Huỳnh Duy Lộc
Ngày 2 tháng 9 nǎm 2025 là lễ kỷ niệm 80 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vào lúc mấy giờ? Hồi ký Why Vietnam? (Tại sao Việt Nam?) của Archimedes Patti cho biết thời khắc ấy là khoảng 13g chiều ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Archimedes Leonidas Attilio Patti sinh ngày 21 tháng 7 năm 1913 tại khu Bronx của thành phố New York của Mỹ, cha mẹ là những người Ý nhập cư đến từ đảo Sicily. Năm 1941, ông gia nhập quân đội Mỹ, chiến đấu ở châu Âu, làm nhân viên liên lạc với các tổ chức kháng chiến chống phát xít Đức, Ý, Nhật, trong đó có những tổ chức ở Bắc Phi, Ý và Nam Tư. Sau đó, ông được chuyển vào Cơ quan Tình báo Chiến lược (OSS) sau khi tình cờ thực hiện một sứ mạng cùng với William J. Donovan, giám đốc OSS, ở Anzio (Ý) vào tháng 1 năm 1944. Trong thời gian hoạt động ở Trung Quốc và Đông Nam Á, ông đã gặp ông Hồ Chí Minh, người lãnh đạo Mặt trận Việt Minh, về sau sẽ trở thành nhà lãnh đạo của miền Bắc Việt Nam. Những năm về sau này, ông đã tiết lộ trong những cuộc phỏng vấn rằng nhiệm vụ của ông khi ấy ở Việt Nam là thiết lập một mạng lưới tình báo, nhưng không nhằm mục đích giúp người Pháp tái chiếm Việt Nam, thuộc địa cũ của họ, một lựa chọn chính trị mà ông cho là tương đồng với quan điểm của Tổng thống Mỹ Franklin. D. Roosevelt về quyền tự quyết của các dân tộc.
Archimedes Patti đã tổ chức từ xa việc huấn luyện lực lượng vũ trang chống lại phát xít Nhật mà ông Hồ Chí Minh đã tập hợp được, về sau được gọi là Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông hợp tác chặt chẽ với ông Hồ Chí Minh và đã góp ý cho việc soạn thảo bản hiến pháp đầu tiên của Việt Nam. Ông kể rằng khi đến Côn Minh vào tháng 3 năm 1945, người Pháp đã không muốn giúp ông xây dựng một mạng lưới tình báo cho Mỹ ở Đông Dương nên ông đã quay sang những người đồng minh duy nhất là Việt Minh. Đại tá Austin Glass, chuyên viên của OSS, đã giới thiệu ông với ông Hồ Chí Minh và ông đã gặp nhà lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh ở biên giới Việt Nam – Trung Quốc vào cuối tháng 4 năm 1945. Ông Hồ Chí Minh đã đồng ý cung cấp tin tức tình báo cho phe Đồng minh để có được “mối liên lạc với phe Đồng minh”. Patti đã cho nhóm OSS Deer Team (đội Con Nai của Cơ quan Tình báo Chiến lược) dưới sự chỉ huy của trung tá Allison K. Thomas tấn công quân đội Nhật Bản. Allison K. Thomas sẽ làm việc thường xuyên với ông Hồ Chí Minh suốt tháng 8 năm 1945. Vào ngày 22 tháng 8 năm 1945, Patti đến Hà Nội cùng với nhân viên của OSS Carleton B. Swift để thực hiện một sứ mạng nhân đạo, gặp gỡ Jean Sainteny, đại diện của Chính phủ Pháp, để bàn thảo về việc trao trả những tù binh Đồng minh bị Nhật giam giữ. Ông đã gặp ông Hồ Chí Minh tại một bữa ăn trưa vào ngày 26 tháng 8 năm 1945, và vài ngày sau đó, ông Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. Vài ngày trước đó, ông Hồ Chí Minh đã hỏi xin đại tá Austin Glass một bản của Bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ. Sau đó, quân Pháp đã trở lại Đông Dương trên những chiếc tàu mang tên Liberty ships của Mỹ. Patti rời Hà Nội vào cuối tháng 9 năm 1945, sau khi người Pháp lên án người Mỹ đã tổ chức một cuộc cách mạng tại đây.
Patti giải ngũ vào năm 1957 và suốt 13 năm, ông làm chuyên gia xử lý khủng hoảng cho Office of Emergency Planning (Cơ quan Xử lý khẩn cấp) ở thủ đô Washington, D.C. Vào năm 1981, ông biết được rằng các báo cáo của ông về Việt Nam ông nhờ cô Julia Child – một nhân viên từng làm việc cho OSS vào năm 1945 – chuyển đã tới tay nhiều quan chức của Mỹ, nhưng không ai thèm mở ra đọc. Sau khi về hưu, ông đã viết nhiều bài báo về Việt Nam và cuốn sách Why Vietnam? Prelude to America’s Albatross (Tại sao Việt Nam? Bản dạo đầu con chim hải âu của nước Mỹ). Ông từ trần ngày 28 tháng 4 năm 1998 ở tuổi 84 tại Winter Park, bang Florida.
Ghi chép của Archimedes Patti về ngày 2 tháng 9 năm 1945: Chương 26
“Ngày lễ Độc lập
“TÔI NÓI ĐỒNG BÀO NGHE RÕ KHÔNG?”
Ngày chủ nhật đầu tiên trong tháng 9 là ngày lễ các Thánh tử vì đạo của riêng hơn một triệu dân Thiên chúa giáo ở Bắc Việt Nam. Có thể cũng chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên mà ông Hồ đã chọn ngày đó làm Ngày lễ Độc lập. Tại các nhà thờ Thiên chúa giáo, cũng như các chùa Phật giáo, buổi lễ vẫn tiến hành long trọng, các bài thuyết pháp có thêm những ý chính trị ủng hộ chính phủ mới thành lập và nền độc lập của Việt Nam.
Từ sớm tinh mơ, dân chúng Hà Nội như các bầy ong, từng đoàn lúc lớn lúc nhỏ, lũ lượt dần dần kéo đến cạnh Quảng trường Ba Đình.
Ở nhiều chỗ là cả một khối dân chúng các làng ngoại ô. Đi theo trong biển người đó, có cả toán dân miền núi với y phục địa phương của họ và nông dân trong những bộ khăn áo cổ truyền.
Giữa các khối khác nhau, người ta dễ dàng nhận ra các tổ chức của công nhân, sơ mi trắng, quần dài hoặc quần soóc trắng hoặc xanh. Phụ nữ mặc áo dài trắng hay màu sáng, tay khoác nón.
Cho đến tận trưa, cả toán OSS chúng tôi lăn lộn ở ngoài phố, chụp ảnh, ghi chép về các nhóm người, các sự kiện, các khẩu hiệu, biểu ngữ, áp phích… Có nhiều khẩu hiệu bằng tiếng Pháp, Anh, một số bằng tiếng Việt Nam: “Việt Nam của người Việt Nam”, “Hoan nghênh Đồng minh”, “Hoan nghênh phái đoàn Mỹ”, “Thà chết, không nô lệ”…
Khoảng trưa, Knapp, Bernique, Grelecki và tôi đi về phía Quảng trường Ba Đình. Tôi đã quyết định từ chối lời mời của ông Hồ đến khu vực lễ đài dành cho quan khách, để đi xem buổi lễ chỉ như một người quan sát trong quần chúng. Chúng tôi chọn được một điểm thuận lợi ngay trước lễ đài giữa đám viên chức địa phương.
Trong khi chờ đợi ông Hồ và các quan chức tuỳ tùng tới, tôi nhìn thấy một toán cố đạo Thiên chúa giáo mặc áo thầy tu trắng và xanh den, có cả các chức sắc mang khăn quàng và dải viền đỏ.
… Cách họ không xa, là các nhà sư Phật giáo khoác áo cà sa màu da cam, rồi đến các chức sắc Cao Đài, áo dài trắng có tua và khăn quàng sặc sỡ.
Đội danh dự và công tác bảo vệ được giao cho bộ đội của Giáp và Chu Văn Tấn, lực lượng được huấn luyện, trang bị, có kỷ luật nhất của họ. Mũ bấc, đồng phục kaki, quần soóc, tất cao, họ trưng bày các vũ khí mới một cách hãnh diện, lúc trong tư thế “đứng nghiêm”, lúc “nghỉ” Ở đó còn có các đơn vị “tự vệ”, dân quân mặc áo lẫn lộn quần áo nhà binh Pháp hoặc Nhật hoặc quần áo ngắn xanh hay đen, mang theo một loạt các vũ khí cũng lộn xộn, từ súng kíp, gươm, dao rùa, mã tấu có cán gỗ dài và cả gậy tày… Có thứ hình như họ mới lấy từ các đình, chùa ở làng ra. Tất cả dựng lên một cảnh tượng sinh động và kinh hoàng.
Mặt trời đã lên cao. Không khí oi bức. Nhưng đôi lúc cũng có cơn gió nhẹ thổi làm phất phới cả cái biển cờ trên quảng trường. Cao trên cột trước lễ đài, lá cờ đỏ với ngôi sao vàng lớn phấp phới bay.
Bất chợt có tiếng còi và các hiệu lệnh quân sự phát ra từ các đội hình. Đội danh dự và các đơn vị bộ đội đứng thẳng và chăm chú theo dõi có người đã bắt đầu xuất hiện trên lễ đài. Mấy phút sau, nổi lên tiếng hô “bồng súng, chào”, quần chúng bỗng im lặng trong khi các vị chức quyền tìm chỗ đứng vào đằng sau cái bao lơn được trang trí bằng màu trắng và đỏ. Trên lễ đài, mọi người đều bận đồ trắng, thắt cà vạt và để đầu trần, trừ một người nhỏ nhắn, mặc áo kaki màu sẫm và có cái gì như là cái khăn trùm đầu – đó là Hồ Chí Minh.
Lê Xuân, nguyên là người liên lạc của chúng tôi, đã đến và sẵn sàng bình luận, nhận xét. Anh ta cũng đã đi một vòng và cho rằng quần chúng hết sức tò mò và quan tâm đến vị lãnh đạo “mới” của Chính phủ. Mọi người đều muốn biết “ông Hồ Chí Minh bí ẩn” này là ai? Ông ở đâu về?
Nhưng không phải chỉ có người Việt Nam mới không quen thuộc với cái tên đó đâu. Ngay cả đến cơ quan Bộ Ngoại giao chúng ta ở Côn Minh và Trùng Khánh cũng không biết gì về vấn đề này, mặc dù là đã có nhiều báo cáo cụ thể của tôi. Một tháng sau, khi đọc một công văn của Sprouse, lãnh sự ở Côn Minh, tôi ngạc nhiên thấy còn nói đến “Ho Chi Minh”. Lúc đó ai cũng nghĩ rằng đã biết tên thật của ông Hồ.
Một tiếng trong loa phóng thanh nổi lên phá vỡ sự im lặng, giới thiệu “ông Hồ là người giải phóng, vị cứu tinh của dân tộc”. Quần chúng được hướng dẫn của các đảng viên, lên tiếng hát và trong mấy phút liền hô vang “Độc lập”. Ông Hồ ngồi yên mỉm cười, nhỏ nhắn trong tầm cỡ, nhưng vĩ đại trong sự hoan hô của nhân dân ông. Ông giơ tay ra hiệu im lặng và bắt đầu đọc bản Tuyên ngôn, nay thành nổi tiếng của ông với những lời:
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Ông Hồ dừng lại đột ngột và hỏi người nghe: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”. Quần chúng hô vang đáp lại: “Rõ!”. Thực là một nghệ thuật diễn thuyết bậc thầy. Từ lúc đó, quần chúng lắng nghe, nắm lấy từng lời. Chúng tôi không hiểu ông Hồ đã nói gì. Lê Xuân phải cố gắng lắm để dịch nhưng cũng rất khó khăn. Nhưng cứ nghe giọng nói của ông Hồ, bình tĩnh và rõ ràng, ấm cúng và thân mật, và nghe thấy được quần chúng trả lời thì chúng tôi không còn nghi ngờ gì nữa là ông đã thấu tới quần chúng.
Ông Hồ tiếp tục:
“Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền hạnh phúc và quyền tự do”.
Sau đó, quay về bản Tuyên ngôn của Cách mạng Pháp năm 1791, nói về quyền con người và quyền công dân, ông Hồ nói:
“Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Đến khoảng 2 giờ, ông Hồ kết thúc bản Tuyên ngôn. Tiếp sau đó là Võ Nguyên Giáp nói về vai trò của Việt Minh, nhấn mạnh vào công tác của Đảng trong lĩnh vực chính trị – quân sự, phát triển kinh tế xã hội, chương trình giáo dục và văn hoá. Trong các vấn đề quan hệ đối ngoại, Giáp đã vạch ra rằng Mỹ và Trung Quốc là những đồng minh đặc biệt và liên tục ủng hộ đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Điều thú vị là không thấy nói gì đến Liên Xô. Tôi không bao giờ bỏ không ghi những lời Giáp nói, nhưng sáng ngày hôm sau, báo chí Hà Nội lạl đăng tin Giáp đã phát biểu “Mỹ đã góp phần lớn nhất cho sự nghiệp giải phóng của Việt Nam và đã cùng với nhân dân Việt Nam đấu tranh chống phát xít Nhật, vì thế Cộng hoà Mỹ vĩ đại là một đồng minh tốt của chúng ta”.
Sau bài diễn văn, các Bộ trưởng mới được chỉ định, từng người một được giới thiệu ra mắt nhân dân. Buổi lễ kết thúc bằng việc các Bộ trưởng tuyên bố nguyện trung thành và triệt để ủng hộ Chính phủ Dân chủ Lâm thời Việt Nam.
Mãi đến tận khuya hôm đó, báo chí địa phương mới cung cấp cho chúng tôi một bản nguyên văn lời tuyên bố của ông Hồ; chúng tôi dịch và chuyển ngay bằng điện đài cho Côn Minh. Tôi cũng gửi kèm theo bằng đường hàng không bài tường thuật và nhận định của tôi…
Sau khi các phần thủ tục kết thúc, chúng tôi cũng phải mất đến 30 phút mới tìm đường ra khỏi được nơi tập trung. Nhờ đi tắt qua khu vực được dành riêng, tránh được những phố đầy người, nên chúng tôi trở về nhà Gauthier đúng vào giờ cơm chiều. Tôi đã mời tất cả những người Mỹ ở Hà Nội đến cơ quan của OSS để tham dự ngày lễ “14-7” lặng lẽ và không pháo hoa của người Việt Nam. Để đề phòng những chuyện xung đột có thể xảy ra giữa những người Việt Nam vui mừng hớn hở và người Pháp tuyệt vọng, và để giữ cho người Mỹ tránh khỏi các cuộc hỗn loạn, tôi đã yêu cầu đại tá Nordlinger và đại uý Mekay, thủ trưởng toán AGAS, cùng với cả nhóm đến ăn cơm cùng với chúng tôi…”
(Archimedes Patti, Tại sao Việt Nam, Lê Trọng Nghĩa dịch, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2008)
Bức ảnh đang được trưng bày tại Khu Di tích Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh với chú thích “Chủ tịch Hồ Chí Minh bước xuống lễ đài sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập, Quảng trường Ba Đình, ngày 2-9-1945”
Chủ tịch Hồ Chí Minh bước xuống lễ đài sau khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập và đại tướng Võ Nguyên Giáp với Đội Con Nai