Hoàng Hưng
Ngày 30/10/1985
Trại cải tạo Thanh Cẩm, Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá
Trước đó khoảng nửa tháng, một buổi sáng trại viên tập hợp trước khi đi lao động, tôi chuẩn bị lên đọc báo Nhân Dân như nhiệm vụ thường ngày của người “phụ trách văn hoá” trong “Ban đại diện tù cải tạo”, thì Giám thị trại xuất hiện, ra lệnh cho tất cả trại viên là sĩ quan công chức Sài Gòn về lán thu xếp nội vụ để… được về nhà!
Sau khi về lại xã hội, tôi mới biết đó là đợt trả tự do cuối cùng cho sĩ quan công chức cao cấp Sài Gòn gồm khoảng 60.000 người, cũng là lúc rục rịch cho đường lối “Đổi mới” năm 1986 khi đất nước sắp lâm vào đường cùng về kinh tế!
Tiếng xôn xao náo động trong ít giây, rồi ào ào những con người mừng rỡ chạy rất nhanh về các lán.
Tôi phải đi kiểm tra vệ sinh các lán tù hình sự, không được chứng kiến cảnh họ ra về như thế nào. Nhưng tối hôm ấy, trong lán “chính trị Bắc”, một không khí u trầm khác hẳn ngày thường. Mọi người, trong đó có tôi, đều thao thức: Không biết bao giờ đến lượt mình?
Khoảng nửa tháng sau, đúng ngày 30/10/1985, buổi sáng trại viên tập trung trước giờ lao động, tôi chuẩn bị đọc báo Nhân Dân thì bỗng nghe tiếng loa: “Hoàng Thuỵ Hưng về lán thu xếp nội vụ!”. Choáng! Vứt ngay tờ báo xuống đất và bỏ chạy một hơi về lán!
Lên phòng trực ban, nhận tờ “Giấy ra trại”, chắc là tay có run run!
Giấy ghi:
“… Thi hành án văn, quyết định tha số 185 ngày 7 tháng 10 năm 85… Nay cấp giấy tha cho anh, chị có tên sau đây: Hoàng Thuỵ Hưng sinh năm 1942… Can tội: Tuyên truyền văn hoá phẩm đồi truỵ [!!!] Bị bắt ngày 20/8/82 [ngày bị bắt chính xác là 17/8/1982] Án phạt: 3 năm TTCT Theo quyết định, án văn số 230 ngày 30 tháng 1 năm 84 của Bộ nội vụ…”
Thắc mắc đầu tiên của tôi khi đọc tờ giấy này: Tại sao họ chuyển tôi từ tội “lưu truyền văn hoá phẩm phản động” trong lệnh bắt thành “tuyên truyền văn hoá phẩm đồi truỵ” trong lệnh tha! Hay là họ không muốn lan truyền một bằng chứng là Việt Nam có tù nhân chính trị (rõ ràng với hai chữ “phản động”)! Suy nghĩ này được củng cố khi tôi trò chuyện với các anh bị bắt và tập trung cải tạo trong vụ án “xét lại” những năm 1960: khi ra trại, các anh thậm chí không được trao cho một giấy tờ gì giắt lưng! Bác sĩ nha khoa Phan Thế Vấn, một nạn nhân trong vụ này, kể với tôi rằng: Sau 1975, anh vào Sài Gòn; được người bạn lúc đó làm giám đốc Sở Y tế (Bác sĩ Dương Quang Trung) đưa vào làm việc trong ngành, nhưng đến lúc khai lý lịch thì không ai chứng nhận cho thời gian 5 năm đi cải tạo và cũng không có giấy tờ gì để chứng minh, như vậy bị coi là “lý lịch không rõ ràng”, nên không được “tổ chức” chấp nhận!!!
Điều nữa đáng ghi nhận: theo đúng “luật”, án phạt của tôi là “3 năm”, thì đúng ra tôi phải được về vào 17 hoặc 20/8/1985, nhưng hệ thống hành chính quan liêu đã khiến tôi phải chịu thêm hơn 3 tháng trong tù, tức hơn 39 tháng thay vì 36 tháng!
Viên đại uý phụ trách giáo dục của trại Thanh Cẩm nguyên là một giáo viên Văn (anh đã rất tử tế với tôi trong thời gian tôi ở trại; đáng tiếc là tôi không nhớ được tên anh). Anh trao cho tôi tờ “giấy ra trại” và mời tôi về nhà ăn bữa cơm trưa trước khi về Hà Nội.
Chuyến xe ca đưa tôi từ thị trấn Cẩm Thuỷ về đến nhà ga Thanh Hoá thì trời đã tối. Không hiểu sao một bản năng xui tôi chen vào giữa đám trẻ bụi đời trong sân ga. Hình như dáng vẻ nhếch nhác, khổ sở của một thằng tù thích hợp hơn với đám trẻ ấy hơn là với những người đang đợi chuyến tàu sáng mai trong nhà ga! Và thật kỳ lạ! Đêm hôm ấy tôi đã ngủ ngon hơn bất kỳ đêm nào trong suốt 39 tháng qua!
Chuyến tàu sáng 31/10/1985 từ Thanh Hoá mãi tới tối mới đưa tôi về đến Hà Nội!
Xẩm tối 31/10/1985, tôi lặng lẽ tự mở cửa căn phòng lớn của bố tôi trên gác 2 ngôi nhà tổ phụ (14 Đường Thành Hà Nội). Thật bất ngờ: cả nhà đang ngồi quanh chiếc bàn ăn lớn gỗ lim gia truyền nạm đồng 100 chữ “Phúc”: bố và tất cả các anh chị em, các cháu trai cháu gái tụ họp ăn mừng sinh nhật lần thứ 83 của bố (31/10/1902-1985)! Vợ tôi từ Sài Gòn ra cũng có mặt, chắc em ra để chuẩn bị lên trại thăm tôi lần thứ hai!
(Thật tình cờ, tôi viết bài này cũng đúng vào sinh nhật thứ 123 của bố và lúc mình sắp tròn 83 tuổi Tây (24/11/1942-2025).
Ngày hôm trước, 30/10/1985, là ngày kết thúc cuộc đời tù đày “lãng xẹt” của tôi sau hơn 39 tháng, qua 3 cơ sở giam giữ của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam!
Sau khi được trả tự do, tôi ở lại Hà Nội cùng vợ ít ngày trước khi trở về Sài Gòn.
Việc đầu tiên là đi thăm và cảm ơn cơ quan cũ đã dành cho mình những tình cảm đặc biệt khi trong thời gian mình gặp nạn: Báo Người Giáo viên Nhân dân và Bộ Giáo dục.
Chuyện được coi là hy hữu trong thời “toàn trị”: Báo Người Giáo viên Nhân dân đã trả lương đều đặn và gửi quà cho tôi trong suốt 2 năm tôi ở tù (người đem quà cho tôi là Thư ký công đoàn cơ quan, chị Trần Thị Nhâm), bất chấp lời phàn nàn của Công an. Thậm chí Công an gửi đến báo lệnh tập trung cải tạo đối với tôi (23/1/1984), mà đến 20/10/1984 Bộ Giáo dục mới ra quyết định “cho ông Hoàng Hưng thôi việc vì vi phạm pháp luật bị tập trung cải tạo” (chứ không “buộc thôi việc” như thường thấy trong các vụ tương tự). Và còn cho tôi “được trợ cấp 2 tháng lương kể cả các khoản phụ cấp nếu có”.
Người có vai trò lớn trong chuyện này là nhà báo Trường Giang (Nguyễn Trường Thuỵ), Bí thư Chi bộ Đảng, Thư ký Toà soạn báo Người Giáo viên Nhân dân. Anh kể với tôi: Công an trách là họ đang “đấu tranh” với tôi mà sao báo lại ưu ái, khiến công việc của họ gặp khó khăn. Anh đã trả lời: “Chúng tôi không biết anh Hưng bị bắt vì tội gì, nhưng ở cơ quan anh là một người gương mẫu, được anh chị em trong cơ quan quí mến”.
Đến Bộ Giáo dục, tôi tìm gặp GS Nguyễn Văn Hạnh, Thứ trưởng, người thầy dạy tôi ở Khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội khi mới tốt nghiệp Phó Tiến sĩ ở Liên Xô về. Tôi là cán sự bộ môn Lý luận văn học của thầy (và còn là cán sự bộ môn của vài môn khác: Văn học nước ngoài, Ngôn ngữ học, Văn học Việt Nam hiện đại… Lý do là: trình độ của sinh viên Văn thời đó rất không đồng đều, gần nửa là cựu giáo viên cấp 2 vùng nông thôn, miền núi, không có điều kiện đọc sách, mở mang kiến thức. Tôi thường phải tập trung lớp vào buổi tối, “giảng” lại những bài giảng của các thầy trên hội trường). Thầy Hạnh rất quí tôi, khi tôi tốt nghiệp thầy đã đề nghị giữ tôi lại làm giảng viên của trường nhưng ông Bí thư Chi bộ dạy Văn học dân gian Đỗ Bình Trị phản đối vì cho là tôi có “lý lịch xấu”! Thật ra tôi biết ông ngầm ghét tôi ngay từ năm thứ nhất, khi tôi được ông chỉ định lên thực tập giảng văn bài ca dao “Trèo lên cây bưởi hái hoa…” nhưng đã soạn một bài khác hẳn với những ý mà ông đã dạy trước đó!
Thầy Hạnh bất ngờ và vui mừng khi tôi đến chào. Sau một hồi trò chuyện, thầy bất ngờ đưa ra một đề nghị: tôi về Bộ làm chuyên viên theo dõi chuyên môn ở trường phổ thông! Nhưng, với một “tiền sự” về văn chương, tôi không thể chuyên trách môn Văn, mà sẽ theo dõi môn… Thể dục!
Tôi cảm ơn thầy, nhưng tỏ ý muốn về sống trở lại ở Sài Gòn với vợ con (và chắc chắn Sài Gòn là nơi dễ sống hơn Hà Nội, nhất là với một người có thân phận cựu tù nhân như tôi – tất nhiên đó là điều tôi không nói ra).
Trong những người bạn thân quí mà tôi gặp lại ngay sau khi ra tù là anh Nguyễn Kiến Giang, cựu tù nhân vụ án “Xét lại”, vợ chồng nhạc sĩ Đỗ Cường Chi, người “môi giới” cuộc gặp gỡ giữa tôi và người vợ tương lai.
Nếu ở Hà Nội, có mấy người bạn văn chương thân thiết không giấu nổi vẻ mặt sửng sốt và lúng túng, thậm chí hơi sợ hãi khi tôi bước vào cửa (một sự thật mà tôi đã đưa vào bài thơ “Người về”: “Người về từ cõi ấy/ Bước vào cửa người quen tái mặt”) thì ở Sài Gòn có khác.
Tôi nhớ một hôm đang đạp xe trên phố thì gặp nhà văn Nguyễn Khải đạp ngược chiều. Anh phanh ngay xe lại và giơ tay chào tôi. Rồi tiến đến vui vẻ chúc mừng tôi đã trở về! Cũng có lần gặp thầy dạy cũ ở Đại học Sư phạm Hà Nội, thầy Trần Thanh Đạm lúc đó là Hiệu trưởng Đại học Sư phạm TPHCM. Thầy cũng dừng xe đạp thân ái hỏi thăm và chân tình khuyên: “Cậu nên đi thanh niên xung phong một thời gian” (ý là để rèn luyện tư tưởng thêm, hoặc là để có công việc sinh sống?).
Trong các bạn văn nghệ, thì Trần Hoài Dương (NXB Trẻ) và hai vợ chồng Nhật Tuấn (NXB Văn học) – Thu Hồng (báo Thể Thao Văn hoá) là những người đầu tiên đến thăm và cho quà! Đó cũng là hai người bạn tận tình đi lại giúp đỡ vợ tôi trong thời gian tôi đi tù. Trần Hoài Dương là nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi, quen và thân thiết với tôi từ những năm 1960 khi chúng tôi cùng là cộng tác viên của nhà thơ Phạm Hổ ở báo Văn Nghệ (anh Phạm Hổ phụ trách trang Thơ của báo, đồng thời là nhà thơ nổi tiếng về mảnh thơ thiếu nhi). Trần Hoài Dương là con người sống rất lý tưởng. Sau này, Trần Hoài Dương làm biên tập viên của tạp chí Cộng Sản, là người dìu dắt Nguyễn Phú Trọng trong thời gian người này tập sự. Cuối đời, anh chán ngán sự đời, xa vợ con, sống cô độc và chết một mình không ai biết sau một cơn say rượu bia.
Tôi được an ủi khi biết rằng trong thời gian tôi đi tù, gia đình tôi đã nhận được sự thông cảm yêu thương của tất cả bà con khu phố, kể cả anh cảnh sát khu vực, của ông tổ trưởng dân phố, của các thầy cô giáo dạy cháu Hoàng Ly. Anh cảnh sát khu vực (đến tận hôm nay vợ tôi vẫn nhớ tên anh, anh Khen) hôm đưa nhóm công an Hà Nội đến khám nhà tôi, đã nhắc khéo họ là “em trai anh Hưng là liệt sĩ chống Mỹ”. Các thầy cô giáo dạy cháu Ly ở trường cấp 1 Ngô Sĩ Liên, những chiều tan học mà vợ tôi đi làm ăn chưa kịp tới đón, đã tự ý đèo cháu về nhà. Vợ tôi bơ vơ và ngây thơ bước chân bươn chải vào chợ đời được nhiều người cảm thương và giúp đỡ vô tư.
Và lúc này mới được nghe vợ kể một ít về những gian lao vất vả mà em đã phải lặng lẽ vượt qua trong vài ngàn ngày đêm một mình cáng đáng gánh nặng nuôi chồng tù, con dại, và bà mẹ chồng già yếu; những thách thức trong công việc và quan hệ ở nơi làm việc mới. Tính em kín đáo, có những chuyện buồn mà thậm chí mãi đến 40 năm sau, khi tôi viết những dòng này, em mới kể cho nghe.
Tâm sự đôi lứa nhiều năm sau đã được ghi lại phần nào sau một đêm mưa lớn trong bài thơ được nhiều người chia sẻ:
MÙI MƯA HAY BÀI THƠ CỦA M.
Tất cả nước mắt loài người bao vây nhà ta
Nằm bên anh em kể câu chuyện buồn
Chôn sâu trong lòng giờ mới nói ra
Gợi ý của trận mưa chưa từng thấy
Đã một nghìn đêm mưa trắng đêm
Điên cuồng nhớ mùi anh như con bò cái nhớ mùi phân rác
Anh đánh mất mùi anh trên những sàn đá lạ
Chỉ còn mưa mùi nước mắt đêm
Em còn yêu anh không yêu đến đâu giận ghét đến đâu
Mười lăm năm lòng mình chưa hiểu hết
Mưa mưa ngập tầng trệt
Đưa nhau lên gác xép nằm nghe mưa sập mái tôn
Ước nằm nghe mưa rồi chết
Đêm 25/6/1992
Sau vài ngày nghỉ ngơi, bắt đầu lo tính chuyện sinh sống.
Khi bàn bạc với vợ, tôi nêu ra ý tưởng bán phở gánh như lời khuyên của ông bạn trong tù, nhưng vợ tôi kiên quyết gạt đi, nói không thể phí phạm vốn kiến thức tôi đã tích luỹ được bao nhiêu năm trời!
Có một chuyện vui đáng kể lại xung quanh chuyện sinh sống của tôi lúc ấy. Về nhà chẳng bao lâu thì có cô công an tên Lạng đến chơi. Tôi đã gặp cô ở nhà anh cả tôi ở Hà Nội sau khi ra tù, sau mới biết cô là sĩ quan an ninh theo dõi y tế! Cô đề nghị tôi “hợp tác” với an ninh, đổi lại tôi sẽ được giao cho 1 kiosque ở đường Nguyễn Huệ để buôn bán phim, giấy ảnh! Tôi hỏi: “Hợp tác” cụ thể là làm gì? Nếu là cho biết ý kiến của mình về những vấn đề văn hoá, văn nghệ mà an ninh quan tâm thì tôi sẵn sàng! Nhưng cô nói: Cụ thể là như thế này: Anh là người giao du thân mật với nhà thơ Nguyễn Duy (Đúng thế! Hai chúng tôi đều từng được giải thưởng Thơ của báo Văn Nghệ, anh đã đến chơi với tôi ở Hà Nội, và vào Sài Gòn thì tôi rất hay lui tới nhà anh ở nhà tập thể văn nghệ sĩ đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa; chúng tôi quí nhau, thậm chí tôi còn rủ anh… buôn chung, có lần còn cùng mất tiền toi vì bị lừa mua “bạch kim” từ xác máy bay!). Cô bảo: Gần đây Nguyễn Duy hay tiếp khách là Việt kiều ở trụ sở chi nhánh của báo Văn Nghệ trên đường Đồng Khởi mà Duy là trưởng chi nhánh, chúng tôi biết chỉ có anh có thể tham dự những buổi như thế… Tôi lập tức đáp thẳng cánh: “Xin lỗi! Gia tộc tôi không có ai táng vào mả chó!”. Từ đó không còn gặp lại cô, nhưng vài năm sau thì đọc báo thấy tin cô cùng vài đồng sự bị bắt vì một vụ làm ăn phi pháp gì đó!
(Không “dụ” được tôi, sau đó an ninh đã có được “cộng tác viên” là một nhà nghiên cứu văn học làm hợp đồng ở chi nhánh báo Văn Nghệ. Nhưng bị phát hiện, anh này được nghỉ việc. Khi biết chuyện tôi đã từng từ chối “lời đề nghị khiếm nhã” của an ninh, Nguyễn Duy càng quí mến tôi).

Khúc sông Mã gần trại Thanh Cẩm

Giấy ra trại

Thăm lại Bố đầu thập niên 1990

Vợ chồng nhà báo Trường Giang đến chơi vài năm sau khi tôi ra tù

Hoàng Hưng và Trần Hoài Dương những năm 1960

Hoàng Hưng và Nhật Tuấn những năm 1990

Hoàng Hưng và Nguyễn Duy năm 1990