Đinh Thanh Huyền
Trong đời sống văn học Việt Nam những năm gần đây, tôi nhận thấy một nghịch lí: nhiều tác phẩm đạt giải thưởng lại sáo mòn về tư tưởng, cũ kĩ về nghệ thuật, lặp lại mô-típ cũ của thời chiến tranh, thời bao cấp hoặc những lối viết mòn nhàm của hiện thực chủ nghĩa. Một số tác giả được truyền thông ca tụng lại không phải vì có sự sáng tạo đột xuất, mà vì họ thuộc một “vòng quan hệ”, một phe nhóm hay xu hướng thời thượng. Tác phẩm được quảng bá rầm rộ đôi khi chỉ là sản phẩm “an toàn”, “vừa phải”, thứ văn chương “chưa bao giờ lớn”. Hậu quả là người đọc mất niềm tin vào giải thưởng và phê bình; những người viết thực sự có tìm tòi, đổi mới thì cảm thấy bị vô hiệu hóa hoặc đứng ngoài cuộc chơi.
Vì sao nên nỗi?
Thứ nhất, cơ chế giải thưởng và hội đồng xét chọn còn nặng tính hành chính: thành phần giám khảo có khi thiên về quan hệ nghề nghiệp hơn là tiêu chí học thuật.
Thứ hai, nhiều tổ chức sợ tác phẩm gây tranh luận, nên chọn thứ văn chương trung bình, không rủi ro.
Thứ ba, phê bình thụ động, thiếu những nhà phê bình dám “nói thật”, thiếu những tiếng nói phản biện nên các giải thưởng mặc nhiên được coi là “thước đo giá trị”.
Thứ tư: báo chí văn hóa ít đầu tư cho phê bình nghiêm túc, lại dễ chạy theo xu hướng “đánh bóng” hiện tượng, biến mọi thứ thành trò câu khách.
Tôi gọi hiện tượng nêu trên là: LOẠN GIÁ TRỊ.
Ai cũng hiểu, việc loạn giá trị trong đời sống văn học sẽ làm méo mó hệ giá trị thẩm mĩ. Công chúng tưởng rằng cái tầm thường là cái hay, thị hiếu, trình độ đọc bị hạ thấp. Chất lượng của các sáng tác văn học đi xuống. Nền văn học khao khát giải thưởng nhưng thiếu vắng những tác phẩm kết tinh giá trị thẩm mĩ, giá trị nhân văn. Tất nhiên, những nhà văn có thực tài, có cá tính sáng tạo nổi bật sẽ không bị cuốn xuống vũng lầy của Loạn giá trị, nhưng họ bị ảnh hưởng vì khó tìm người đọc, khó được công nhận, sách in ra khó được phát hành…
Điểm nguy hiểm ở hiện tại là: sự tung hô cái giả tạo được hợp thức hóa bằng cơ chế chính thức, khiến người đọc bình thường càng khó phân biệt thật – giả, hay – dở. Có thể nói, khi những tác phẩm tầm thường được trao giải, được tung hô, đó là lúc một nền văn học đang đổ vỡ trong việc tự xác lập giá trị.
Trước đây, văn học Việt Nam từng có lúc nổ ra phản ứng dữ dội với các hiện tượng văn học đặc biệt: Thơ Mới, Trần Dần, Lê Đạt, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp… Tuy nhiên, đó là biểu hiện của một đời sống văn học còn có chuẩn giá trị rõ ràng, có thước đo giá trị cụ thể. Khi có một “luồng” sáng tác mới xuất hiện, phá vỡ khuôn khổ cũ, hệ thống ấy phản ứng để tự bảo vệ. Những phản ứng ấy có sai lầm về mặt nhận thức, nhưng lại chứng tỏ đời sống văn học lúc đó còn có năng lượng, còn tin vào giá trị, còn quan tâm đến sáng tạo. Phản ứng trước cái mới là tất yếu để văn học trưởng thành.
Trái lại, hiện tượng “loạn giá trị” hôm nay không phải là do xung đột giữa hai hệ hình thẩm mĩ, mà là do không còn hệ nào thật sự được tin tưởng. Nếu trước đây từng có phản ứng vì khác biệt giá trị thì nay lại là mất khả năng phân biệt giá trị. Hệ quả là không còn tranh luận nghệ thuật đúng nghĩa, chỉ còn ồn ào, khen chê tùy cảm tính, tung hô vô tội vạ, cãi vã chửi bới nhau như cái chợ. Cái ồn ào hôm nay là biểu hiện của khủng hoảng giá trị.
Nếu ví đời sống văn học như một cơ thể sống thì văn học Việt Nam hiện nay đang bị suy nhược hệ miễn dịch, cơ thể yếu đến mức không còn phản ứng nổi trước giá trị ảo.
Và đó là trách nhiệm của ai?