Bất ngờ… Mường Mán

Nguyễn Khắc Phê

“Mường Mán” ở đây là bút danh một nhà văn quê ở An Truyền, vùng đất có rượu làng Chuồn nổi tiếng ở Huế, chứ không dính dáng gì đến người Mường, người Mán. Tên thật của anh là Trần Văn Quảng. Còn nhớ lần đầu gặp anh hai chục năm trước, khi anh đang kiếm sống một cách vất vả tại Cần Thơ.

Vợ chồng anh cưới nhau tại Huế mười năm trước đó, thời điểm cả nước phải ăn bo bo, dải đất hẹp miền Trung càng khốn khó, nên thay vì đến nơi thơ mộng hưởng tuần trăng mật, chàng và nàng dắt díu nhau đi tìm miền đất dễ sống hơn.

Cần Thơ lúc đó hình như cũng “cần… gạo” hơn “cần… thơ” nên Mường Mán phải xoay làm đủ nghề. Cũng may anh có Phương Bình “người đã cần mẫn chăm chút từng miếng ăn giấc ngủ, từng niềm hy vọng, là cái phanh kỳ diệu lắm phen đã dừng lại kịp lúc các cơn tuột dốc tinh thần, thể chất của kẻ nàng đã chọn giữa muôn ngàn thế gian…”. (Tự bạch của Mường Mán).

Nàng đã là nguyên mẫu trong một truyện ngắn của chàng. Một mối tình đẹp – nói vui thì cũng là “hoa khuê các” yêu “bướm giang hồ”. Nàng con nhà khá giả trên phố, nữ sinh Trường Đồng Khánh, Huế, chàng thì vóc dáng cục mịch, một đời phiêu dạt, đến cái bút danh cũng kỳ quặc…

Nói về cái bút danh gây tò mò cho nhiều người này, Mường Mán khẽ cười, bảo tôi: “Hồi mới viết, tụi bạn đứa nào cũng chọn bút danh mỹ miều, nên tui đặt “Mường Mán” nghịch đời chơi!”.

Sự đời ngẫm cũng vui. Bạn cùng lứa chọn bút hiệu mỹ miều thì rơi rụng gần hết, Mường Mán thì sau 45 năm cầm bút, danh mục tác phẩm dài đến mức khó kể cho đủ. Thì chỉ riêng truyện ngắn viết trước 1975, đã có hơn 100 cái, riêng truyện dài cho tuổi học trò đã có hàng ngàn trang, chỉ nghe đầu đề đã mê: nào là Lá tương tư, Khóc nữa đi sớm mai, rồi Thương nhớ người dưng, Ngon hơn trái cấm, Mùa thu tóc rối, Bâng khuâng như bướm, Trộm trái vườn người

Bẵng đi mười năm, năm 1998, tôi mới có dịp gặp lại Mường Mán tại Nhà Sáng tác Nha Trang. Vẫn với thân hình thấp đậm, nước da bánh mật, ăn mặc lùi xùi có phần khắc khổ, chỉ riêng điệu cười sau hàng ria mép con kiến chứng tỏ anh chàng là tay nghịch ngầm và cũng đáo để.

Quả thực là lúc đó tôi chưa có dịp đọc hết tác phẩm của Mường Mán (và hình như trong giới nhà văn, không ít người chẳng mấy khi chịu đọc tác phẩm của bạn bè!). Cho mãi đến lúc anh tung ra liền hai tuyển tập truyện ngắn dày dặn – Cạn chén tình (NXB Trẻ, 2003) gồm 48 truyện ngắn và Sáu giang hồ và những mảnh đời phiêu dạt khác (NXB Trẻ, 2005) gồm 22 truyện ngắn và truyện vừa, với ai không biết, chứ với tôi là điều rất bất ngờ.

Tôi không ngần ngại gọi Mường Mán là một cây truyện ngắn có hạng; truyện của anh có nhiều khía cạnh thú vị xứng đáng là đề tài luận văn cao học tại các trường đại học. Xin thử dẫn một vấn đề: Trong 70 truyện ngắn công bố trong hai tuyển tập kể trên, quá nửa là truyện viết trước năm 1975.

Tác phẩm đứng được sau hơn 30 năm cũng đã là một vấn đề, nhất là tác giả lại từng ở bên kia chiến tuyến. (Trước 1975, Mường Mán là phóng viên báo chí Sài Gòn ở chiến trường miền Trung.)

Trên những trang văn của anh đầy ắp nhân tình – tình yêu quê hương, trai gái, vợ con, bạn bè…, cả những tình yêu thoáng qua, những kẻ bạc tình và bao trùm lên tất cả là tình yêu thương của tác giả đối với những cuộc đời bất hạnh, những số phận trớ trêu.

Những truyện đề cập trực diện đến cuộc chiến tranh, với cái nhìn nhân bản từ một góc độ mới – góc nhìn cận cảnh của người bên kia chiến tuyến, tác giả đã giúp cho người đọc hiểu được cuộc chiến tranh một cách toàn diện hơn trên cơ sở tôn trọng sự thật, tránh cách nhìn hẹp hòi, định kiến…

Gần đây, Mường Mán lại khiến tôi bất ngờ khi anh gửi tặng tập thơ Dịu khúc (NXB Trẻ, 2008). Thì ra anh có thơ đăng từ năm 1964 trên các tạp chí, tuần báo văn nghệ ở Sài Gòn, đến năm 1968 mới viết truyện.

Mà sao lại không vui khi tác giả tự kỷ niệm 45 năm cầm bút và 30 năm ngày cưới bằng một tác phẩm thật xinh xắn, trang nhã ghi lại “một phần của tuổi thanh xuân cần được nâng niu giữ gìn.”” (Tựa của nhà văn Ngụy Ngữ).

Nói đến Dịu khúc, Mường Mán lại thích thú nhâm nhi những kỷ niệm xưa trong bài thơ Qua mấy ngõ hoa được lắm bạn đọc mê thích hoàn toàn ngoài dự kiến của tác giả: “…Không ngó anh, răng nhìn xuống đất/ Đất có chi đẹp đẽ mô nờ/ Theo nhau từ hôm nớ hôm tê/ Anh hỏi mãi răng o không nói…”.

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.