(Đọc tác phẩm Lời thì thầm của hoa sứ của Trần Ngọc Phương Nguyên, Nxb Đà Nẵng, 2025)
Lê Huỳnh Lâm
 
Lời thì thầm của hoa sứ là của Trần Ngọc Phương Nguyên, một nhà nghiên cứu, giảng viên, giáo sư Y khoa tại Nancy, Đại học Lorraine, đồng sáng lập và đồng giám đốc Trường Phẫu thuật – Bệnh viện Mô phỏng Y khoa và Phẫu thuật Lorraine. Anh còn là nhạc sĩ, ca sĩ, viết và hát bằng tiếng Pháp. Bất chợt, nhan đề của cuốn sách khiến tôi liên tưởng đến lời hát “một mai thức dậy /chuyện trò với lá cây” của Trịnh Công Sơn trong bài Tình sầu. Trần Ngọc Phương Nguyên thì ở vị trí người lắng nghe hoa sứ, loài hoa của xứ miền nhiệt đới.
Lời thì thầm của hoa sứ là kể về cuộc sống của những thuyền nhân, trong hành trình tìm bến bờ tự do. Không như những câu chuyện của các thuyền nhân. các tác giả khác, thường mô tả về những ám ảnh man rợ, những ác mộng, những gì tàn ác, rùng rợn và kinh hãi nhất ở mặt đất này do thiên nhiên và con người gây ra như: bão biển, sóng thần, hải tặc, hãm hiếp, cướp giết, máu me, tiếng thét, tiếng khóc la, hoảng loạn, đói khát, nghi ngờ, lừa gạt, sập bẫy,… tác giả Trần Ngọc Phương Nguyện chọn lối viết trong sáng, ngợi ca tình yêu, hướng thiện, đi sâu khai thác diễn biến nội tâm, hình tượng và khái quát hóa cuộc sống của thuyền nhân trong trại các tị nạn trên đảo và đời sống của họ sau khi hòa nhập vào xã hội khác; một xã hội mà thường được gọi là văn minh, tiến bộ. Chiếc thuyền chở anh cùng mọi người đã nhiều lần bị hải tặc cướp, hiếp,… và khi thuyền sắp chìm vào lòng đại dương thì lại được một toán cướp biển khác cứu vớt, nhưng cũng để thỏa mãn bản năng thú tính của con người: cướp, hiếp. Nhưng như một phép lạ, lòng từ bi bất ngờ trỗi dậy trong đám người ác ôn và chính họ lại đưa mọi người trên chiếc thuyền gặp nạn vào một đảo hoang…
Tác giả là nhân vật tôi trong tập truyện, anh rời quê hương vào khoảng 15 tuổi, cái tuổi đang nhiều mộng ước, để rồi tất cả ập đến như vết loang lổ của màn ảnh cinema hiện chữ “The end”.
Cuốn sách này tác giả viết bằng tiếng Pháp (Nxb Jalon, Pháp, 8/2024), nhan đề Les Murmures des frangipaniers, đã ra mắt tại Pháp. Theo tác giả, tác phẩm này đã được dịch ra tiếng Anh, bản dịch tiếng Tây Ban Nha gần hoàn thiện. Riêng bản Việt ngữ, trong một tình cờ qua một người quen là họa sĩ Võ Dũng ở Huế, tác giả đã nhờ tôi tìm người dịch ở Việt Nam từ bản tiếng Pháp, nhưng sau một thời gian sự việc không thành… Tôi gợi ý anh nên tự chuyển sang tiếng Việt, tôi sẽ hiệu chỉnh giúp. Vậy là, bản tiếng Việt với nhan đề Lời thì thầm của hoa sứ đã có mặt ở Việt Nam sau khi một, hai Nhà xuất bản phía Đàng Ngoài từ chối rất tế nhị.
Chương thứ nhất của tập truyện có nhan đề “Tôi là kẻ khác”, mô tả những hình ảnh đầu tiên của thuyền nhân khi cập bờ lên đảo Pulau Bidong của Malaysia để vào trại tị nạn. Đó là “những ngọn đồi xanh thẫm điểm xuyết vài đốm nâu đỏ của núi đá, cùng những vách đá dựng đứng đâm sâu vào lòng đại dương.
Những bước chân đầu tiên trên cầu gỗ thật nhói đau, mỗi bước như xuyên qua thân thể kiệt quệ. Dưới cái nắng chói chang, mặt gỗ nóng rực, thiêu đốt đôi chân trần sưng phồng, rớm máu và nứt nẻ sau nhiều ngày ngâm mình trong làn nước mặn đắng. Tôi bước chầm chậm, thân thể gầy gò như đè nặng cả ngàn cân. Nhưng chính trong nỗi đau đó, tôi lại cảm nhận được một sự dễ chịu lạ kỳ – như lời nhắc nhở rằng tôi vẫn còn sống.
Mỗi tấm gỗ kêu răng rắc dưới chân, như đang thì thầm những bí mật của những ai từng qua đây trước tôi. Từ xa, vang lên tiếng hò reo của những người đang tụ tập bên bờ biển, tiếng gọi ấy thúc giục chúng tôi bước tiếp. Những cảm giác tương phản đan xen, rõ ràng và kỳ diệu”.
Từ thời khắc đầu tiên đó, nhân vật tôi biết mình đã sống sót và anh tự hứa sẽ viết nên huyền thoại cho bản thân. Ngay khi ý nghĩ đó xuất hiện, anh đã trở thành một kẻ khác, kẻ mà nhà thơ thấu thị Arthur Rimbaud (1854-1891) đã tuyên ngôn cho cuộc đời mình (Je est un autre) vào năm 1871, lúc chỉ ở tuổi 17.
Ở chương “Những lời thì thầm của hoàng hôn: tình yêu và sự khám phá bản thân” trang 59, Trần Ngọc Phương Nguyên đã đưa ra một triết luận về giáo dục, khi sự nghi ngờ và tự vấn đòi “lật đổ các mô hình giáo dục truyền thống” và “khám phá triết lý của “Người Thầy Không Biết” để đối lập với “Người Thầy Thông Thái”. Anh cho rằng “Người Thầy Thông Thái, chỉ mở ra những con đường chính họ đã trải qua – an toàn…”, điều này thật sự là một ý kiến táo bạo để đặt lại nền móng của giáo dục của thời đại AI. Giáo dục theo lối mòn định hình thế hệ tương lai đi theo một xu thế được cho là yên ổn để mong cầu sự ổn định giữa những bất ổn của thế giới, nhưng thế giới này có vẻ ngày càng thêm bất ổn. Và thời đại bây giờ, khi trí tuệ nhân tạo đã trở thành công cụ đắc lực cho mọi đối tượng, thì có lẽ “Người Thầy Thông Thái” của một số môn học, đến thời điểm nào đó, họ có thể sẽ trở nên không còn quan trọng trong vũ trụ thông tin trên mạng toàn cầu. Về mặt sáng tạo và thực tại thì “kinh nghiệm chỉ là xác chết” – câu này hình như của đại sư Krishnamurti –, do vậy người sáng tạo phải luôn tự nhắc nhở chính mình về một thực tại tối hậu mà con người cần thể nhập trọn vẹn. Những dòng cuối chương, gợi giúp người đọc chuẩn bị bước vào cánh cửa của một thế giới huyền bí: “Theo lời kể của dân làng, hòn đảo này thức giấc mỗi đêm, trở thành vương quốc của những hồn ma…”.
Những chương tiếp nối là hành trình nâng cao tri thức Y học tiên tiến ở Bệnh viện Đại học Chicago của nước Mỹ, nơi đây anh đã cùng các đồng nghiệp quốc tế nghiên cứu cấu tạo của các tế bào cơ tim và những vấn đề liên quan, nhưng anh không bao giờ quên khám phá cùng những rung động bí ẩn của trái tim để mong xoa dịu cơn đau về sự ám ảnh một hình bóng khiến anh hạnh phúc và đau thương.
Tác giả là người có óc quan sát tỉ mỉ, nhận xét rất tinh tế và có một trí nhớ siêu bền,… từ nền tảng đó, anh có thể tưởng tượng rồi hư cấu trong tác phẩm văn chương, dựa trên chất liệu là sự thật của những trải nghiệm kinh hoàng chỉ dành cho số ít người. Cũng có thể trên cơ sở căn bản và thiên bẩm của trí óc anh, nên anh phù hợp với ngành Y, phù hợp với nghiên cứu, sáng tạo. Đọc tiểu thuyết của Trần Ngọc Phương Nguyên, tôi liên tưởng đến tác phẩm Doctor Zhivago của văn hào Boris Pasternak, trong đó nhân vật chính là Zhivago vừa là bác sĩ và nhà thơ. Tôi còn liên tưởng đến nhà văn Anton Chekhov ở Nga và Lỗ Tấn ở Trung Quốc, cả hai tác gia này cũng đều là bác sĩ.
Trong Lời thì thầm của hoa sứ xuất hiện tuyến nhân vật rất cụ thể, ngoài câu chuyện của mỗi nhân vật và những đối thoại, tác giả còn lồng ghép âm thanh qua vốn kiến thức âm nhạc của mình, những hình ảnh hiện ra qua các áng văn đầy chất thơ tả khung cảnh thiên nhiên hay cảnh vật của một vùng đất, một con phố cũng được tác giả thể hiện, cùng với diễn biến nội tâm và song thoại của nhân vật tôi và nhân vật nữ bí ẩn tên My xuyên suốt trong tác phẩm, tác giả đã dẫn đưa người đọc băng qua những vùng văn hóa, từ đông sang tây, từ Mỹ sang Nhật và kinh đô xứ đền tháp Angkor vĩ đại đầy những huyền bí sừng sững như một thách thức với thời gian.
Tôi cứ ngờ ngợ rằng, không hiểu vì sao tác giả rời Việt Nam vào khoảng năm 1980, lúc đang ở độ tuổi thiếu niên, sao anh có hiểu biết về thể loại âm nhạc và văn chương xâm nhập vào xã hội Việt Nam những thập niên 70, 80. Tôi ngạc nhiên khi anh trích Alexandre Dumas, Victor Hugo, Arthur Rimbaud, Levi Strauss, La Quán Trung, Kim Dung, Milan Kundera,… và những nhạc sĩ tên tuổi: Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên,… các nhạc sĩ kiêm ca sĩ ngoại quốc: Georges Moustaki, Christophe,… những nhạc sĩ châu Âu vĩ đại: Chopin, Mozart,… các ban nhạc nổi tiếng: The Beatles, The Animals, The Rolling Stones, The Who,… Tức là anh đã hấp thu một nền văn chương, nghệ thuật có thể từ rất bé qua gia đình hoặc có thể điều đó xảy ra nơi đất khách quê người. Cũng nhờ vốn âm nhạc có sẵn mà anh gặp được nhan sắc bí ẩn trên hòn đảo dành cho người tị nạn, kiểu như Quách Tĩnh gặp Hoàng Dung ở Đào Hoa đảo. Người con gái kiều diễm tên My đến với nhân vật tôi trong tập truyện như một ảo ảnh, và được dẫn nhập qua câu chuyện trong tình khúc nổi tiếng một thời của thập niên 60: ca khúc Aline của nhạc sĩ Christophe người Pháp, ông ta cũng là ca sĩ thể hiện ca khúc này (Aline được nhạc sĩ Phạm Duy chuyển lời Việt với nhan đề Gọi tên người yêu qua giọng ca cuốn hút của nữ ca sĩ Thanh Lan).
Vậy là nhân vật My đã đi vào đời sống của tác giả kể từ giây phút kỳ diệu đó, giây phút anh ngồi họa hình chân dung người thiếu nữ trên cát ở một hòn đảo xa lạ, để chờ đợi một tương lai vô định, chờ đợi một cuộc sống mới sau khi đã trải qua những biến cố kinh hoàng của một đời người.
Qua Lời thì thầm của hoa sứ, có thể thấy sự tồn tại của một tình yêu, ở đó người được yêu chỉ xuất hiện trong tâm thức của tác giả. My là một phóng ảnh của sự khát khao, hay My là tiềm thức của một vùng đất, hoặc có thể một phần trong ký ức của tác giả… Tác phẩm gồm 240 trang kể về đời sống của các thuyền nhân, qua đó kể lại một cuộc tình và hành trình kiếm tìm người yêu tên My của tác giả, để rồi suốt 20 năm mong mỏi, đợi chờ anh chợt thất vọng đau đớn, suy sụp và khi phát hiện ra sự thật phũ phàng: “Phải chăng tôi đã yêu một hồn ma, hay chính hồn ma đã mê hoặc tôi”.
Câu kết của tập sách như một thông điệp của sự sống trong vòng tay tình yêu, của lòng từ bi, bác ái, của “tất cả là một, một là tất cả” với mối tương quan chằng chịt mà con người đã bị che lấp bởi cái bản ngã nhỏ bé nên không thể nhận ra:
“Tôi tỉnh thức trong hiện tại, trong bản chất thuần khiết của sự tồn tại, hợp nhất với tất cả:
Tôi là…”
Huế, 10/2025
L. H. L.
