Thủy điện vô can: ngụy biện và bất nhân

Nguyễn Hoàng Văn

Những luận điểm mà Tiến sĩ Nguyễn Bách Phúc (TS Phúc) nêu ra trong bài phỏng vấn trên Vietnamnet “Thủy điện không sinh nước sao gây lụt” đầy tính ngụy biện và, có thể nói, rất là… bất nhân.

[https://vietnamnet.vn/thuy-dien-khong-sinh-nuoc-sao-gay-lut-duoc-151086.html]

Ngụy biện là suy luận, diễn giải vấn đề một cách phi logic, không có cơ sở khoa học, chỉ nhắm vào việc lái suy nghĩ của người khác theo hướng có lợi cho mình. Hai nhà tư tưởng cổ đại là Plato và Aristotle đã nhận diện và hệ thống hoá các hình thức ngụy biện và, đến ngày hôm nay, các nhà biện luận đã tổng kết được đến 45 hình thức như thế.

Trong các cuộc tranh luận của người Việt hiện tại, nhất là từ giới dư luận viên, đầy rẫy những hình thức ngụy biện mà, trong đó, phổ biến nhất là “đánh tráo vấn đề”. Đây là trò gây nhiễu, đánh lạc hướng để lôi kéo công luận lạc ra khỏi những vấn đề nhạy cảm, bất lợi cho mình, gọi là Ignoratio Elenchi.

Ngoài ra còn có thể nhận diện các hình thức ngụy biện mà giới dư luận viên Việt ưa chuộng là công kích cá nhân, ad hominem; mượn quyền lực của số đông, ad populum, kích động sự sợ hãi, ad baculum; khêu gợi lòng trắc ẩn và thương hại,  ad misericordia và lợi dụng quyền lực, ad verecundiam.

Để tiện, tôi sẽ phân tách luận điểm của TS Phúc theo từng câu trả lời.

Như có thể thấy ở mục số 2, vì TS Phúc đã sử dụng cách ngụy biện ad verecundiam, nhấn mạnh đến quyền lực chuyên môn của mình, tôi xin trích nguyên văn tiểu sử của ông mà Vietnamnet giới thiệu trong bài phỏng vấn để tiện phân tích bên dưới, sau khi có vài nhận xét nhỏ. Như bạn đọc có thể nhận ra, điều này hoàn toàn không nhắm đến ý đồ công kích cá nhân, bỏ bóng đá người.

Tôi xin đi vào vấn đề.

  1. Vietnamnet:

“Tiến sĩ Nguyễn Bách Phúc:

– Sinh năm 1944 tại Hà Tĩnh

– Tốt nghiệp trường Đại học Bách khoa Hà Nội, ngành hệ thống điện năm 1965

– Giảng viên Khoa Điện – Điện tử, Trường Đại học Bách khoa TP.HCM

– Bảo vệ học vị tiến sĩ ở Liên Xô cũ

– Học tập và công tác tại Liên Xô 12 năm (1989 – 2001)

– Từ 2004 đến nay, làm Viện trưởng Viện Điện – Điện tử – Tin học và sau đó là Chủ tịch Hội Tư vấn khoa học – Công nghệ và Quản lý HASCON…”

Nhận xét:

Thứ nhất, “Bảo vệ học vị tiến sĩ ở Liên Xô cũ”: nếu có “Liên Xô cũ” thì ắt có “Liên Xô mới”?

Thứ hai, TS Phúc “Học tập và công tác tại Liên Xô 12 năm (1989 – 2001)”.

Trên thực tế Liên Xô đã bị tan rã vào năm 1991 và lúc này nước Nga lâm cảnh khủng hoảng kinh tế trầm trọng, đa số sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam  tại đây lao ra buôn bán kiếm sống.

Nhưng trong suốt 10 năm sau khi Liên Xô tan rã, từ 1991 đến 2001, TS Phúc vẫn “công tác tại Liên Xô”, vậy đó là “công tác” gì, và đó là “Liên Xô” nào?

  1. Vietnamnet: Ông Phúc nói: Là người học và nghiên cứu về điện nên tôi hiểu tường tận về ngành điện cũng như thủy điện. Làm khoa học thì phải tôn trọng sự thật. Và phải dũng cảm bảo vệ chân lý. Nếu không, nhận định hay quy kết sai như quy kết thủy điện miền Trung gây ra lũ là rất nguy hiểm vì như vậy sẽ không xác định được bản chất của sự việc, từ đó không thể giải quyết vấn đề được!

Nhận xét:

Ngụy biện ad verecundiam, “lợi dụng quyền lực”,

Thứ nhất, phát biểu “Là người học và nghiên cứu về điện nên tôi hiểu tường tận về ngành điện cũng như thủy điện” có thể rất đáng ngờ và cũng mang tính ngụy biện. Học và nghiên cứu về điện vị tất đã thành thạo thủy điện? Mà, theo tiểu sử nêu trên, TS Phúc chỉ chuyên về hệ thống điện và điện tử.

Thứ hai, chấp nhận rằng TS Phúc am tường cả lĩnh vực thủy điện, nhưng để hiểu rõ tác động của thủy điện tại miền Trung thì phải am hiểu thêm các vấn đề về địa chất, môi trường địa lý của miền Trung, cũng như những thay đổi trong môi trường ở đây những năm qua.

Thứ ba, không những thế, để hiểu thực chất của vấn đề, cần nghiên cứu và am tường lề lối làm ăn của các nhóm lợi ích, là phải rành thương trường ngành điện. Chưa kể là quan hệ giữa họ với các thế lực chính trị địa phương, nhất là quan hệ “sân sau”.

Tóm lại, TS Phúc đã ngụy biện khi sử dụng cái bằng tiến sĩ điện để từ đó lấn sân sang thủy điện, thủy lợi, môi trường, thương trường và cả chính trường.

  1. Vietnamnet: “Vậy thưa ông, hồ thủy điện có khả năng gây tác động đến dòng chảy của dòng sông, tạo nên lũ lớn không?”

TS Phúc: Các hồ thủy điện lớn như Hòa Bình, Trị An, Thái Nguyên, Thác Bà có khả năng tác động đến dòng chảy của con sông rất lớn, tương tự như hồ thủy lợi, nên được giao nhiệm vụ thủy lợi, tức là tác động để “chống lũ” và “chống hạn” cho hạ lưu. Còn các hồ thủy điện nhỏ và vừa như các nhà máy thủy điện ở miền Trung thì khả năng đó rất nhỏ, không đáng kể. Chúng hoàn toàn không có khả năng đó nên chẳng ai giao nhiệm vụ “chống lũ” và “chống hạn” cả.

Khả năng tác động đến dòng chảy của dòng sông thể hiện ở “dung tích hữu ích” của hồ. Đó là dung tích của khoảng trống nhằm chứa lũ để cắt lũ vào mùa lũ và dự trữ nước để chống hạn vào mùa khô. Dung tích hữu ích của hồ Hòa Bình là 5,7 tỷ m3, Trị An là 2,5 tỷ m3. Còn các nhà máy thủy điện ở miền Trung chỉ từ 10 – 50 triệu m3, tức chỉ bằng khoảng 0,5% “ông lớn” Hòa Bình, Trị An.

Nhận xét:

Ignoratio Elenchi, đánh tráo vấn đề hay là TS Phúc không nắm được hiện trạng của vấn đề”?

Cách so sánh của TS Phúc hoàn toàn khập khiễng.

Một đập thủy điện nhỏ trên một con sông nhỏ nhưng ngăn chặn đến 100% lưu lượng (như thủy điện An Khê – Ka Nak chặn đứng sông Ba) thì tác hại đối với hệ sinh thái mà nó chảy qua rất lớn.

Một đập thủy điện lớn, ngăn chặn một lượng nước lớn hơn cả trăm lần, tuy nhiên chỉ chặn có 10% lưu lượng con sông thì tác hại nó gây ra với hệ sinh thái bao quanh nó chưa chắc đã nghiêm trọng hơn.

Về khẳng định của TS Phúc thì:

Thứ nhất, hầu như chưa có công trình thủy điện nào tại Việt Nam tiến hành việc nghiên cứu tác động môi trường một cách nghiêm túc cả, tất cả chỉ là cho có lệ và việc này báo chí đã nói nhiều. Thí dụ bài “Quá nhiều tác động xấu từ thủy điện: Hậu quả từ đánh giá sơ sài” trên báo Thanh Niên: [https://thanhnien.vn/qua-nhieu-tac-dong-xau-tu-thuy-dien-hau-qua-tu-danh-gia-so-sai-185397765.htm]

Thứ hai, trên thực tế chưa có công trình thủy điện nào tại Việt Nam đảm nhiệm được vai trò “chống lũ” và “chống hạn” cả. Đa số chỉ xả nước vào mùa mưa khiến lũ lụt trầm trọng hơn và chặn nước và mùa hè, khiến tình trạng hạn hán trầm trọng hơn. Xin TS Phúc google mấy từ “Sông Hồng cạn trơ đáy” sẽ thấy được tác hại của các công trình thủy điện cực lớn ở đầu nguồn sông Hồng.

Tại miền Trung đang bàn, có thể thấy điều này qua tranh cãi giữa Đà Nẵng và Quảng Nam những năm qua, khi còn là hai đơn vị hành chánh riêng biệt. Mùa khô, các hồ thủy điện thuộc Quảng Nam chặn nước khiến nước mặn nhiễm đến Cầu Đỏ, nơi lọc nước cung cấp cho thành phố Đà Nẵng. Mùa mưa, các hồ thủy điện này thi nhau xả khiến lũ lụt tự nhiên trở nên trầm trọng hơn.

TS Phúc chỉ cần google những từ liên quan sẽ tìm ra vô số bằng chứng, thí dụ bài “Lo thiếu nước, Đà Nẵng đề nghị thủy điện xả nước để chạy trạm bơm phòng mặn” trên báo Thanh Niên [https://thanhnien.vn/lo-thieu-nuoc-da-nang-de-nghi-thuy-dien-xa-nuoc-de-chay-tram-bom-phong-man-185240416121722334.htm]

TS Phúc đã phạm vào lỗi ngụy biện gọi là “Cherry picking” hay “Nut-picking”, tức dùng những số liệu chọn lọc để bảo vệ luận điểm mình mà bỏ qua những số liệu cho thấy sự thể tương phản.

  1. Vietnamnet: Nhận định như vậy hẳn ông cũng sẽ lường trước được “bão dư luận” phải không ạ? Vì phản ảnh của người dân và chính quyền địa phương ở vùng bị lũ là các nhà máy thủy điện đã xả nước khi lũ tràn về khiến nước ngập tràn, gây lũ lớn?

TS Phúc:

Tôi xin hỏi lại, các nhà máy thủy điện có sinh ra nước không? Hoàn toàn không!

Như vậy, lũ ở đây là lũ trời, tức là lũ tự nhiên.

Khi lũ tràn về, nước lũ với lưu lượng rất lớn, gấp cả trăm lần lưu lượng lúc bình thường đổ vào hồ, mức nước sẽ nhanh chóng dâng lên. Với những hồ thủy điện nhỏ ở miền Trung, dung tích hữu ích để chứa lũ rất bé nên sau vài ba giờ là hồ đầy nước.

Nhà máy thủy điện chỉ còn cách “xả lũ” xuống hạ lưu. Đơn giản là không xả thì chứa vào đâu? Chẳng có cách gì đẩy ngược nước lũ trở lại thượng lưu hay đẩy lên trời được! Tất cả nhà máy thủy điện nhỏ ở miền Trung đều phải như vậy dù lũ nhỏ hay lũ lớn. Đây là việc bất khả kháng.

Cần lưu ý rằng, “xả lũ” ở hồ thủy điện lớn không như hồ thủy điện nhỏ. Phần lớn những trận lũ nhỏ được thủy điện lớn “nuốt” gọn vào dung tích hữu ích của hồ, không phải xả. Chỉ những trận lũ lớn không thể “nuốt” nổi thì mới phải xả…

Nhận xét:

Đây, có thể là lối ngụy biện Cum hoc ergo propter hoc, tức một giả định sai lạc về quan hệ giữa hai yếu tố.

Cũng có thể xem như là ngụy biện Non Sequitur, tức tam đoạn luận (syllogistic) sai: “Thủy điện không sinh ra nước. Nước gây nên lũ lụt. Do đó thủy điện không gây ra l ũ lụt”!

Nói theo TS Phúc thì một kẻ chủ mưu, thao túng tâm lý hay ép buộc đàn em giết người đâu thể nào bị kết tội sát nhân? Hắn đâu có dùng súng bắn hay dùng dao chém người đến chết?

TS Phúc còn tiếp tục đánh tráo vấn đề, Ignoratio Elenchi.

  • Đầu tiên, ông cho rằng “lũ ở đây là lũ trời, tức là lũ tự nhiên”, sau đó, khi nói về các hồ thủy điện, ông lại lập luận như thể đó là của trời, của tự nhiên: “Khi lũ tràn về, nước lũ với lưu lượng rất lớn, gấp cả trăm lần lưu lượng lúc bình thường đổ vào hồ, mức nước sẽ nhanh chóng dâng lên. … Nhà máy thủy điện chỉ còn cách “xả lũ” xuống hạ lưu. Đơn giản là không xả thì chứa vào đâu? Đây là việc bất khả kháng.”

Nếu đó là việc “bất khả kháng” thì người suy nghĩ với tính hệ thống (systematic thinking) hay khái niệm (conceptual thinking) sẽ đặt ngược vấn đề về tận gốc rễ của nó.

Thứ nhất, những công trình thủy điện có thực sự tiến hành dựa trên những báo cáo tác động môi trường thực sự khoa học, khách quan? Những cơ quan hữu trách có thực đáng tin hay đã bị những nhóm lợi ích mua chuộc, thao túng?

Thứ hai, với những tác hại như thế, có nên hướng đến những nguồn năng lượng tái sinh khác như quang điện, phong điện hay không?

TS Phúc không đặt ngược vấn đề theo tinh thần khoa học và suy nghĩ hệ thống, chỉ biện hộ “bất khả kháng”. Nhìn vào những tang thương mà đồng bào miền Trung gánh chịu, không thể không kết luận rằng đó là một thái độ bất nhân.

  1. Vietnamnet: Thì chính vì xả tràn để tránh bị vỡ hồ nên khiến lũ nặng thêm mà dư luận gọi là hiện tượng “lũ chồng lũ” đúng không thưa ông?

TS Phúc:

Không phải như vậy!

Điều này rất đơn giản mà không ai để ý một chút. Dung tích chứa nước của hồ thủy điện có 2 phần là mực nước chết và mức nước hữu dụng. Hồ thủy điện nào cũng vậy, chỉ cho phép chứa nước đến mức cách mặt thành hồ 3 – 5 m. Nếu chứa đầy tràn thì hồ sẽ bị vỡ.

Vào mùa mưa, trước khi lũ về, theo dự báo khí tượng thủy văn, các hồ sẽ xả nước để lũ về sẽ chứa nước, gọi là “cắt lũ” chọ hạ du. Nhưng nếu lũ trời về quá lớn, hồ thủy điện không thể chứa được nữa thì phải để lũ tràn qua, tức xả tràn chứ không thì chứa vào đâu?

Như vậy, lũ lớn gây thiệt hại đâu phải do hồ thủy điện xả gây ra.

Nhận xét:

Đây là lối ngụy biện “causal oversimplification”, tức đơn giản hóa quá mức nguyên nhân của vấn đề.

Đầu tiên, cần phải hiểu địa hình miền núi ở miền Trung và hiện tượng lượng nước tập trung từ một lưu vực rộng lớn. Thí dụ hiện tượng lũ khô, có thể trời vẫn nắng nhưng, do mưa bất chợt ở đâu đó rất xa, nước có thể dâng lên rất nhanh tại các con suối. Trong thời chiến và cả thởi bình, hiện tượng “lũ khô” này đã khiến nhiều bộ đội hay giáo viên miền núi, nhân viên kiểm lâm thiệt mạng.

Bình thường, đập thủy điện chỉ tích nước bằng cách chặn dòng chảy của con sông. Nhưng mùa mưa, khi lượng nước từ cả một khu vực dồn về, các hồ thủy điện phải cũng tăng vọt mức nước đang có để an toàn đón nhận lượng nước mới.

Các hồ thủy điện không hề sinh ra nước nhưng tích tụ nước khi không có mưa, tức giảm lưu lượng của con sông, rồi xả nước để làm tăng vọt lưu lượng ấy vào ngày mưa, gây ra tình trạng lũ chồng lũ.

Chủ nhân của các hồ thủy điện là người kinh doanh. Theo kinh tế học thì nhà kinh doanh nào cũng hoạt động theo phương châm “Tối đa hóa lợi ích và tối thiểu hóa thiệt hại”.

Để “tối đa hóa lợi ích” thì họ làm sao để hồ chứa luôn luôn tích trữ đủ nước để sản xuất điện với công suất tối đa, kể cả trong những ngày mưa.

Nhưng khi mưa bão dồn dập gây nên nguy cơ vỡ đập thì, để “tối thiểu hóa thiệt hại”. họ phải xả hồ chứa với vận tốc tối đa. Đây chính là nguyên nhân của tình trạng “lũ chồng lũ”.

Chính các chuyên gia, các nhà “khoa học” về thủy điện cũng đã chỉ ra rằng “việc vận hành hồ thủy điện ở mực nước ‘lưng lửng’ rồi bất ngờ xả lũ khiến quá trình điều tiết trở nên bị động, làm nước hạ du dâng đột ngột và đẩy người dân vào tình thế ‘không kịp trở tay”. [https://vietnamnet.vn/van-hanh-lap-lung-ho-thuy-dien-xa-lu-khien-dan-vung-ha-du-khong-kip-tro-tay-2465266.html]

  1. Vietnamnet: Vấn đề là các nhà máy xả luôn cả phần nước chứa sẵn bên trong mà ông gọi là “nước hữu dụng”. Và như vậy chính nguồn nước này gây ra “lũ chồng lũ”?

TS Phúc:

Không nhà máy nào làm như vậy!

Đơn giản vì khi nước lũ tràn qua thì muốn xả nước hữu dụng trong hồ cũng không có tác dụng gì. Tôi ví dụ thế này, một hồ chứa dung tích 100.000 m3, khi dòng nước lũ tràn qua với lưu lượng nước 1.000 m3/s chẳng hạn, nếu xả nước trong hồ ra, giả sử là 400 m3/s chẳng hạn, phần này sẽ được bù đắp ngay lập tức bằng dòng nước lũ đang băng qua bên trên. Đó là nguyên tắc vật lý rất dễ hiểu.

Tức là, dòng lũ đang tràn qua mặt hồ chứa. Nếu xả cho hồ chứa vơi bớt được chút nào thì nước của dòng lũ lập tức sẽ trám vào ngay! Vậy nhà máy có muốn xả cũng không xả được lúc lũ tràn qua đang phải xả tràn.

Như vậy khái niệm “lũ chồng lũ” trong trường hợp này hoàn toàn phi lý! Chỉ có “lũ chồng lũ” xảy ra nếu hồ thủy điện bị vỡ.

Nhưng hồ bị vỡ và gây ra thảm họa là các hồ của công trình thủy điện lớn. Còn mấy cái hồ của các nhà máy thủy điện ở miền Trung thuộc loại nhỏ, nếu có vỡ cũng chẳng gây ra thêm ảnh hưởng gì đáng kể!

Trong đợt lũ vừa qua ở miền Trung có hồ thủy điện nào bị vỡ đâu? Nên nói “lũ chồng lũ” là sai với thực tế. Cũng như quy kết các nhà máy thủy điện này gây ra lũ càng sai hơn!

Trên một dòng sông nếu có nhiều nhà máy thủy điện thì cũng chỉ có một dòng lũ của trời thôi.

Nhận xét:

Lại ngụy biện cherry picking hay nut-picking. TS Phúc huyên thuyên các số liệu làm “thí dụ” về lưu lượng, dung tích hồ chứa nhưng không đưa ra bằng chứng để minh chứng cho tuyên bố “Không nhà máy nào làm như vậy!”.

Tôi không biết là chính quyền có kiểm soát chặt chẽ quy trình vận hành của các nhà máy thủy điện hay không, thí dụ việc xả nước có phải ghi vào log-book hay không. Nhưng nếu đã khẳng định rằng “Làm khoa học thì phải tôn trọng sự thật” thì TS Phúc có nhiệm vụ phải chứng minh, không thể đưa ra một tuyên bố suông và đòi hỏi người nghe phải chấp nhận như là sự thật.

  1. Vietnamnet: Vậy hóa ra chuyện lũ chồng lũ là không có?

TS Phúc:

Tôi nhắc lại thế này, lũ là lũ trời, thủy điện chỉ chứa nước để sản xuất điện và tham gia cắt lũ vào mùa mưa, cung cấp nước vào mùa hạn. Đó là nguyên tắc.

Nguyên tắc này đúng với các nhà máy thủy điện lớn như thủy điện Sông Đà, thủy điện Hòa Bình, thủy điện Trị An v.v… được giao nhiệm vụ. Còn các nhà máy thủy điện miền Trung thuộc loại nhỏ như nắm tay thì chẳng có khả năng thực hiện nhiệm vụ đó nên chẳng ai giao làm gì.

Trong nghề thủy điện có khái niệm “thủy điện xả nước”, tức là xả nước trời. Nghĩa là thủy điện cho nước trong hồ chứa chảy ra khi cần thiết, tùy trường hợp. Nhưng tất cả các trường hợp này đều không góp phần gây ra tác động làm cho lũ lớn hơn, dữ dội hơn. Ngược lại, chỉ có lợi khi vùng hạ du bị hạn hán, hồ thủy điện phải xả nước chống hạn. Điều này cũng chỉ đúng với các thủy điện lớn mà thôi!

Tôi rất ngạc nhiên khi có ai đó khẳng định thủy điện phải có kế hoạch xả lũ! Sao mà có kế hoạch như thế được? Lũ là của trời, lũ tràn tới hồ thủy điện đầy thì phải xả chứ chứa vào đâu cho hết? Vì vậy kế hoạch xả lũ nếu có cũng phải là kế hoạch của trời!

Tôi xin khẳng định, nếu không có hệ thống thủy điện nhỏ ở miền Trung thì trận lũ vừa qua vẫn xảy ra và thiệt hại cũng như vậy thôi!

Nhận xét:

“Lũ là của trời, lũ tràn tới hồ thủy điện đầy thì phải xả chứ chứa vào đâu cho hết? Vì vậy kế hoạch xả lũ nếu có cũng phải là kế hoạch của trời!”, TS Phúc lại ngụy biện “tam đoạn luận sai”.

Lũ là của trời nhưng thủy điện là của các nhóm lợi ích và, như đã chỉ ra ở trên, vì lợi nhuận của mình mà họ bất chấp những thiệt hại với môi sinh, với tài sản và tính mạng của nhân dân.

Là người “làm khoa học”, TS Phúc nên nhìn vấn đề khoa học hơn và rộng lớn hơn: miền Trung đã bị quá tải với thủy điện, do đó phải hướng đến các nguồn năng lượng xanh bền vững hơn.

Trong khi đó thì lập luận “các nhà máy thủy điện miền Trung thuộc loại nhỏ như nắm tay” và “nếu không có hệ thống thủy điện nhỏ ở miền Trung thì trận lũ vừa qua vẫn xảy ra và thiệt hại cũng như vậy thôi” càng làm mạnh thêm cái ấn tượng về sự “bất nhân” đã nói ở trên, khi ông cho rằng việc xả lũ là “bất khả kháng”.

This entry was posted in Vấn đề hôm nay and tagged . Bookmark the permalink.