[Rút từ bộ tư liệu ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI do Lại Nguyên Ân và Nguyễn Thị Bình tổ chức sưu tầm, bản đánh máy do Trung tâm VH-NN Đông Tây thực hiện]
NHỮNG NHỊP MẠNH CỦA TIỂU THUYẾT THÂN PHẬN CỦA TÌNH YÊU (HAY NỖI BUỒN CHIẾN TRANH)
ĐỖ ĐỨC HIỂU
Về nhan đề tiểu thuyết của Bảo Ninh
Trong văn học Việt Nam mấy chục năm nay, có thể Thân phận của tình yêu là quyển tiểu thuyết hay về tình yêu, quyển tiểu thuyết tình yêu xót thương nhất; có thể Phương là nhân vật phụ nữ đẹp nhất trong tiểu thuyết hiện đại Việt Nam; và có thể nhan đề “Thân phận của tình yêu” thật phù hợp với ý nghĩa tác phẩm.
Nỗi buồn chiến tranh thể hiện một điểm nhìn mới về cuộc chiến tranh kéo dài 35 năm; những cảnh tả chiến tranh, những định nghĩa về chiến tranh la liệt trong tác phẩm, những chữ, những câu, những hình tượng gây những cú sốc liên tiếp, gây ngạc nhiên, sửng sốt và sáng tạo một vũ trụ mới của cuộc chiến, vũ trụ trùng trình trong mưa; “mưa” là biểu tượng khủng khiếp của Châu Thường: “mùa mưa”, “mưa rơi”, “mưa nhỏ”, “mưa đêm”, “mưa dầm”, “mưa xanh ngát”, “mưa xối giội”, “mưa kinh khủng”, “mưa ngút trời”… Bảo Ninh không “sao chép”, không “phản ánh”, không “tái hiện” cuộc chiến tranh, mà xây dựng, sáng tạo một thế giới chiến tranh cá tính hóa triệt để, nhà văn làm lại thế giới ấy, qua quá khứ, giấc mê, qua ảo giác, qua những “hồi tưởng đen” (tr.212). Thật lạ, nó tun hút, tun hút lùi, chạy về quá khứ, mà vẫn ám ảnh người đọc, ám ảnh con người, bám riết không gian và thời gian.
Nỗi buồn chiến tranh và “nỗi buồn tình yêu” (tr.98) thấm vào nhau, hòa lẫn nhau, da diết, xót xa, hủy diệt, đó là hai nhịp mạnh của quyển tiểu thuyết. Kiên vẫn phải sống, sống một thời hậu chiến u buồn (nỗi buồn hậu chiến), vì một “thiên mệnh” mờ mịt, xa vời, tối tăm và đau xót, được biểu đạt bằng “đêm”, (“bóng đêm”, “đêm hè”, “đêm trường”, “đêm ác mộng”, “không giờ”, “đêm mưa”, “đêm hoang vu”, “đêm của tâm hồn”, “đêm thức trắng”). Chỉ một trang, (tr.126 hoặc tr.164, chứa đựng hàng chục tiếng “đêm”: “đêm đen”, “đêm âm u”, “đêm rét mướt”, “trong đêm”, “đêm thác loạn”, “đêm kỳ ảo”, “đêm hương hoa”…) “Nhà văn của phường” như người mộng du, lang thang cả đêm khắp phố phường, đêm đêm viết hàng “núi giấy”, những chữ, những câu xuất hiện từ “bóng đêm âm u” của tiềm thức, vô thức, từ “cõi âm”, trở thành những hình tượng ảo giác trên trang bản thảo. Đêm Hà Nội, đêm linh cảm, những đêm hình thành (một cách lộn xộn, bừa bãi) quyển tiểu thuyết, đó là một tiểu thuyết trong tiểu thuyết. Đó là nhịp mạnh thứ ba của Thân phận của tình yêu, của Nỗi buồn chiến tranh. Tình yêu, chiến tranh, viết tiểu thuyết, ba nhịp đó xen kẽ, đan chéo, gây chóng mặt, bàng hoàng, nhức nhối. Mưa và đêm, chiến tranh và sáng tác; khủng khiếp và hồn hoang. Len lỏi, bao trùm và dẫn dắt tất cả các biến động của tiểu thuyết (mưa và đêm) là một mối tình đau xót, kéo dài, vang vọng, âm ỉ và nổ bùng, hủy hoại tất cả, xây dựng tất cả. Phương – người đàn bà đẹp nhất – được xây dựng bằng những từ ngữ, những câu văn, những đoạn văn đầy tính nhạc, những âm điệu lả lướt, những trang viết mang tính điêu khắc và cũng bằng những hình tượng pha trộn hương thơm với máu lửa, với đêm đen (được báo hiệu ở tuổi 17, “một sắc đẹp bừng cháy sân trường Bưởi” (tr.144), tức là tình yêu hòa quyện với chiến tranh và với sáng tạo. “Thân phận của tình yêu”, nhan đề ấy nhập thần với tiểu thuyết ấy. “Nỗi buồn nguyên khối” (tr.181) vỡ thành ba mảnh, ba nhịp của một bài ca.
Tiểu thuyết của Bảo Ninh là một giấc mơ dài, một huyền thoại của thời đại.
Thân phận của tình yêu hoặc Nỗi buồn chiến tranh là một hiện tượng ngôn từ lạ lung, mang tính đa thanh, tính đối thoại, là tiểu thuyết mở, nảy sinh từ trực giác, vô thức (không loại trừ ý thức và lý trí). Đó là cuộc hành trình của những mộng du, tỉnh mê, huyền bí. “Viết để nhớ lại”, gợi nhớ Đi tìm thời gian đã mất của Marecl Proust là một điểm gặp gỡ (có ý thức hay không có ý thức) của Bảo Ninh với lý luận hiện đại về văn học.
Ngôn từ tiểu thuyết này tạo nên một sự vận động bên trong phức tạp, bằng sự hỗn hợp những phong cách, những tiếng nói nhiều giọng, những hình tượng nhiều sắc thái, biểu đạt một thế giới bên ngoài (thiên nhiên, phố phường, quán cà phê, hồ Hale…) bị đập vụn, tan tác, cháy bùng, méo lệch, và một thế giới bên trong (suy tư, tâm hồn, đáy sâu của trái tim…) âm u, bị giằng xé, tan nát. Biết bao ngôn từ bùng nổ, biết bao im lặng và khoảng trống, không nói, ngợi ca và chửi rủa, chua chát và ngọt ngào, khẳng định và phủ định, bác bỏ và chấp nhận. Những cái xô bồ và nhộn nhạo ấy chứa đựng nhiều ý nghĩa chìm mà người đọc có thể khai thác. Người đọc bị giằng xé, khắc khoải, bởi chính những ngôn từ sống động, mâu thuẫn nhau, tranh luận với nhau, đặt ra những vấn đề cuộc sống, con người, những vấn đề triết lý, yêu thương, sáng tạo.
Như vậy, bởi vì ngôn từ tiểu thuyết của Bảo Ninh gồm những cấu trúc không ăn khớp, đứt nối, tưởng như chắp vá (chính cái kết cấu phức tạp của tác phẩm, khi kéo dài miên man, khi đột ngột cắt đứt, một trang chứa đựng nào chiến tranh, nào đêm, nào ẩu đả, nào mưa và tình yêu, tình yêu và cái chết), những từ ngữ trái ngược đứng cạnh nhau “một giọng rất thảm hú lên… Phương khẽ cười”, tr.126), chuyển đoạn bằng những tư tưởng như tùy tiện (hàng bao nhiêu lần, tác giả sử dụng: Hồi ấy, Kiên nhớ lại, hồi xưa, người ta kể rằng, cách đây không lâu v.v…) chính lại là “dòng cảm xúc”, “dòng cảm hứng” luôn luôn đột biến, hay sự vận lộng “lỏng” (fluide), uyển chuyển, khó nắm bắt, tức là sự phủ định lý trí hay cái logic.
Những gấp khúc, những câu thơ văn xuôi véo von ca hát xen lẫn những câu văn gãy vụn; một “núi” bản thảo, đốt bản thảo; Kiên thờ ơ và quyết liệt chiếm đoạt cô gái câm; “nhân tính, nhân tính… tính người! Mẹ kiếp!”, “nhân vật của phường, một tay phản loạn và cực kỳ bạc nhược”, tiểu thuyết của Bảo Ninh là một thế giới không ổn định, không khép kín.
Nỗi buồn tình yêu, nỗi buồn chiến tranh, nỗi buồn sáng tạo
Như đã nói trên, “nỗi buồn tình yêu”, “Nỗi buồn chiến tranh” hòa tan với nhau, thành “nỗi buồn sáng tạo” – những nhịp mạnh xen kẽ kết thành một tổng thể mang tính triết lý. Điều đáng ngạc nhiên là cái triết lý về ký ức, quá khứ, nhớ lại dĩ vãng, nó bừng bừng sống dậy, tưởng như triết lý của Proust về thời gian. Chỉ trong vài trang thôi (tr.98-91) trùng điệp biết bao từ nói về thời gian đã qua, chiến tranh và yêu đương: “trường hấp dẫn của quá khứ, “ký ức về một buổi trưa:, “ký ức xa vời”, “cõi không cùng của quá khứ“, “ký ức một ngày mưa lũ”, “quá khứ của quá khứ“, v.v… Mưa (biểu tượng của chiến tranh), đêm (biểu tượng của sáng tác) và tình yêu (đêm và mưa) hòa quyện và quay cuồng gần gũi với quá khứ trong Đi tìm thời gian đã mất của Proust: và như Proust, “thời gian lại tìm thấy”, chính là hành động văn chương, là sáng tác, là viết văn: “Kể lại, viết lại, làm sống dậy những linh hồn đã mai một, những tình yêu đã tàn phai, làm bừng sáng những giấc mộng xưa, đó là con đường cứu rỗi của Kiên” (tr.88).
Thân phận của tình yêu là ký ức về một mối tình đau xót, về một người đàn bà tuyệt đẹp. Truyện mối tình Phương-Kiên kể xen lẫn nhiều mối tình thoảng qua; những khuôn mặt phụ nữ hiền hòa, những trái tim thơ dại, khổ đau (Hòa, Lan Đồi Mơ, Hiền) hay dữ dội (Hạnh), cô “mỹ nhân vỉa hè” (hay cô “cà phê xanh” hay cô “hồ ly tinh”) là những mảnh sắc đẹp và những mảnh tâm hồn của Phương, họp thành bản sao của Phương làm nên chất thơ của quyển tiểu thuyết chiến tranh này và trong chiến tranh hủy diệt, nhiều trang đầy tính thơ ca, được biểu đạt bằng những tiếng đầy âm vang, bằng đôi ba nét gây chấn động lâu dài (những tiếng “vỉa hè: của cô bé hồ ly tinh: vòm, anh giai, lặn, chưởng…”. Đó là đoạn văn ngắn tả tiếng đàn vọng lên từ đáy huyệt của một người lính đã chết, “bi tráng rồi tắt bặt”, gợi nhớ tiếng đàn lia của Orphée trong thần thoại Hy Lạp, như “mẫu cổ sơ” (archétype) được tái hiện (tr.95).
Chất thơ và hương thơm trong quyển tiểu thuyết chủ yếu tỏa lên từ mối tình của Phương, từ thân thể và tâm hồn Phương. Phương và Kiên ở tuổi 17, tuổi thanh niên mới chớm nở; hai tâm hồn lành mạnh, đắm say; hai con người cao thượng, hai trái tim thơ trẻ, hồn nhiên, hào hiệp. Mỗi khi nói đến Phương, nhà văn dùng các tiếng “trắng trong”, “trinh trắng”, “trắng mịn”, “trắng muốt”… Thân thể Phương được văn chương chạm trổ tạc lên một bức điêu khắc đẹp, “bừng sáng vẻ thanh tân” (cánh tay đẹp, vai tròn lẳn, đôi chân dài, mềm mại, dáng uyển chuyển). Giữa một vùng bom đạn xé toạc bầu trời, với “những cột lửa”, “những cồn khói sánh đặc”, Phương tắm bên hồ “ung dung”, “bình thản”, “thong dong”, cái đẹp ngạo nghễ trước bạo lực. Người con gái 17 tuổi ấy, người con gái “lạc thời và lạc loài” ấy yêu cha của Kiên hơn yêu Kiên, – một họa sĩ cũng lạc loài như Phương, bởi lẽ Phương và họa sĩ oán thù bạo lực, còn Kiên thì “say mê cuộc chiến tranh đến đứng ngồi không yên” (tr.149). Cuộc đối thoại giữa Phương và Kiên, bên hồ Tây, trong bóng tối, trời lạnh, là linh hồn, là bản tóm tắt quyển tiểu thuyết: tình yêu, chiến tranh, nghệ thuật. Phương thật đẹp, cha của Kiên đốt tranh, là bức họa bi tráng của cuộc đời nghệ sĩ; “ngọn lửa kêu than”, “ngọn lửa thiêu các bức tranh, thiêu đốt cha và luôn cả đời em”.
Sau này, sau hành trình 10 năm trong bạo lực, giữa bạo lực, Kiên hiểu cuộc sống này, Kiên đốt tác phẩm của mình, bên người con gái câm, – một biểu tượng đẹp, một bản sao khác của Phương. Cô gái câm là một huyền thoại, là một sự tái sinh từ các truyền thuyết xa xưa của nhân loại, từ “mẫu cổ sơ” thần giữ của (hoặc nhân vật tật nguyền kiểu Quasimodo, hay chàng ca sĩ Trương Chi xấu xí). Cô không có lai lịch, cô như một bóng ma, âm thầm, cô độc, một thế giới đóng kín, tuyệt đối im lặng. Với tiểu thuyết của Kiên, cô là “người đọc có thể”, người đọc tương lai, cô là “bản nháp” để Kiên viết lần đầu, là người duy nhất chứng kiến một tiểu thuyết đang hình thành trong bóng đêm, trong cơn say, trong điên khùng và hoảng loạn, từ vô thức, từ man rợ, tức là từ nỗi buồn tình yêu và nỗi buồn chiến tranh. Phương trong suốt hiện tại và tương lai (đổ nát) Phương từ biệt Kiên từ buổi tối ấy: “Anh đi đường anh, em đi đường em” (tr.150). Lần đầu tiên xuất hiện trong tiểu thuyết với hoa hồng ma (tr.14), Phương là một “giấc mơ bí ẩn và tráng lệ” bông hoa nở rộ trong mưa và đêm mới tỏa hết hương thơm kỳ lạ. Cuộc đời Phương, sắc đẹp Phương, tâm hồn Phương là những huyền thoại không dứt, mênh mông và huyền ảo, “Vĩnh viễn ở ngoài thời gian và vĩnh viễn trong trắng” (tr.205). Âm thanh của những cầu văn đầy tính nhạc và những suy tư bình luận của tác giả tạo nên một nhân vật phụ nữ “đẹp kỳ ảo”. Người phụ nữ ấy, cái đẹp đã bị chiến tranh hủy hoại, đó là “Thân phận của tình yêu”, thân phận con người.
Tất cả những cái ấy tạo thành “nỗi buồn”, “nỗi buồn nguyên khối”. Cái khối đau buồn ấy gặp đêm đen, biến thành một mạng lưới những ảo giác, những hồn ma, yêu tà lang thang, mộng du dưới những trận mưa xối xả nước ngút trời và biến thành những khuôn mặt, những tâm hồn phụ nữ thật đẹp. Có lẽ lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, một nhà văn (cùng với một nhà thơ – Hoàng Cầm) nói một cách sâu sắc về “cảm hứng thơ ca”, bừng sáng từ “cõi âm của tiềm thức”, “đêm đen” của hoảng loạn, di truyền, từ cô đơn, đôi khi lý trí, tư duy lóe sáng. Nó biến thành bản thảo, “núi bản thảo”, “Tác phẩm tự cấu trúc, tự viết, tự hình thành”. Có thể nói đến “cái viết tự động” như André Breton nói trong Tuyên ngôn của chủ nghĩa siêu thực. Tiểu thuyết của Kiên là một thế giới hư cấu hoàn toàn; cái bình thường, cái thật biến thành cái hư ảo mang những ý nghĩ chìm nhiều tầng nhiều lớp; mỗi lần đọc lại tiểu thuyết này, người đọc có thể có một suy tư khác lần đọc trước. Nó không khẳng định, không đóng kín, nó có nhiều tiếng nói liên kết với nhau, tách rời nhau, mâu thuẫn nhau, đối thoại với nhau. Nó không độc thoại một chiều nghèo nàn và chán ngắt, nó không độc đạo, không độc đoán, nó mở. Nhà văn pha trộn những từ ngữ không ăn khớp; nhiều hệ thống đồng nghĩa hay ngược nghĩa; nhiều trùng điệp, không ăn khớp, nhiều tiếng vang, nhiều vi phạm quy tắc của logic, quy phạm của ngôn ngữ văn chương thông thường. Thân phận của tình yêu, Nỗi buồn của chiến tranh là một cuộc phiêu lưu muốn hòa nhập với văn học hiện đại thế giới.
Nguồn: Tác phẩm mới, Hà Nội, số tháng 1 và 2-1992
***
TỪ ĐÂU ĐẾN NỖI BUỒN CHIẾN TRANH?
TRẦN DUY CHÂU
Tiểu thuyết Thân phận của tình yêu (Nỗi buồn chiến tranh) của Bảo Ninh được Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam 1991-1992 đã gây phản ứng khác nhau của bạn đọc và một số nhà phê bình. Tạp chí Cộng sản đã nhận được ý kiến của một số bạn đọc và trên một số bài cũng đã đề cập đến vấn-đề này. Gần đây Nỗi buồn chiến tranh được một số tờ báo nước Anh trao giải thưởng trên cơ sở bản dịch tiếng Anh của một dịch giả người Anh, dường như có ý muốn xóa nhòa ranh giới giữa chiến tranh cứu nước và chiến tranh xâm lược. Trong dịp này, chúng tôi lại nhận được ý kiến của bạn đọc phản ứng đối với giải thưởng trên. Dưới đây, chúng tôi trích đăng ý kiến của một bạn đọc. – TCCS
Không thể nào thực hiện được bằng những tư tưởng, những suy luận sáng sủa rõ ràng, Bảo Ninh phải cầu viện đến sự rối rắm, mơ hồ, hỗn độn của cái gọi là “trực giác” “vô thức” để tạo nên một hình ảnh đảo ngược của hiện thực, chuyển đổi các giá trị, biến trắng thành đen, thay khúc ca khải hoàn của toàn dân tộc thành tiếng hát bi thương của bài ai điếu của những kẻ lạc loài. Người viết (cũng như nhân vật) phải biến mình thành một kẻ mộng du lang thang chập chờn với cái tâm trí huyền thuật (mentalité magique) của người mơ mộng, đúng hơn là của kẻ mắc bệnh tâm thần, nghĩa là những người được “miễn truy cứu trách nhiệm” trước tòa án lương tâm thời đại, được miễn trừ sự phán xét của lý trí lành mạnh, tỉnh táo của bạn đọc xa gần. Vì vậy, theo tôi, cái siêu nhiên, cái hoang đường trong Nỗi buồn chiến tranh chỉ là thuần túy kỹ thuật – một sự khéo tay nếu có – nó không hề mang lại một ý nghĩa nào có giá trị trên bình diện triết học, cũng như trên bình diện thẩm mỹ.
Tác giả cuốn hút người đọc vào không khí hư hư thật thật bằng những lối biểu hiện quanh co, lối diễn đạt nghịch lý (nếu đúng chỗ cũng tạo nên sự thú vị nhất thời cho người đọc) nhưng rõ ràng Bảo Ninh đã không thành công trong việc quấn chặt lấy người đọc (Đây không chỉ là cảm tưởng của người viết bài này; những người quan tâm đến vấn đề thử làm một cuộc điều tra xã hội học xem sao!). Mỗi lần muốn cùng đi với tác giả, hòa nhập vào nhân vật để tìm thử cái lý của nó, tôi – người đọc – lại cứ thoát ra, như một phản xạ tự nhiên, khỏi sự huyễn hoặc, để ngắm, để nhìn, như nhìn vào một cỗ máy được dàn dựng – có lẽ cũng khéo tay, nhưng thiếu hẳn một cái gì đó. Cái thiếu hẫng ấy gọi là “linh hồn của văn học” theo nghĩa người đọc không tìm thấy trong tác phẩm nghệ thuật những điều giúp con người giữ được hình ảnh lý tưởng mà nó có về con người, được thừa kế từ nền văn hóa của dân tộc và của cả nhân loại.
Tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh còn được mang một tên khác khi mới ra đời: Thân phận của tình yêu. Cả hai tên sách đều đúng, và nếu đặt bên nhau, người đọc sẽ nắm được ngay ý đồ của tác giả hình thành từ lúc tác phẩm còn trong thời kỳ thai nghén. Bảo Ninh đã trừu xuất tất cả ra khỏi hoàn cảnh lịch sử cụ thể để trình diễn cuộc “xung đột vĩnh hằng” giữa con người (tình yêu) và cái con người đã tạo ra (chiến tranh), tức là phản ánh tình trạng con người đánh rơi mất bản thân mình, nói theo ngôn ngữ triết học. Thêm nữa, trong Nỗi buồn chiến tranh, dụng ý trực tiếp của tác giả còn là muốn vẽ nên huyền thoại về tình yêu để đối lập với một sức mạnh xã hội mù quáng làm cho con người mất hết “nhân hình và nhân dạng”. Tình yêu ở đây – trong quan hệ của Kiên và Phương, một thiếu nữ có “một dạng thánh nhân và tiên nữ”, có một “vẻ đẹp lạc thời và lạc loài” – là sự gần gũi tuyệt đối của “hai tự do”. Họ là những con người không tin vào bất cứ giá trị nào ngoài tình yêu của họ, họ luôn cảm thấy ngột ngạt khi đặt mình vào một tổ chức hay một quan hệ xã hội nào. Họ là “những kẻ xa lạ” trên mảnh đất đã sinh ra và nuôi dưỡng họ. Do đó họ không tìm thấy chỗ đứng trong cuộc sống chung của dân tộc. Tình yêu trở thành nơi ẩn náu duy nhất của họ để phản ứng lại cái mà họ xem là phàm tục… Kết cục tình yêu ấy đã bị chiến tranh vùi dập.
Đúng là trong đấu tranh chống lại cái gọi là số phận, tình yêu thường chiếm một vị trí quan trọng, thể hiện những khát vọng của con người, để làm cho “con người trở thành người hơn trong thế giới con người”.
Vậy thì, thử hỏi chiến đấu vì phẩm giá con người gắn liền với phẩm giá dân tộc có làm cho con người trở nên người hơn không?! Với Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh muốn gây sự phẫn nộ, muốn gieo sự khiếp đảm cho người đọc. Nhưng tác giả cũng nhận thức được là mình sẽ gặp không nhiều may mắn. Từ trong bề dày lịch sử, người Việt Nam rất nhạy cảm trước những lợi ích sống còn của dân tộc, luôn đủ thông minh và tỉnh táo để phân biệt đâu là “đại nghĩa”, đâu là “hung tàn”, đâu là “chí nhân” và đâu là “cường bạo”. Do đó ở đây một mặt cần phải “viết sao cho xao xuyến nỗi lòng, nỗi dạ, xúc động nổi trái tim con người như thể viết về tình yêu…” (tr.59), mặt khác cần phải có “ảo thuật” trong viết và lách bằng cách luôn luôn công khai phơi bày sự tự mâu thuẫn; không phải là thứ “mâu thuẫn thống nhất” nằm trong sự vật, cũng chẳng phải là những phản đề va chạm nhau trong tư duy biện chứng để tìm ra chân lý, mà là sự mâu thuẫn của những luồng suy nghĩ không những khác nhau mà còn đối địch nhau nhằm đặt lại vấn đề cơ bản trong tinh thần hoài nghi hàm chứa sự phủ định đối với những giá trị đã được xác lập, đối với cả con đường đi lên của đất nước hiện nay và mai sau.
Trong Nỗi buồn chiến tranh, không phải là “cái thật” được chiếc đũa thần của nghệ thuật “làm cho thật hơn”, mà ngược lại “ảo thuật và kỹ thuật” đã làm nó biến dạng, biến chất “như thể ấy là một cuộc chiến tranh chưa từng được biết tới” (tr.53). Chỉ có một cái thật – thật một cách trần trụi và không che giấu: “sự vỡ mộng đau đớn với đời”, đưa đến sự hằn học và cái “cao ngạo” của người viết. Chính những xung lực này đã tạo nên Nỗi buồn chiến tranh và dệt nên bắc tranh phản hiện thực. Cứ nhìn vào hình ảnh của “cuộc chống Mỹ cứu nước” được vẽ nên trong tác phẩm: “Chân trời chết chóc mở ra mênh mang, vô tận những nấm mồ bộ đội mọc lên nhấp nhô tựa sóng cồn, “bên bếp lửa” đàn ghi ta bập bùng, quân lính thời 74 hát, lời ca khốc liệt làm ớn lạnh những đêm trường, “ôi chiến trận: không bến không bờ – ngày mai hay hôm nay, hôm nay hay ngày mai, nói đi số mệnh ơi, bao giờ tôi sẽ…” (tr.17). Hoặc “Hết trận thắng này đến trận thắng khác, nhưng dường như chiến tranh vẫn hun hút, mịt mù, tuyệt vọng vô phương” (tr.16). Và đây, những nét khắc họa về hình ảnh người lính mang “tính chất nghĩa quân nông dân”, “thích hợp tuyệt đối với cảnh địa ngục chiến hào”. Nào là “đồng đội của anh (Kiên) mỗi người một kiểu say sưa mơ màng trong khói hồng ma”; nào là “cùng với thời kỳ bài bạc và hút xách ấy là thời kỳ mà khắp trung đoàn đầy rẫy những lời đồn đại, những sấm truyền và những điều tiên tri”; nào là “nạn đào ngũ lan rộng khắp trung đoàn, chẳng khác gì những cơn ói mửa làm ruỗng nhiều trung đội, không thể chắn giữ ngăn bắt nổi” (tr.24).
Những người lính “mang tính chất nghĩa quân nông dân” ấy chỉ bị nhồi nhét một thứ: “liên miên chính trị, chính trị sáng, chính trị tối, tối lại cũng chính trị. Ta thắng địch thua, miền Bắc được mùa, thế giới chia làm ba phe rõ rệt” (tr.10), để biến họ thành những máy giết người và bị người giết!
Cái chết bao trùm, cái chết khắp nơi, nó biến cuộc đời thành số phận. Khi luôn luôn phải đối diện với cái chết như cuộc đời những người lính trận; mà không thấy rõ cái lý của sự hy sinh chắp cánh cho họ, thì con người chỉ là trò chơi trong bàn tay số mệnh nghiệt ngã, ý thức hiện hữu trước hết gắn liền với ý thức về hư vô, và cuộc đời trở thành vô nghĩa và phi lý! Nhưng những người lính chống Mỹ hay đúng hơn là tuyệt đại bộ phận trong họ lại không phải thế! Cả nhân loại tiến bộ qua hình ảnh của chính họ đã nhìn thấy “cái giới hạn của sức mạnh kỹ thuật khi đương đầu với Con Người” (La-cu-tua, dẫn lại Trần Văn Giàu trong Vĩ đại một con người – Văn nghệ, số 37).
Nhân đây, xin bày tỏ một suy nghĩ của người viết: Bằng sự bôi nhọ sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân ta, Bảo Ninh không chỉ xúc phạm đến những người đang sống, đang tiếp tục đi theo con đường lớn mà cuộc chiến tranh cách mạng đã tạo nên một “đột phá khẩu”, “một cái đã sống” để đi lên và đi xa. Tác giả Nỗi buồn chiến tranh còn muốn giết chết hẳn những người đã vĩnh viễn nằm xuống để cho “dân tộc quyết sinh”. Lần thứ nhất, những cái chết của họ là sự hy sinh cao cả – những người có lương tri cần phải biết ơn, không chỉ bằng tượng đồng bia đá, mà cả suy nghĩ, hành động, xử thế hàng ngày. Còn lần sau? Đó là sự khai tử của một ngòi bút quá nhẫn tâm đã coi họ là vật hy sinh mù quáng cho những cuồng vọng của con người. Và hãy nhìn vào những gia đình liệt sĩ, những thương binh, bệnh binh… họ sẽ như thế nào khi mất đi những giá trị làm vật chống đỡ cho cuộc đời bất hạnh của họ? Chẳng lẽ đó không phải là chủ nghĩa nhân đạo, là vấn đề của con người?
Cũng xin nói thêm “Khi đề cập đến con người phải nghĩ rằng con người không chỉ là tổng số những cái nó tự tạo cho nó, mà còn là cái nó đang suy nghĩ, đang hy vọng, còn là cái đang biến đổi nó, tách nó ra khỏi hoàn cảnh và quá trình phát triển của nó. Không như thế thì không bao giờ hiểu đúng con người và nói đúng những vấn đề của con người…
Nguồn: Tạp chí Cộng sản, Hà Nội, số 10 (tháng 10-1994)
***
SUY NGHĨ VỀ CÁI TANG TÓC CỦA NỖI BUỒN CHIẾN TRANH
PHẠM CHÍ DŨNG
Đúng ra, một cuốn sách văn học phải là một tác phẩm nghệ thuật, một cái gì đó mang tính chân lý, lạc quan trong cuộc sống. Tuy nhiên, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh lại dường như đi ngược lại chân lý trên.
Thấm thoắt đã 20 năm trôi qua kể từ ngày miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất trọn vẹn. Và chúng ta vừa kỷ niệm hai thập kỷ của một niềm vui khôn xiết nhưng phải trả bằng vô vàn máu xương của những người đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường, trong cuộc chiến đấu hào hùng của dân tộc ta chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng. Đúng, hẳn chưa một ai, nếu còn lý trí, lại có thể quên đi điều đó.
Nhưng ngay từ những trang đầu của Nỗi buồn chiến tranh, lý trí đã có thể bắt đầu bị tha hóa. Đi suốt chiều dài cuốn tiểu thuyết là chiều dài không gian và thời gian của cuộc chiến tranh diễn ra vào năm 1969, 1972, 1974, thời hòa bình vào năm 1976, rồi lại dội về ký ức của những năm máu lửa. Hơn bất kỳ cuốn tiểu thuyết nào trước đây, cái năm tang tóc và mùi tang tóc ngùn ngụt bốc ra từ Nỗi buồn chiến tranh. Cái tang tóc đó không phải nằm trong những xác người thối rữa, mà kinh khủng hơn lại chính từ những người sống, những người “thoát khỏi cuộc chiến tranh”. Sự dằn vặt, tranh chấp triền miên giữa cái sống và cái chết, giữa cái nhân tính và phi nhân tính trong nhân vật chính – một người có rất nhiều mâu thuẫn. Tại sao lại có nhiều mâu thuẫn như vậy? Tại sao tác giả lại khẳng định rằng sở dĩ con người thoát khỏi cuộc chiến tranh, bởi họ biết buồn về chiến tranh? Như vậy Kiên – một chiến sĩ giải phóng quân, chiến đấu cho cái gì, hay chỉ cho một thứ chủ nghĩa anh hùng cá nhân và suy tôn cá nhân? Chính sự mâu thuẫn về mặt triết học giữa cái chung và cái riêng của nhân vật đó đã dẫn anh ta đến việc nhìn nhận xã hội như một cái ổ của sự u ám, bế tắc, nơi diễn ra cảnh hỗn loạn tinh thần, đầy rẫy những kẻ điên khùng, gái điếm, ăn mày, vô số những con người hung dữ, sẵn sàng xé xác nhau vì một câu chửi thề. Và sau hết, nhân vật chính cho rằng đó là kết quả tất yếu của chiến tranh, một cuộc chiến tranh vô nghĩa. Và nếu như tác giả căm giận cái “cuộc chiến tranh vô nghĩa” đó bao nhiêu, thì tôi lại thất vọng bấy nhiêu vì bi kịch giả tạo của tác giả khi phản ánh cuộc chiến tranh ấy, thông qua nhân vật Kiên.
Anh ta, một người đã chứng kiến “tất cả những đau thương đổ vỡ” của cuộc chiến tranh, đã hành động như thế nào? Dưới làn mưa đạn khi đối mặt với kẻ thù, anh ta cứ lừng lững tiến lên. Khi anh ta giết chết kẻ thù một cách tàn nhẫn, thì đồng đội anh ta cũng giết không thương tiếc một kẻ đào ngũ. Ở đây, những cái chết đều như nhau, và tác giả đã đồng hóa thẳng thừng những chiến sĩ cộng sản và bọn thám báo ngụy, không một sự phân biệt về nhân cách, để tất cả đều dẫn đến cái chung nhất là sự chết chóc. Chỉ có duy nhất, tác giả đã “thành công” khi mô tả Kiên như một kẻ đào ngũ về mặt tinh thần, như một người hùng giữa hằng hà sa số thứ nhơ nhớp bẩn thỉu. Cuối cùng, người hùng ấy cũng không tìm thấy lối ra trong cuộc sống. Trở về nhà sau chiến tranh, anh ta lại tiếp tục rơi vào trạng thái bình thản đến điên loạn, với những bực bội trong người không thể viết ra được, những mảnh tình chớp nhoáng với một cô gái ăn sương, một người tình cũ có mệnh danh là “đĩ thập thành”, một người đàn bà câm… Tôi bật cười, té ra cái “hùng” của con người ấy lại được kết thúc bằng những hành vi theo kiểu “bản năng gốc” như vậy. Có đáng học hỏi chăng? Có và không, thực chất là một bài học khốn khổ cho những kẻ lạc lối trong cuộc đời, những kẻ “nô lệ của tình dục”, biết “núm vú đàn bà còn hơn cả một chú bé con” mà chúng ta vẫn đôi khi gặp phải.
Với cái logic như thế, tác giả đã dùng nhân vật chính để phản chiếu cái thế giới “Các chiến sĩ giải phóng quân ăn nhậu ngay bên cạnh xác đàn bà lõa lồ vào ngày 30-4-1975 ở sân bay Tân Sơn Nhất”. Trong số các trung đoàn đã đánh chiếm sân bay, ai sẽ là người đứng ra làm chứng cho Bảo Ninh về những hành động đó? Nếu không có bằng chứng gì, chẳng lẽ tác giả có cái quyền “hư cấu” đến mức như vậy sao? Cũng với cái logic như thế, tác giả đã nói với kẻ ăn mày: “Ăn mày mà lập trường gang thép gớm chưa! Mẹ kiếp, cái dân An Nam nhà mình chỉ giỏi chống ngoại xâm chứ đến ăn xin cũng chả biết đường. Ê, hạ lập trường xuống, thì cho”. Đến đây, tôi giật mình tự hỏi: mỗi dân tộc đều có phẩm giá, mỗi con người đều có lòng tự trọng tối thiểu, vậy có còn đạo lý hay không khi tác giả cố ý dẫm nát phẩm giá và lòng tự trọng đó xuống bùn đen? Đâu là cái nhân tâm của người cầm bút?
Thêm vào đó, trong cái thế giới nội tâm của nhân vật chính, rừng rú luôn tồn tại ma quái, xã hội luôn đầy rẫy những hình ảnh siêu linh. Thật khó hiểu là với cái mớ bòng bong vàng thau lẫn lộn như thế, anh ta có thể sống sót được đến hết cuộc chiến tranh và thậm chí một phần thời hòa bình, và cũng thật dễ hiểu, vì trong xã hội đã và đang có những kẻ như vậy, cam chịu làm kiếp “con sâu cái kiến” để bào mòn cuộc đời trong ký ức cặn bã của mình.
Cuối cùng, tác giả kết luận “Nghĩa vụ của một con người trước trời đất là sống chứ không phải là hy sinh nó, là nếm trải sự đời một cách đủ ngành ngọn chứ không phải là chối bỏ… Không phải ta khuyên con trọng mạng sống hơn cả, nhưng mong con hãy cảnh giác với tất cả những sự thúc giục con người lấy cái chết để chứng tỏ một cái gì đấy” (tr.61) và “Chao ôi! Chiến tranh là một cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, đàn bà, là thế giới thảm sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người” (tr.32).
Tôi hiểu, điều tác giả muốn thể hiện ở đây là một quân đội cộng sản lộn xộn, vô kỷ luật, nằm trong một xã hội đầy bất công và nhung nhúc những kẻ tha phương khốn nạn theo kiểu Chí Phèo, một bản năng tình dục theo thuyết hiện sinh vương vấn chút mùi vị vô luân, một cái chết từ từ không tưởng của tất cả những kẻ nào sống bế tắc. Thật tồi bại, đó là một cái nhìn hoàn toàn sai lệch về cuộc chiến tranh của tác giả! Đối với những chiến sĩ cộng sản đã kinh qua cuộc chiến tranh, đó là cách nhìn bệnh hoạn của những kẻ bệnh hoạn.
Tôi đã đi theo tác giả từ trang đầu đến trang cuối của cuốn sách, nặng nề, bi đát, chán ngán, đủ cả. Nhưng sau tất cả, tôi phải quay về với hiện thực mà nói với tác giả bằng bài thơ tôi đã được đọc ở đâu đó:
Cuộc chiến tranh thần thánh
Đồng đội tôi nằm đâu
Trái đắng các anh nhận
Trái ngọt dành đời sau
Cuộc chiến tranh thần thánh
Trái ngọt hẳn ngọt môi
Ai nhận phần trái ngọt
Có nhớ đồng đội tôi?
Tất cả là như vậy, cuộc chiến tranh của dân tộc Việt Nam chống đế quốc Mỹ và những tàn dư của chúng, là chân lý! Chân lý đó, không ai có quyền phủ nhận, trước biết bao xương máu của hàng triệu con người đã phải nằm xuống để chúng ta có cái nhìn cuộc đời như ngày hôm nay. Chính nghĩa của cuộc chiến tranh đó, như tôi đã nói, chỉ có những kẻ mất trí mới không thấy được, chỉ có những kẻ hèn nhát mới trốn chui trốn nhủi trước số phận.
Được biết Nỗi buồn chiến tranh đã nhận giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, tôi vô cùng kinh ngạc. Chẳng lẽ người ta đang quên đi cái gốc gác của mình sao? Chỉ có điều cần nhắc lại, nguyên nhân chính của sự tan vỡ Liên Xô là sự xét lại, và ngay lúc này đây sự xét lại đó vẫn luôn ngấm ngầm ẩn trong cái “diễn biến hòa bình” của người phương Tây.
Nguồn: Công an thành phố Hồ Chí Minh, Tp. HCM (11-8-1995)
(Còn nữa…)