Ý nghĩa của thơ từ góc nhìn hiện tượng luận

 (Đọc Ngẫu Hứng Suy TưBến Thi Ca của Paul Vân Thuyết)

Dương Thắng

*

1. Tại sao cần suy tư về “ý nghĩa của thơ”? Trong một thời đại mà việc thương mại hóa các phương thức truyền thông khiến con người gặp muôn vàn khó khăn xfzdkhi suy nghĩ về ý nghĩa đích thực của các diễn ngôn thì một phản tư về thơ luôn có thể gợi mở ra những chỉ dẫn nền tảng cho việc nhận diện “hiện‑hữu‑trong‑thế‑giới”, một lối hiện hữu chỉ có trong giao tiếp giữa người với người. Con người là hữu thể của ngôn từ; và Thơ, như triết gia Heidegger đã nói, là “ngôi nhà của Hữu thể”. Chúng ta truy tìm về ý nghĩa của thơ bởi lẽ nó dẫn dắt ta tới một chiều kích thiết yếu của hiện‑hữu‑trong‑thế‑giới: ước vọng được hiện hữu.

“[….]  Ta lắng nghe tiếng hát thầm thì của ngôn ngữ thi ca vang vọng khắp không gian. Ngọn lửa thánh thần.

Thắp sáng cuộc đời… tan chẩy trong Ta. Kẻ si mê cuồng tín.

Kích hoạt nội tâm Ta nổi loạn. Phiêu lưu trong thế giới ảo giác siêu hình.

Tỏa sáng những ngôn từ trầm tư… lắng đọng sâu xa xây cất nên bức tượng đài thi ca hùng vĩ.

(Bến Thi Ca  AZ Siêu hình)

2. Hiện tượng luận (Phénoménologie) không đơn giản là một phương pháp triết học trừu tượng; đó còn là một sự thực hành tri thức khai phóng hướng đến những trải nghiệm sống của con người, trong đó thi ca giữ một vị trí thiết yếu. Các triết gia theo khuynh hướng hiện tượng học sẽ không tiếp cận thế giới như một “khối thực tại khách quan” đã định hình, mà như một dòng chảy luôn được điều kiện hoá bởi cách ta tri giác, cảm nhận và sống. Cũng như vậy, nhà thơ không nắm bắt sự vật như những đơn vị có sẵn, mà thường phá vỡ ngôn ngữ và nhãn quan thông thường để mở ra khả năng cảm nhận cái chưa từng được định danh. Trong ngữ cảnh đó, sự va chạm giữa thơ ca và hiện tượng học không mang tính xung đột mà trái lại là tương hợp: cả hai cùng dấn thân vào việc “cho thấy” thay vì “mô tả” hoặc “giải thích” thế giới.

“Mặt trời trần truồng bơi qua đại dương cuộc đời ảo giác

Thiên nhiên khóc nức nở sung sướng được khỏa thân tắm biển

Ngọn lửa văn minh đốt cháy những lý luận đạo đức suy đồi

[…] Tư duy mùa thu thấu hiểu trí tuệ minh triết cao siêu”

(Bến Thi Ca – Bài Thơ Trừu Tượng)

Các thi sĩ tài năng luôn có cả một kho từ vựng để tạo dựng nên những hình ảnh bằng những sự kết hợp dị thường, rất khác lạ với lời nói thường nhật, làm “chệch” lý trí và tạo ra ra những hiệu ứng thơ. Khổ thơ vừa trích dẫn ở trên Paul Vân Thuyết đã mở ra mạng lưới các ý nghĩa bằng cách tạo ra những hình ảnh thậm chí là khái niệm hết sức ấn tượng và dị thường:  “mặt trời trần truồng”, “đại dương ảo giác”, “thiên nhiên khóc nức nở”, “tư duy mùa thu”. Đây là những hình ảnh xuất hiện theo “logic nội tại” của bài thơ mà cảm xúc sẽ luôn thấu hiểu mà không cần tới bất kỳ thao tác “duy lý hóa” nào. Trong bài thơ này tưởng tượng và hiểu năng đã phối hợp nhịp nhàng để đạt tới một tri giác thông tuệ về cái ý nghĩa đang tự dâng hiến, đang phát lộ trong bài thơ, nói một cách khác bài thơ đã hoàn thành đồng thời hai chức năng thiết yếu của nó: làm-cho-hiện-ra/ đưa-vào-hiện trường và biểu đạt/định hướng một ý nghĩa

3.[…] Đi tìm thời khắc của cái đẹp phiêu diêu huyền linh ảo giác

Tôi mang mối sầu tương tư chuếnh choáng ủ men say

Đợi trăng lên tràn đầy nhập hồn thiêng trên ngọn lửa

Lắng nghe tiếng vọng lời tiên tri trong khoảng khắc phiêu bồng

Ngọn đèn cảm xúc bừng lên chiếu sáng màn đêm sụp đổ…”

(Bến Thi Ca – Khoảng Khắc Phiêu Bồng)

Bài thơ này có thể xem như một tuyên ngôn về thơ của Vân Thuyết. Thơ với ông trước hết là phải được đan dệt bằng cảm xúc. Những suy tưởng nếu có xuất hiện ở nơi ông khi sáng tác hay chiêm nghiệm thơ, cũng sẽ luôn là những hạt vàng kết tinh từ cảm xúc, hơn thế nữa thơ đối với ông luôn là những điều huyền diệu, những ngọn đèn tiên tri sáng rực rỡ, xóa tan màn đêm tối tăm và giúp cho ông tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình.

Quan điểm về Thơ của Vân Thuyết hoàn toàn trùng khớp với quan điểm của các nhà Hiện tượng luận. Đối với họ điều kiện khả thể quan trọng nhất, thái độ thích hợp duy nhất thích hợp để nắm bắt ý nghĩa của một bài thơ là “thái độ thẩm mỹ” (theo cách nói của Vân Thuyết, đó là “ duy mỹ”), chúng thường được điều kiện hóa bởi cảm xúc. Thái độ ấy thể hiện ở cái cách đón nhận bài thơ và mọi sự đào sâu truy tìm ý nghĩa của nó phải bắt đầu bằng cảm xúc. Cảm xúc đưa người đọc vào thế giới của bài thơ, cho người đọc dự phần vào hữu thể và “nội tâm” của bài thơ. Không có cảm xúc, thế giới ấy trở nên bất khả tri đối với bất kỳ người nào đọc nó và anh ta sẽ không bao giờ có thể vén lộ những tất yếu nội tại của nó.

Mọi toan tính chiếm hữu đối tượng, thao túng hoặc khái niệm hóa quá mức đều đẩy việc truy tìm ý nghĩa của bài thơ đến chỗ thất bại. Một bài thơ luôn phải được đón nhận trong lòng cảm xúc, vận hành trong vương quốc của những “phạm trù cảm tính” nằm ở trên cái làn ranh mong manh giữa cảm năng và hiểu năng. “tính vật chất” của một văn bản thơ như: “quặng” ngôn ngữ, “thịt da” của lời là những thứ phải được tính đến đầu tiên. Lối cảm thụ thơ này đòi hỏi một sự đồng điệu và sự thấu hiểu của người đọc đối với sự “hiện sinh” của tác phẩm, của sự hiện-tồn-trong-thế-giới của nó mà thông qua đó suy tư của nhà thơ hiển lộ. Sự hiện tồn đó phải được cảm, phải được mến rồi mới được đưa ra ánh sáng. Ý nghĩa của một bài thơ vì thế không xuất hiện như một bài toán cần tìm lời giải mà như một điều “khải huyền”, và cái nhịp luân phiên giữa suy tư và cảm xúc sẽ vẽ nên một đường cong tiệm cận biện chứng dẫn tới một hiểu biết ngày càng đầy đủ hơn về bài thơ – một đối tượng thẩm mỹ.

4. Thế giới thơ trước hết là thế giới riêng của thi sĩ, tương điệu với các tiên nghiệm hiện sinh của ông. Nơi mà người thi sĩ lưu giữ cái quyền năng mở ra và thu nạp cái đặc trưng bất định và vô hạn của thế giới thơ – thế giới của những khả thể. Cái thế giới ấy luôn chống lại việc bị đối tượng hóa. Nhưng cái ý nghĩa của bài thơ, được tạo dựng từ những cảm xúc của nhà thơ, một khi được chiếu rọi tới, lại không chỉ thuần túy là cảm xúc. Nó được đặt trên một “nền tảng siêu nghiệm”. Khi nhà thơ sáng tác một bài thơ dành tặng cho người đọc, đó chính là khi người thi sĩ ấy từ bỏ mình chỉ để nói về thế giới, hoặc khi anh ấy đã tự coi mình như là một yếu tố của cái thế giới đó. Một bài thơ vì thế mở ra một thế giới bằng chính cái giọng nói của nó, nó đòi hỏi một quyền tự trị thông qua cái ý chí vượt thoát khỏi chủ thể tính của nhà thơ, người đã viết ra nó. Paul Vân Thuyết cũng cảm nhận rất rõ về điều này khi ông viết:

“Từ chữ cái – từng từ – từng câu có cuộc đời, có số phận – tất cả đều có linh hồn – chúng nằm ngoài ý muốn của chúng ta – chúng có thể được thăng hoa sung sướng hạnh phúc – cũng có thể bất hạnh bị lưu đày – chúng mượn danh ta mà hiện sinh tồn tại”

(Ngẫu Hứng Suy Tư, tr. 194)

5. Ở một khía cạnh khác, chủ thể tính của các nhà thơ vẫn luôn hiện diện trong thế giới thơ của họ, bảo đảm cho cái thực-tính của nó và cũng hứa hẹn mang đến một tính khách quan nào đó nếu bài thơ vẫn còn giữ được cái sức nặng của mình khi va đập với hiện thực sống trải của những độc giả của nó. Nhưng tính khách quan này sẽ không bao giờ trùng với cái thế giới đồ vật trong cuộc sống hàng ngày, thế giới của một bài thơ không bao giờ có thể quy giản về một thế giới “thực” theo cách hiểu của một người đọc cụ thể. Cái “thực” của người đọc luôn thuộc về phạm trù tiền-khách-quan, trong sự rành buộc của những thứ anh ta đã “sống trải”, trong sự mờ đục của cái “thực tại” mà người đọc ấy đã va chạm với nó.

Nói một cách khác, không tồn tại một thế giới “tuyệt đối khách quan” trong thơ, mà chỉ có cái “thế giới” của nhà thơ, người đã trao cho nó một linh hồn.  Và để cho thế giới đó thực sự đúng là một “thế giới”, nhà thơ phải trở thành một “thi sĩ của cái thực”, biết từ những gì đã “sống trải” đẽo gọt để tạo ra một thế giới có thể cư trú được, có thể trở thành chốn nương thân của anh ta. Đây cũng là một đòi hỏi thiết yếu,  đặc biệt là đối với những tiểu thuyết gia (những người đã làm thay cho Thượng Đế để sáng tạo ra cả một thế giới riêng). Thế giới thơ nhờ vậy mà biểu lộ chân lý riêng của nó: giúp ta biết tới cái thực bằng việc soi sáng nó. Muốn vậy người nghệ sĩ phải khao khát muốn biểu đạt một thế giới thực (minh chứng cho một tiên nghiệm hiện sinh và cho cái thực nơi người nghệ sĩ sống trải). Thế giới ấy, trong khi chờ được đón nhận và xác thực phải biểu lộ phẩm tính tự trị bằng tính nhất quán và vẻ đẹp của riêng mình, thậm chí phải có sức mạnh để áp đặt chân lý của chính mình.

“Niềm vui cao nhất của người nghệ sĩ là sáng tạo ra những gì mới mẻ – huy hoàng tráng lệ nhất – kỳ lạ nhất. Khi sáng tạo họ lạc quan ngây ngất hạnh phúc trong sự khám phá để đạt đến tột cùng của cái đẹp – cái đẹp của tác phẩm điều khiển chúng ta. Trí tưởng tượng khêu gợi chúng ta nhào nặn nên ngôn từ-hình thể-mầu sắc-đường nét-hình khối cho tác phẩm-nó hiển hiện mơ màng và từ từ-sự lắng đọng sâu kín dần dần được bộc lộ – những hư ảo tràn dâng hiện hữu để nó trở thành một thực thể hoàn thiện”

(Ngẫu Hứng Suy Tư, tr. 196)

 

6. Tâm điểm của hoạt động thơ là tưởng tượng: Nó làm nảy sinh hình ảnh rồi được chuyển hóa thành ngôn ngữ thơ. Các hình ảnh này phát sinh từ cái thực (tri giác thân thể về thế giới cụ thể) rồi trở lại với cái thực sau khi đã được “nhân hóa” và bơm đầy ý nghĩa. Những hình ảnh ấy khởi nguồn từ một tưởng tượng biết làm thực trao cho cái thực trọng lượng và bề sâu, chỉ thị cho nó cách xuất hiện bằng ngôn ngữ thơ. Đó chính là cái cách mà Paul Vân Thuyết đã làm trong bài thơ dưới đây

“Dưới hàng cây ven con đường mùa đông

Những chiếc lá úa tàn nỉ non tâm sự

Rằng cuộc đời chúng cứ chôn mãi trên cành

Chưa bao giờ biết đến lạc thú của tình yêu…”

(Bến Thi Ca – Những Chiếc Lá Mùa Đông)

Khởi phát từ những đối tượng được tri giác cụ thể: những chiếc lá mùa đông, bằng tưởng tượng, nhà thơ đã trao cho chúng một tất yếu nội tại, “nhân hóa” chúng, “thi vị hóa” chúng và làm cho chúng “khả tri”. Bài thơ không còn quy chiếu về cái thực tại mờ đục vô hồn nữa mà quy chiếu về một thực tại mới mang hình thức của một “thế giới” đã được “hình tượng hóa”, nơi mà mà nhà thơ nhìn thấy bóng dáng của mình trong đó và có thể cư ngụ ở trong đó

“[…] Giờ đây khi chúng đã rời cành sẽ đi xa mãi mãi

Là lúc lá già nua không còn mầu xanh sự sống

Và chấm hết số phận của một thời khao khát mộng mơ

Chúng ôm nhau thắm thiết như không muốn chia ly

Và rủ nhau bay đi bay đi

Đến hỏi thăm kinh nghiệm sống của con người

(Bến Thi Ca – Những Chiếc Lá Mùa Đông)

7. Bài viết này đặt mục đích đi truy tìm ý nghĩa của thơ ca từ góc nhìn hiện tượng học thông qua việc phân tích một số bài trong tập Bến Thi Ca (1200 trang. NXB Đồng Nai, 2025) cũng như những suy ngẫm giàu tính minh triết trong tập Ngẫu Hứng Suy Tư (1120 trang. NXB Hội Nhà văn, 2015) của nhà thơ Paul Vân Thuyết. Cần nhấn mạnh rằng sự giao thoa giữa Thơ và Hiện tượng học không chỉ là cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên về mặt ngôn ngữ và phong cách mà là một sự tương tác sâu sắc về cấp độ trải nghiệm. Cả hai mối quan tâm đều hướng tới việc sự vật sẽ hiện ra như thế nào trong tính khả nghiệm sống động của thế giới sống. Thi ca không phải là một minh họa cho Hiện tượng luận và hiện tượng luận ra đời cũng không nhằm để lý giải thơ ca. Nhưng giữa chúng tồn tại một điểm tương đồng: Đó là khả năng dẫn dắt con người trở về với thế giới như tự nó vốn có bằng cách vượt thoát khỏi những tầng lớp ngữ nghĩa đã bị “khái niệm hóa” và thống trị bởi ngôn ngữ “thuần lý”. Cả hai đều nhấn mạnh việc làm “chậm lại” những cái nhìn và làm sâu sắc thêm các cảm nhận. Cả hai đều muốn mở toang cánh cửa tâm thức cho những điều bất ngờ – những điều vượt khỏi các ý định, vượt khỏi các biểu tượng và đôi khi, vượt khỏi chính ngôn từ.

Hà Nội, 24/9/2025.

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged . Bookmark the permalink.