Thầy tôi: Giáo sư, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ

Đỗ Duy Ngọc

 

Vào những năm đầu của bậc trung học, tôi đọc được truyện ngắn Chiếc chiếu hoa cạp điều của nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Truyện đã khiến cho đứa bé mới lớn ở thành phố miền Nam là tôi thấm thía và xúc động. Một câu chuyện với lối viết chân tình như một lời tâm sự mang tính nhân văn kể lại chuyện buồn của một gia đình trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Bắc. Chính phong cách viết đấy đã khiến tôi tìm đọc thêm nhiều tác phẩm của nhà văn. Ở mỗi lứa tuổi, cách nhìn vấn đề, cách suy nghĩ mỗi khác nên càng đọc truyện của nhà văn tôi càng ngưỡng mộ và kính trọng. Ở phần kết của truyện, tác giả viết: “Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành.

Thấy tôi hằng kiềm chế được nóng giận và nhất là vẫn mỉm cười, khi ứa nước mắt các bạn bè thân thường khen tôi có thái độ hồn nhiên của Trang Chu.

Các bạn yêu quý của tôi!

Các bạn có ngờ chăng thái độ hồn nhiên đó là kết quả của biết bao cảnh cơ hàn mà tôi và những người thân của tôi đã trải qua, trong đó có chuyện chiếc chiếu hoa cạp điều!”

Cái kết đó cho tôi hình dung ra tính cách của nhà văn, và điều đó khiến cho tôi thêm kính trọng.

Năm 1973 để kỷ niệm hai mươi năm văn học miền Nam 1954-1973, Chiếc chiếu hoa cạp điều đã được chọn để đưa vào tuyển tập Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta.

Từ truyện ngắn này, tôi đến với những tác phẩm văn chương của nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Tôi đọc trường thiên tiểu thuyết Khu rừng lau gồm bốn tập: Ba sinh hương lửa, Người đàn bà bên kia vĩ tuyến, Tình yêu thánh hóa, Những ngả sông trong những năm cuộc chiến tranh Nam Bắc đang thời kỳ cao điểm. Và những cuốn sách đấy giúp tôi nhìn và suy nghĩ về một mặt khác của chiến tranh.

Lên đại học, tôi học Ban Việt Hán, Đại học Vạn Hạnh và tôi hân hạnh được học môn Phê bình Văn học do Giáo sư Doãn Quốc Sỹ giảng dạy. Vốn ngưỡng mộ và kính trọng nhà văn đã lâu nên được làm học trò của Thầy đối với tôi là niềm vinh dự.

Giáo sư, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ có dáng người cao, da nâu, khuôn mặt xương xương nhưng nhìn không khắc khổ. Thầy có nụ cười hiền và phong thái tự tin.

Tuy cách giảng bài của Thầy không hùng hồn, lôi cuốn nhưng nội dung đã mở cho đám sinh viên đang khát khao văn chương chúng tôi cánh cửa vào với văn học, bởi Thầy vốn rất tinh tế và uyên bác. Để nghiên cứu thêm về văn học, tôi tìm đọc những khảo luận của Thầy như Khảo luận về Cao Bá Quát, về Nguyễn Công Trứ, về Đoạn Trường Tân Thanh, về Tản Đà, về Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Tự Lực Văn Đoàn… Những tư liệu trong các khảo luận đó đã bồi bổ kiến thức cho tôi, giúp tôi có thêm hành trang phong phú trong việc giảng dạy văn học sau này.

Thầy không chỉ là nhà giáo mà còn là người viết có nhân cách và tâm đạo sáng trong, thể hiện rõ trong từng trang văn, luôn hướng về cái đẹp, cái thiện và lòng từ bi của con người Việt giữa những đổi thay khốc liệt. Những tiểu thuyết như Khu rừng lau, Gìn vàng giữ ngọc, Sợ lửa, hay tập Người Việt đáng yêu đều toát lên một tinh thần nhân bản, vị tha và đầy đạo vị mà ít người giữ được đến cuối đời. Được nghe Thầy giảng dạy những năm đại học là niềm tự hào vì Thầy là một nhân cách lớn và một cây bút tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, đặc biệt là của thời kỳ miền Nam trước 1975.

Trong thời gian học với Thầy, có lần làm tiểu luận, tôi viết về vụ Nhân văn Giai phẩm ở miền Bắc. Tư liệu về vụ án này hồi đó trong thư viện rất ít ỏi. Vài bài báo lẻ tẻ và đặc biệt là cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (tài liệu về vụ án Nhân văn Giai phẩm 1956) do Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hoá xuất bản, Sài Gòn năm 1959. Tôi chủ yếu lấy tư liệu trong cuốn này để làm bài và kết hợp với suy nghĩ của tôi về việc tự do sáng tác của người nghệ sĩ sáng tạo. Không ngờ, khi trả bài, Thầy Doãn Quốc Sỹ lại cho tôi điểm A+ với lời khen ngợi. Đó là kỷ niệm đáng nhớ. Trong thời gian học ở Đại học Vạn Hạnh tôi cũng có một cuộc triển lãm tranh riêng, hôm khai mạc Thượng Toạ Viện trưởng Thích Minh Châu và Giáo sư Doãn Quốc Sỹ cùng đến dự. Thầy bắt tay, vỗ vai tôi và bảo hay lắm. Tôi vui vì được khích lệ.

Sau năm 1975, tôi không còn được gặp Thầy. Rồi Thầy cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ. Thầy đi tù hai lần và ở trong tù Thầy đã thể hiện bản lĩnh và phong cách vững vàng của mình. Theo nhà văn Nguyễn Mộng Giác kể lại: “Đêm tối đen. Tôi hỏi thăm ông về những năm tháng ở trại Gia Trung, nhân tiện hỏi hư thực về tin đồn bên ngoài bảo rằng từ khi bị bắt, ông cương quyết quay mặt vào tường, tọa thiền diện bích, từ chối không trả lời những câu hỏi của cán bộ chấp pháp. Ông cười, rồi nói: “Anh em ở ngoài vì thương nên đồn đãi như vậy. Làm vậy có ích gì! Cái cốt yếu là giữ được tư cách”.

Ông nói câu ấy với giọng bình thường, không cao giọng, không bậm môi rướn cổ. Ánh đèn từ trong nhà lọt qua cửa kính, khuôn mặt của ông trông xương xương hơn xưa, nhưng ánh mắt vẫn sáng vui.”

Thầy vẫn thế, bất kỳ trong hoàn cảnh nào cũng vững vàng, xử sự như một thiền sư. Thầy không oán hận, thù hằn và căm tức về thời gian bị tù đày, thản nhiên đi qua những khổ nạn.

Cách đây 15 năm, vào những năm 2010 và sau đó, tôi có thực hiện một trang web về văn nghệ sĩ Việt Nam và thế giới. Bên cạnh phần giới thiệu thường đi kèm chân dung. Giáo sư, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ là một trong những người đầu tiên tôi vẽ và giới thiệu. Sau này, một cô bạn học ở Đại học Sư Phạm có quen biết với chị Doãn Liên, con gái của Thầy, tôi nhờ cô bạn gởi Thầy bức chân dung. Tôi mong Thầy sẽ vui vì đã hơn nửa thế kỷ với biết bao biến cố, vẫn còn đứa học trò ngày xưa vẫn tha thiết nhớ đến Thầy.

Năm 2019, trong một lần đến Mỹ, tôi đến thăm Thầy. Lúc này Thầy đã 97 tuổi, bước chân còn vững hơn tôi dù đã bắt đầu lẫn. Được gặp Thầy quá vui. Lúc ấy, Thầy thường ngồi dùng kéo cắt giấy vụn, tôi không hỏi nhưng tôi nghĩ đó là một cách vận động gân cốt. Hai Thầy trò nói chuyện nhưng mỗi người nói mỗi cách vì Thầy đã lãng tai. Đó là lần cuối cùng tôi được gặp Thầy và nắm tay, chụp hình cùng Thầy.

Thầy đã cỡi hạc quy tiên ở tuổi đại thọ 103. Nhưng những tác phẩm, cách sống và tư tưởng của Thầy vẫn còn đó. May mắn là người được học với Thầy, được nghe Thầy giảng trong những buổi học môn Phê bình Văn học đã gieo trong tôi hạt giống văn chương, nhân bản và tự trọng trí thức. Tôi mang ơn Thầy.

Vĩnh biệt Thầy, Giáo sư, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ.

Chân dung thầy do trò vẽ

Thầy bên cạnh tranh chân dung do trò vẽ

Thầy và trò

 

Thầy và trò

Thầy ngồi cắt giấy

Chân dung thầy do trỏ vẽ

 

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.