hàng ngay cả trước khi vương quốc của họ được thành lập.’[38]

Quan điểm của Ng có tính khai sáng, và một khi nó được đưa vào phương trình thương mại liên Á trong thời này, nhiều mảnh thông tin lạc lõng lại dễ dàng trở thành ăn khớp với nhau.[39] Kenneth Hall chỉ ra rằng trong giai đoạn đầu của quá trình Ấn Độ hoá, ‘các bộ tộc Phù Nam làm trung gian cho các giao dịch thương mại ban đầu này với tư cách là những người chủ xướng và tổ chức cảng Phù Nam và dân Malay của nó’.[40] Phù Nam thế kỉ 3 (tiếng Khmer đọc là bnam; tiếng Trung trung cổ phát âm 扶南 [phù nam] là /bñịu năm) có năng lực đóng tàu thuyền lớn có thể chở hàng trăm hành khách, như hai viên quan Trung Quốc đã đến biển Nam vào năm 243 CE đã thuật lại (xem Chương 2).[41] Điều đáng nói hơn nữa là cũng chính hai vị quan này từng ra đi từ cảng Nhật Nam ở cực nam Giao Chỉ, đã lưu ý rằng cảng của nó, Lurong 卢容 (Lô Dung), ‘thường là cửa ngõ cho [người] khởi hành đi Phù Nam và các nước xa hơn’.[42] Một kinh sách Đạo giáo khác thế kỉ 4 ghi lại hành trình từ Lâm Ấp đến Phù Nam: “Từ đầm Thọ Linh đi thuyền về hướng Nam không ngừng nghỉ suốt hơn 10 ngày đêm sẽ đến Phù Nam”. Bác thuyền (駁船: tàu hàng) khởi hành từ Thọ Linh đi liên tục không nghỉ trong 15 ngày sẽ đến Dianxun [典遜: Điển Tốn]’ (được mô tả trong Chương 2).[43]

Một khi đã nhấn mạnh đúng cụm từ đáng chú ý “chuyển thuyền nhiều lần”, chúng ta có thể thấy những lần chuyển thuyền đó xảy ra ở đâu: đầu tiên ở Nhật Nam, sau đó là Phù Nam, và sau đó là Điển Tốn, ở vùng cổ chai bán đảo Malay. Các tàu hàng ở Nhật Nam phải là tàu đi biển ít nhất cũng ngang bằng với tàu Khmer của Phù Nam. Do đó, cả hai cảng này đều tạo thành trạm trung chuyển chính trong vận tải biển Trung–Ấn. Dù vị trí chính xác của hai cảng vẫn chưa được xác định chắc chắn,[44] chúng ta vẫn có thể chắc chắn rằng điểm chuyển tiếp đầu tiên là ở Nhật Nam nằm ở phía bắc miền Trung Việt Nam, và theo thời gian, các phần của quận Giao Chỉ sẽ tách ra để trở thành chính thể chế cảng (port polity) mà các nhà sử học Trung Quốc gọi là Lâm Ấp, một tiền thân quan trọng của phần phía bắc của một thể chính trị thương mại nổi tiếng hơn, Champa. Lịch sử gắn với biển của Việt Nam sẽ không trọn vẹn nếu không có chúng, vì ảnh hưởng của chúng đối với thương mại và văn hoá ở Giao Chỉ và Đại Việt là rất sâu đậm. Với điều đó trong đầu, chúng ta hướng sự chú ý về phía Nam, rời đồng bằng sông Hồng đến bờ biển miền Trung Việt Nam và câu chuyện Lâm Ấp.

Có mọi lí do vì sao Lâm Ấp được gọi là ‘CÁI bến và CON đường của mọi nước’ (眾國津逕: chúng quốc tân kính), như nguồn tài liệu thế kỉ 5 Lâm Ấp kí (Ghi chép về Lâm Ấp) đã trang trọng khẳng định.[45] Lâm Ấp đã cung cấp nhiều con đường thương mại, bằng đường bộ và đường biển. Bằng đường biển, đây là cơ sở trung chuyển chính ở vùng châu Á biển. Trên bộ, Lâm Ấp nối liền mạng lưới xuyên Mekong của vùng Đông Nam Á đất liền với bờ biển biển Đông. Tuyến đường giao thương dễ dàng và quan trọng nhất của toàn bộ dãy Trường Sơn chạy qua đèo Ai Lao [Lao Bảo ?] phía tây Quảng Trị gần biên giới Lào), qua đó hàng hoá được vận chuyển từ khu vực sông Mekong vào trung tâm Lâm Ấp và sau đó tới biển. Bốn trong số những khu phức hợp thời đại đồ sắt sơ khai quan trọng nhất được tìm thấy ở khu vực này đều nằm ở đây, tất cả đều gần sông Thạch Hãn và các nhánh của nó.[46] Tuyến đường này vẫn còn cho Lào lối đi chính ra biển. Lâm Ấp rất quan trọng vì nó kết hợp giao thông biển và núi lại với nhau, và đây chính là nền tảng mà sự thịnh vượng của Lâm Ấp dựa vào.

Sa Huỳnh, Nhật Nam và sự trỗi dậy của Lâm Ấp

Đầu thế kỉ 20 giới học giả không chắc liệu biên giới phía nam của quận Nhật Nam, và do đó của đế quốc Hán, có nằm ở đèo Hải Vân, một con đèo hiểm trở ôm lấy bờ biển miền Trung Việt Nam, ngay phía bắc thành phố Đà Nẵng hiện nay, hay nó còn mở rộng về phía nam tới tận thung lũng sông Thu Bồn của Quảng Nam. Những phát hiện khảo cổ ở Quảng Nam những năm 1990 đã chấm dứt nghi ngờ đó. Bây giờ có thể chắc chắn rằng trong thế kỉ 1 BCE, gương và bình bằng đồng, dao sắt, đồ gốm và tiền đồng có nguồn gốc từ Trung Quốc đã đến thung lũng Thu Bồn, nơi phát triển một trung tâm thương mại cho hàng hoá Ấn Độ, Trung Quốc và nội địa.[47] Điều này chứng tỏ quan điểm của Đào Duy Anh rằng trung tâm của Tượng Lâm (rừng voi), huyện cực nam của Nhật Nam, nằm ở Trà Kiệu, nay là một làng trong đất liền thuộc tỉnh Quảng Nam, ở ngay trung tâm vùng văn hoá Sa Huỳnh, cách biển khoảng 25 km.[48] Năm 2004, các nhà khảo cổ đã khai quật một ngôi mộ ở Lai Nghi (200 BCE-100 CE) thuộc tỉnh Quảng Ngãi, miền Trung Việt Nam, có chứa 6 chiếc bình bằng đồng kiểu Hán nằm bên cạnh đồ gốm Sa Huỳnh và một chiếc đục sắt trong số các mộ chum ở Sa Huỳnh mà họ xác định niên đại khoảng thế kỉ 3 CE.[49] Về thời kì cùng chung sống này, kéo dài từ 100 đến 300 CE này, nhà khảo cổ Việt Nam Lâm Mỹ Dung chỉ ra:

Lâm Ấp và các thể chính trị (polity) giống Lâm Ấp của miền Trung Việt Nam từ k. 100 đến 400 ce được thành lập dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của người Hán trong khi ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ tăng lên vào khoảng năm 400 và 500 ce.[50]

Cũng trong khoảng thời gian này, trong đầu thế kỉ 2 CE, thế lực của đế quốc Hán suy yếu, thành Trà Kiệu đã được xây dựng.[51] Không còn có thể sử dụng con đường tơ lụa trên đất liền xuyên qua Trung Á, thương mại đường dài của Trung Quốc chuyển sang đường biển. Điều này buộc phải tái tổ chức nền kinh tế thương mại ở vịnh Bắc Bộ, dẫn đến sự xuất hiện của một thể chính trị thương mại mới trên vùng đất giành được từ tay nhà Hán.

Sự trỗi dậy của Lâm Ấp không phải ngẫu nhiên: Nó nằm ở vị trí lí tưởng giữa Giao Chỉ, cảng chính của đế quốc Hán ở miền nam Trung Quốc, và Óc Eo, một trung tâm trung chuyển lớn phục vụ thương mại đường dài lưu thông giữa biển Nam và Phương Đông La Mã.[52] Những mặt hàng lạ được đưa từ nước ngoài vào Trung Quốc qua Nhật Nam xuất hiện nhiều lần trong các ghi chép lịch sử. Ví dụ:

Năm 84 ce Jiubushi (舊補史: Cựu Bộ Sử) [Campuchia] đã gửi tê giác và chim trĩ trắng qua ngã Nhật Nam;

Năm 131, vua Yediao (葉調: Diệp Điều) [Java] phái sứ giả qua ngã Nhật Nam;

Vào năm 157 và 159 Tianzhu (天竺: Thiên Trúc) [Ấn Độ] nhiều lần phái sứ giả qua ngã Nhật Nam;

Năm 166, vua Đại Tần [vua La Mã Antoninus Pius] đã gửi ngà voi, sừng tê giác và vỏ đồi mồi qua ngã Nhật Nam.

Năm 172, nước ngoài gửi cống phẩm qua Nhật Nam sau nhiều lần thông ngôn.[53]

Một danh sách như vậy có thể chỉ thể hiện cho một số ít trong số hàng chục giao dịch ngoại giao được ghi lại và hàng trăm, nếu không muốn nói là hàng ngàn giao dịch đủ loại đã được tiến hành giữa nước Trung Hoa nhà Hán và thế giới qua ngã Nhật Nam vào thời đó, vì quận này từ lâu đã có được vị trí như bên trung gian quan trọng nhất của đế chế trong hoạt động thương mại đường biển của đế chế với nước ngoài. Sau các cuộc nổi dậy, chức năng này cũng không thay đổi. Tuy nhiên, sự giàu có của thương mại đường biển từng khêu gợi sự sáng tạo của Nhật Nam và làm giàu cho triều đình nhà Hán đã chuyển dòng chảy của nó vào túi tiền của tầng lớp thượng lưu mới nổi lên ở quận li khai này mà ngày nay được cả thế giới gọi là Lâm Ấp.

Các phát hiện khảo cổ học khẳng định cách nhìn này về Lâm Ấp và cấp cai trị cũ của nó, quận Nhật Nam. Các hạt chuỗi có nguồn gốc Ấn Độ đứng đầu danh sách các mặt hàng mà Nhật Nam buôn bán trong khu vực. Hoạt động buôn bán này được phản ánh qua các hiện vật khảo cổ được phát hiện trên khắp vùng vịnh Bắc Bộ. Ví dụ, trong một ngôi mộ ở Hợp Phố, các nhà khảo cổ đã tìm thấy 5000 hạt thủy tinh, cùng với nhiều loại hạt khác như pha lê, carnelian, vàng và mã não.[54] Những hạt như thế này cũng đã được tìm thấy trong các cuộc khai quật di tích Chăm, chẳng hạn như ở Lai Nghi, nơi mà theo Reinecke, hơn 10 000 hạt chuỗi đã được tìm thấy.[55] Điều này dường như là một phần của xu hướng lớn hơn, trong đó các tuyến thương mại Đông Nam Á mở rộng để hợp nhất các hệ thống trao đổi riêng biệt và nhỏ hơn trước đây thành một chuỗi mạng lưới đan xen nhau kéo dài từ Tây Âu đến Trung Quốc qua Địa Trung Hải, vịnh Ba Tư (Iran) và biển Đỏ, Ấn Độ Dương và biển Đông.[56] Khi điều này xảy ra, các làng có quy mô nhỏ ở vùng Sa Huỳnh đã hội nhập các hoạt động kinh tế, chính trị và văn hoá của họ vào các mạng lưới thương mại và trao đổi lớn hơn này. Giao Chỉ và lãnh chúa người Hán của nó đã khuyến khích thương mại trong khu vực, điều này đã đẩy nhanh sự phân hoá giai cấp, thể hiện qua những ngôi mộ của người giàu và người nghèo ở Lai Nghi.[57] Những người đứng đầu làng xã ở những nơi như Lâm Ấp đã mở rộng phạm vi ảnh hưởng của họ đủ rộng để hình thành các vương quốc dựa trên các hình thức thể hiện chính trị và tôn giáo mới.[58]

Khu vực sông Thu Bồn, trong đó có lãnh thổ cực nam của quận Nhật Nam, huyện Tượng Lâm hay ‘rừng voi’, là ứng viên có nhiều khả năng nhất cho vị trí ban đầu của Lâm Ấp. Huyện này không chỉ cách xa nhà Hán về mặt địa lí; nó cũng xa xôi về mặt chính trị – một nơi phù hợp với câu nói của người Trung Quốc, ‘sơn cao, hoàng đế viễn’ (núi thì cao, vua thì xa). Trên thực tế, sử sách của người Hán không cho thấy bằng chứng nào về bất kì khoản thuế nào đã từng được thu từ Tượng Lâm. Một khu vực xa xôi về mặt chính trị nhưng lại chiếm vị trí quan trọng trong thương mại đường dài đã trở thành ứng viên cho một vương quốc mới nổi.[59]

Khu vực Thu Bồn của Tượng Lâm cũng là mục tiêu chính trong các cuộc nổi dậy tiếp theo của Nhật Nam trong các năm 136, 137, 144 và 160 mà triều đình nhà Hán ghi lại. Năm 178, người dân địa phương ở Nhật Nam liên minh với người ở quận Hợp Phố (Quảng Tây) và Cửu Chân (Thanh Hoá) của nhà Hán tấn công dinh phủ của chính quyền Giao Chỉ ở Luy Lâu, cuộc nổi dậy khiến quan lại Giao Chỉ phải mất 3 năm mới dẹp xong.[60] Hậu quả của những cuộc nổi dậy này là quyền kiểm soát của Trung Quốc đối với vùng đất ‘Phía Nam Mặt trời’ bị suy yếu, đến mức ngay cả những kiến thức cơ bản cũng khó có được. Chẳng hạn, không ai biết chính xác Lâm Ấp đã tuyên bố độc lập lúc nào; một số người cho rằng điều đó xảy ra vào năm 192 CE, trong khi những người khác nói xảy ra sớm hơn nửa thế kỉ, vào năm 136 CE. Dù như thế nào, rõ ràng là nhà Hán đã mất quyền kiểm soát trên thực tế đối với vùng đất Tượng Lâm vào khoảng thế kỉ 2 CE.

Có thể hình dung rằng một số cư dân Trung Quốc ở Tượng Lâm đã tham gia vào cuộc nổi dậy và hình thành một bộ phận của tầng lớp tinh hoa tạo nên vương quốc mới. Suy cho cùng, phải có lí do vì sao tên Lâm Ấp vẫn giữ lại chữ lâm (rừng) của tên Hán cổ Tượng Lâm (rừng voi), thay vì lấy một tên mới theo tiếng Môn-Khmer hay Chăm. Tính liên tục phải là một yếu tố cần cân nhắc khác để giữ âm tiết quen thuộc với các đối tác thương mại của Tượng Lâm.

Ngay từ khi bắt đầu tồn tại như một nước độc lập, Lâm Ấp đã tìm cách mở rộng lãnh thổ về phía bắc chiếm lấy toàn bộ quận Nhật Nam và vẫn kiên trì nỗ lực làm điều đó. Vào năm 248 CE, quân của họ đã đánh bại quân Giao Châu và do đó đã đẩy biên giới của họ về phía bắc tới khu vực sông Gianh làm Trung Quốc chịu tổn thất. Đây cũng chính là khu vực phân chia lãnh thổ của Trịnh/Nguyễn sau này vào thế kỉ 17 và 18, và miền Bắc và miền Nam Việt Nam trong thế kỉ 20. Gần một thế kỉ sau, vào năm 347, Lâm Ấp tiến quân đến Thanh Hoá, đuổi nhiều người ra khỏi vùng này đến nổi ‘hàng ngàn không thấy có khói nấu cơm’ (1 = 500 mét, tức là hàng trăm km).[61] Cùng năm này, Lâm Ấp đẩy biên giới về phía bắc đến đèo Đèo Ngang. Tuy nhiên, chúng ta không thể chắc liệu cái gọi là ‘biên giới’ phía bắc này có từng tồn tại ở khu vực này hay không. Nội dung các ghi chép của Trung Quốc chỉ cho thấy rằng họ đã mất quyền kiểm soát hoàn toàn khu vực được đề cập, trong khi có một biên giới rộng lớn và rộng mở giữa Lâm Ấp và quận Cửu Chân (Thanh Hoá) của nhà Hán, nơi Giao Chỉ vẫn giữ quyền kiểm soát tương đối vững chắc. Kết quả của việc mở rộng về phía bắc này là khu vực hẻo lánh, núi đồi và dân cư thưa thớt mà chúng ta gán nó là Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay đã đóng một vai trò then chốt trong lịch sử của Lâm Ấp, một vai trò dựa trên hoạt động buôn bán lâu đời cây cỏ thơm trong khu vực.

[1] Chỉ có một học giả Giao Chỉ là Khương Trọng Phụ (Jiang Zhongfu, 730-805), được sử sách xác định là đỗ đạt ở phủ Đô hộ An Nam (tên của Giao Chỉ thời Đường). Ông nội và cha ông đều là người Ái Châu (Thanh Hoá), nhưng là những quan chức Trung Quốc tiêu biểu, họ đều phục vụ xa nhà với tư cách là các quan đầu quận ở miền Trung Trung Quốc. Về mặt thực tế thì Phụ hẳn phải được giáo dục ở ngoài An Nam (Lê Trác, An Nam Chí Lược , tr. 347).

[2] Vương Diễm 王琰, Ư Giao Chỉ Hiền pháp sư sở thụ ngũ giới’ 於交阯賢法師所受五戒’. Minh tường kí 冥祥記 [Ghi chú về các dấu hiệu từ thế giới u ám], biên soạn vào thế kỉ 5( https://zh.m.wikisource.org/zh-hant/冥祥記, truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2017). Cuốn sách này chứa đầy những câu chuyện về sức mạnh kì diệu của các tu sĩ Phật giáo. Sự giáo dục trước đây mà Wang nhận được ở Giao Chỉ có thể đóng một vai trò nào đó.

[3] Shawn F. McHale, Print and Power: Confucianism, Communism, and Buddha in the Making of Modern Vietnam (Honolulu: Hawaii University Press, 2004), trang 12-13.

[4] Trần Văn Giáp, Contribution à l’étude des livres bouddhiques annamites conservés à l’ecole française d’Extrême-Orient河內遠東考古學院現 藏越南佛典略編 (Tokyo: Guoji fojiao xuehui, 1943).

[5] Lưu Ngọc Quân 劉玉珺, Việt Nam Hán nôm cổ tịch đích văn hiến học nghiên cứu 越南漢喃古籍的文獻學研究 (Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 2007), tr. 109.

[6] Trần Ích Nguyên 陳益源, Việt Nam Hán tịch văn hiến thuật luận 越南漢籍文獻述論(Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 2011), tr. 55.

[7] Wang Gungwu, Nam hải mậu dịch dữ Nam dương Hoa nhân [Thương mại ở biển Đông và người Trung Quốc ở biển Đông] (Hong Kong: Zhonghua shuju, 1988), trang 72-75.

[8] Thủy lục toàn tập, chưa xuất bản ms., Microfilm, École française d’Extrême-Orient, AC 270, EFEO_VIE08526_3.

[9] Richard O’Connor, ‘Sukhothai: Rule, Religion and Elite Rivalry’, trong James Chamberlain (ed.), The Ram Khamhaeng Controversy (Bangkok: The Siam Society, 1991), trang 288-291; Victor Lieberman, Strange Parallels: Integration on the Mainland (Ann Arbor: Đại học Michigan, 2001), trang 95-96.

[10] Về điểm này, xem Charles Wheeler, ”Buddhism in the Re-Ordering of an Early Modern World: Chinese Missions to Cochinchinese in the Seventeenth Century’ Phật giáo trong việc sắp xếp lại một thế giới hiện đại sơ khai: Những đoàn sứ của Trung Quốc tới Nam Kì trong thế kỉ 17′, Journal of Global History 2 (2007), 303-324.

[11] Khuất Đại Quân, Quảng Đông tân ngữ 廣東新語 [Bình luận mới về Quảng Đông] (Quảng Châu: Guangdong renmin chubanshe, 1991), tr. 596.

[12] Chu Gia Trụ 周嘉胄, Hương thừa 香乘, tr. 389. Một nguồn đương thời giải thích rằng anisochilus (paixiang 排香: bài hương) là một loại cây thân thảo hàng năm.

[13] Treatises of the Supervisor and Guardian of the Cinnamon Sea: The Natural World and Material Culture of Twelfth Century China [Chuyên luận của Người giám sát và Người bảo vệ Biển Quế: Thế giới tự nhiên và văn hoá vật chất của Trung Quốc thế kỉ 12], bản dịch của Fan Chengda, Quế hải ngu hành chí 桂海虞衡志, trans. James Hargett (Seattle: University of Washington Press, 2011), 238. Nguồn này nói rằng anisochilus có nguồn gốc từ Nhật Nam và hương của nó nồng như xạ hương.

[14] Hương thừa , tr. 394.

[15] Khuất Đại Quân, Quảng Đông tân ngũ , tr. 596.

[16] Võ Dũng, ‘Dân Quyết Thắng khá giả nhờ nghề làm hương’, BNews online, 2/9/2016 ( http://bnews.vn/dan -quyet-thang-kha-gia-nho-nghe-lam-huong-tram/9098.html , truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2018).

[17] Trần Kính, Trần thị hương phố , tr. 251.

[18] Hai loại cây này được đề cập trong Phạm Thành Đại, Quế hải ngu hành chí, ed. Qi Zhiping (Nam Ninh: Guangxi minzu chubanshe, 1984), tr. 10.

[19] Phạm Thành Đại, Quế hải ngu hành chí, tr. 10.

[20] Bedini, Trail of Time [Dấu vết thời gian] , tr. 37.

[21] https://zhuanlan.zhihu.com/p/95533477 , truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2020.

[22] Về cánh kiến trắng (storax), xem Paul Wheatley, ‘Geographical Notes on Some Commodities Involved in Sung Maritime Trade’, Journal of the Malayan Branch of the Royal Asiatic Society 32, 2 (1959), 268-269.

[23] ‘蘇合消疫之香’ (tô hợp tiêu dịch chi hương: cánh kiến trắng là phương thuốc chữa bệnh dịch) (https://zh.wikisource.org/wiki/太平御覽__(四庫全書本)/卷0982 , truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2020

[24] Oliver Wolters, Early Indonesian Commerce: A Study of the Origins of Śrīvijaya [Thương mại Indonesia thời kì đầu: Nghiên cứu về nguồn gốc của Śrīvijaya] (Ithaca, NY: Nxb Đại học Cornell, 1967), tr. 116.

[25] Wolters viết: ‘Giao Châu kí, theo quan điểm của Pelliot, không thể muộn hơn nửa đầu thế kỉ 5.’ Early Indonesian Commerce, tr. 81.

[26] Nguyên văn tiếng Trung: ‘藿香似蘇合謂其香味相似也.’ [hoắc hương tự tô hợp vị kì hương vị tương tự dã] Nguồn tài liệu Xiangsheng thế kỉ 17 cho rằng điều này là do 交州記 Giao Châu kí của 劉欣期 Lưu Hân Kì, được viết vào thế kỉ 4. Xem Xiangsheng , tr. 387. Để biết thêm về Giao Châu kí , xem ( zh.wikisource.org/wiki/太平御覽/0982#藿香, truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2015).

[27] Pierre Gourou, The Peasants of the Tonkin Delta: A Study of Human Geography (New Haven: Human Relations Area Files, 1955), tập. 1, tr. 527; Alexander. B. Woodside, Vietnam and the Chinese Model: A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century [Việt Nam và Mô hình Trung Quốc: Nghiên cứu so sánh Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc trong nửa đầu thế kỉ 19] (Cambridge, MA: Trung tâm Châu Á của Đại học Harvard, 1988), tr. 31; 陳荊和 Trần Kinh Hoà, 越南東京地方之特征 ‘Kẻ [‘Việt Nam Đông Kinh địa phương chi đặc trưng “Kẻ”‘] (Cái tên độc đáo ‘Kẻ’ ở vùng Tongking của Việt Nam), Guoli Taiwan daxue wenshi zhexuebao 1 (1950), 217.

[28] Lê Phương, ‘Cao Thôn: Làng nghề hương xạ nổi tiếng đất Hưng Yên’, Đài phát thanh Việt Nam trực tuyến, 30/10/2017 ( http://vovworld.vn/vi-VN /chuyen-cua-lang/cao-thon-lang-nghe-hương-xa-noi-tieng-dat-hung-yen-599014.vov , truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2019).

[29] Những cây nhang mà chúng ta thấy ngày nay chỉ thể hiện một phần trăm mức độ tinh xảo và vẻ đẹp mà các sản phẩm thơm đạt được cách đây một ngàn năm – quả thật, việc sản xuất hàng loạt trong vài thế kỉ qua trên thực tế đã biến chúng thành một thứ gì đó tương đối thô tục. Trong khi công nghệ nước hoa ngày càng phát triển tinh vi hơn theo thời gian trong nền văn hoá phương Tây thì nó lại suy giảm ở phương Đông – nơi bắt đầu các xưởng tinh chế chất thơm – và trở thành một phần của nền văn hoá “thấp hơn”.

[30] Edward H. Shafer, The Vermillion Bird: T’ang Images of the South (Berkeley: University of California Press, 1967). Là bức tranh toàn cảnh về vùng đất phía nam của đế chế nhà Đường, An Nam hay Giao Chỉ nổi bật.

[31] La Hương Lâm 羅香林, Trung Quốc dân tộc sử 中國民族史 (Hong Kong: Zhonghua shuju, 2009), tr. 311; Nhiêu Tông Di 饒宗頤, Hương Cảng sử luận tập 香港史論集 (Hong Kong: Zhonghua shuju, 2019), trang 188-191; Lin Zhunxiang 林準祥, Hương Cảng khai cảng- lịch sử tân biên 香港開港-歷史新編 [Hong Kong và sự mở đầu của nó, một lịch sử mới] (Hong Kong, Zhonghua shuju, 2019), tr. 32.

[32] Insun Yu, ‘Bilateral Social Pattern and the Status of Women in Traditional Vietnam’ [Kiểu hình xã hội song phương và địa vị của phụ nữ ở Việt Nam truyền thống], South East Asian Research 7, 2 (1999), 215-231. Yu chỉ ra rằng ảnh hưởng của Nho giáo chỉ giới hạn ở một số ít giới tinh hoa Việt Nam trong thời kì hiện đại.

[33] Trên bán đảo Malay. Có thể là Terengganu.

[34] Hán thư 漢書 hoàn chỉnh 82 CE, 28 (https://zh.m.wikisource.org/wiki/漢書, truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2010).

[35] Bản dịch của Paul Wheatley, The Golden Khersonese: Studies in the Historical Geography of the Malay Geography before AD 1500 (Kuala Lumpur: University of Malaya Press, 1961), 8, 11, dù Wheatley đã bỏ qua ý nghĩa then chốt của từ ‘nhiều’ ở đây.

[36] Ng Chin-keong, Boundaries and Beyond: China’s Maritime Southeast in Late Imperial Times (Singapore: NUS Press, 2017), tr. 11.

[37] Wang Gungwu, ‘The Nanhai Trade: A Study of the Early History of Chinese Trade in the South China Sea’, Journal of the Malayan Branch of Royal Asiatic Society 31 (1959), 23; Paul Wheatley, Khersonese vàng, tr. 283.

[38] Ng, Boundaries and Beyond, 11; Coedes đánh giá rằng Phù Nam “chắc hẳn đã bao trùm miền nam Việt Nam, vùng trung tâm sông Mekong, và một phần lớn thung lũng Menam và bán đảo Malay”. G. Coedes, The Indianized States of Southeast Asia, WF Vella (ed.), SB Cowing (trans.) (Honolulu: University of Hawaii Press, 1968), p. 36; Dự án mở rộng của Miriam T. Stark về Angkor Borei (tỉnh Takeo), nơi luôn được coi là một trong những kinh đô chính của Phù Nam, đang làm sáng tỏ lịch sử ban đầu của nước này. Miriam T. Stark ‘The Transition to History in the Mekong Delta: A View from Cambodia’ [Bước chuyển đổi lịch sử ở đồng bằng sông Cửu Long: Góc nhìn từ Campuchia], International Journal of Historical Archaeology 2, 3 (1998), 175-203.

[39] Ian Mabbett chỉ ra rằng các trung tâm nội địa đông dân cư tạo ra thặng dư nông nghiệp nhằm mục đích trao đổi ở các thành phố cảng ven biển: ‘Những vương quốc này kiểm soát dân cư nông nghiệp đông đúc được đan xen khá chặt chẽ bởi một mạng lưới phụ thuộc lẫn nhau về chính trị và thương mại, một mạng lưới mà những người mới đến dễ dàng tham gia vào, và qua đó các thể chế mới được truyền tải một cách dễ dàng.’ Ian Mabbett, ‘The Indianization of Southeast Asia: Reflections on the Historic Sources’, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á 8 (1977), 14.

[40] Kenneth Hall, ‘The “Indianization” of Funan: An economic history of Southeast Asia’s first state’ [Việc Ấn Độ hoá của Phù Nam: Lịch sử kinh tế của quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á’, Journal of Southeast Asian Studies 13 (1982), 85–86.

[41] Khang Thái, Ngô thời ngoại quốc truyện 吳時外國傳, trích trong Li Fang 李昉 [Lí Phưởng], Thái bình ngự lãm 太平御覽, hoàn thành 977-983 се, chương ( www.guoxue123.com/769shibu/0301/0000/019.htm, truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2000). Miksic chỉ ra rằng từ ‘bo 舶’ [bạc] trong tiếng Trung Quốc có thể thể hiện cho từ tiếng Malay có nghĩa là tàu, ‘perahu’ và là những người vận chuyển hàng hoá chính kết nối Phù Nam với các khu định cư ven biển khác ở biển Đông và Ấn Độ Dương. John Miksic, Singapore and the Silk Road of the Sea, 1300-1800 ( Singapore: Press, 2013), tr. 48.

[42] Khang Thái, Phù Nam kí 扶南記, được trích dẫn trong Lịch Đạo Nguyên 酈道元 (472-527), Thuỷ kinh chú 水經注, hoàn thành vào thế kỉ 5, chương 36 ( https://ctext.org/text. pl?node=570346&if=gb&remap=gb , truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2018).

[43] Thái thanh kim dịch thần đơn kinh 太清金液神丹經 [Kinh về loại rượu vàng trong suốt], được cho là do Ge Hong 葛洪 [Cát Hồng] (283-343 ce) viết (zh.wikisource.org/zhhans/太清金液神丹經 , truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2016). Cảng ‘Phù Nam’ ở đây lẽ ra là Óc Eo.

[44] Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời (Hà Nội: Khoa Học, 1964), 61, đối với Thọ Linh, ông Anh đặt Thọ Linh ở cảng sông Gianh. Cảng Lurung (Lô Dung) theo ông và Đặng Xuân Bằng là cảng Tư Hiền hiện nay. Về thảo luận về vị trí thứ hai, xem Li Tana, ‘The changing Landscape of the Former Linyi in the Provinces of Quang Tri and Thua Thien Hue’ [Cảnh quan thay đổi của Lâm Ấp trước đây ở các tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế] ( Singapore: Viện Nghiên cứu Đông Nam Á Yusof Ishak, Trung tâm Nalanda-Sriwijaya, loạt tài liệu nghiên cứu số 30 , 2019). Điểm mấu chốt của tôi là sự thay đổi cảnh quan trên bờ biển này thường đã đóng các bến cảng cũ và mở ra những bến cảng mới mà vị trí của cảng có thể đã thay đổi nhiều lần trong hai thiên kỉ qua.

[45] Trích trong Lịch Đạo Nguyên, Thuỷ kinh chú, chương 36.

[46] Andreas Reinecke, Lê Duy Sơn, và Lê Đình Phúc, ‘Towards a Prehistory in the Northern Part of Central Vietnam: A Review Following a Vietnamese-German Research Project 59’ [Hướng tới thời tiền sử ở Bắc Trung Bộ Việt Nam: Đánh giá tiếp sau một dự án nghiên cứu Đức – Việt 59], trong Beiträge Zur Allgemeinen Und Vergleichenden Archäologie Band , 1999, 61.

[47] Để thảo luận chi tiết về vấn đề này, hãy xem Chương 2 trong Charles Wheeler, ‘Cross-Cultural Trade and Trans-Regional Networks in the Port of Hoi An: Maritime Vietnam in the Early Modern Era’ [Mạng lưới thương mại xuyên văn hoá và xuyên khu vực tại cảng Hội An: Việt Nam gắn với biển trong kỉ nguyên hiện đại ban sơ], luận án tiến sĩ, Đại học Yale, 2001.

[48] Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, p. 48.

[49] Andreas Reinecke, ‘Early Cultures in Vietnam (First Millennium BC to Second Century AD)’ [Những nền văn hoá sơ khai ở Việt Nam (Thiên kỉ thứ nhất BC đến thế kỉ 2 AD)’, trong Nancy Tingley (ed.), Arts of Ancient Vietnam: from River Plain to Open Sea (Houston: Asia Society, 2009), p. 39; Yamagata Mariko cũng chỉ ra rằng Lâm Ấp đã trải qua vài thế kỉ nổi lên và hình thành như một thể chế ban sơ trước thời kì ‘Ấn Độ hoá’ vốn cho thấy ít tương tác với người Ấn Độ hơn người Trung Quốc. Yamagata Mariko, ”Construction of Linyi Citadels: The Rise of Early Polity in Vietnam’ [Xây dựng thành Lâm Ấp: Sự trỗi dậy của thể chế sơ khai ở Việt Nam’, trong Karashima Noboru và Hirosue Masashi (eds), State Formation and Social Integration in Pre-modern South and Southeast Asia: A Comparative Study of Asian Society [Sự hình thành nhà nước và hội nhập xã hội ở Nam Á và Đông Nam Á thời tiền hiện đại: Nghiên cứu so sánh về xã hội châu Á] (Tokyo) : Toyo Bunko, 2017), tr. 28. Pierre-Yves Manguin, người đứng đầu cuộc khai quật ở Óc Eo, chỉ ra rằng không có bằng chứng nào về sự Ấn Độ hoá từ thế kỉ 1 tơi giữa thế kỉ 3. Pierre-Yves Manguin, ‘The Archaeology of Early Maritime Polities of Southeast Asia’ [Khảo cổ học về các thể chế gắn với biển sơ khai ở Đông Nam Á’, trong Ian Glover và Peter Bellwood (eds), Southeast Asia: From Prehistory to History [Đông Nam Á: Từ thời tiền sử đến lịch sử] (London và New York: Routledge Curzon, 2004), tr. 292.

[50] Lâm Thị Mỹ Dzung, ‘Central Vietnam during the Period from 500 BC to AD 500’ [Miền Trung Việt Nam trong thời kì từ 500 BC đến 500 AD], trong Pierre-Yves Manguin, A. Mani, và Geoff Wade (eds), Tương tác ban đầu giữa Nam Á và Đông Nam Á: Suy ngẫm về xuyên văn hoá -Trao đổi đa phương (Singapore: Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, 2011), tr. 14; Thời ảnh hưởng của Ấn Độ cũng có thể được nhìn thấy qua việc đưa gạo Indica vào Đông Nam Á. Loại gạo ban đầu được đưa đến lục địa Đông Nam Á từ Trung Quốc là Oryza sativa ssp. japonica, bằng chứng được biết đến sớm nhất của nó ở Đông Nam Á, được tìm thấy ở phía đông bắc Thái Lan, có niên đại từ thế kỉ 4 CE. Xem C. C. Castillo và cộng sự, ‘Người Khmer không chỉ sống nhờ lúa: Điều tra khảo cổ học tại Angkor Wat và Ta Prohm’, Nghiên cứu khảo cổ học ở Châu Á 24 (2020), 100213:11. Điều này rất phù hợp với các bia khắc tiếng Phạn được tìm thấy ở các nagara phía nam Chăm, xem Chương 5.

[51] Yamagata Mariko, ‘Construction of Linyi Citadels: The Rise of Early Polity in Vietnam’ [Xây thành Lâm Ấp: Sự trỗi dậy của thể chế sơ khai ở Việt Nam’] tr. 42.

[52] Keith W. Taylor, The birth of Vietnam (Berkeley: Nxb Đại học California, 1983), tr. 60; Charles Higham lưu ý: ‘Các hiện vật lạ của Iran, La Mã, Ấn Độ và Trung Quốc tiết lộ sự tham gia vào một mạng lưới trao đổi, trong khi sự hiện diện của những chiếc nhẫn và con dấu được khắc bằng các kí tự của chữ viết Bà la môn xác nhận kiến thức về hệ thống chữ viết của Ấn Độ.’ The Bronze Age of Southeast Asia (Cambridge: Nxb Đại học Cambridge), tr. 333. Pierre-Yves Manguin trước đó đã chỉ ra rằng các nước chịu Ấn Độ hoá không xuất hiện ở Indonesia trước thế kỉ 4. Manguin, ‘Southeast Asian Shipping in the Indian Ocean’ [Vận tải biển Đông Nam Á ở Ấn Độ Dương], trong Himanshum Prabha Tay, và Jean-Francois Salles (eds), Tradition and Archaeology: Early Maritime Contacts in the Indian Ocean (New Delhi: Manohar, 1996), tr. 182.

[53] Phạm Diệp 范曄, Hậu Hán Thư 後漢書 [Hậu Hán thư], hoàn thành 445, chương 8, 9, 116, 118.

[54] Li Qingxin, Binhaizhidi [Đất dọc biển] (Bắc Kinh: Zhonghuashuju, 2010), tr. 12.

[55] Reinecke, ‘Early Cultures in Vietnam’ [Văn hoá sơ khai ở Việt Nam, tr. 47.

[56] Kenneth Hall, Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia [Thương mại biển và Phát triển Nhà nước ở Đông Nam Á thời kì đầu] (Nxb Đại học Hawaii, 1985); Miriam T. Stark, ‘The Transition to History in the Mekong Delta: A View from Cambodia’, International Journal of Historical Archaeology 2, 3 (1998), 177.

[57] Reinecke, ‘Early Cultures in Vietnam’, tr. 36.

[58] Ian Glover và Yamagata Mariko, ‘Excavations at Tra Kieu, Vietnam 1993’ [Các cuộc khai quật ở Trà Kiệu, Việt Nam 1993[, Southeast Asia Archaeology (1994), 85.

[59] Tầng lớp ưu tú của Tượng Lâm ở quận Nhật Nam liên tục nổi dậy chống lại sự cai trị của nhà Hán. Một văn bản thời Hán nhắc lại một sự kiện như vậy, ‘vào tháng 4 [100 CE]’, khi ‘hơn 2000 người man ở Tượng Lâm thuộc Nhật Nam cướp bóc cư dân và đốt cháy các ngôi chùa. Quân của quận được phái đến để đánh dẹp và [họ] đã giết người đứng đầu, những người theo ông ta đã đầu hàng.’ Hậu Hán Thư (Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 2013), chương 86, tập. 10: 2837.

[60] Như trên.

[61] Lịch Đạo Nguyên, Thuỷ kinh chú, chương 36.

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged , . Bookmark the permalink.