Nỗi buồn chiến tranh và một công chúng văn chương

Thái Hạo

Trong “Một người Hà Nội” có “nhân vật phụ”, là Dũng – con trai của cô Hiền. Sau ngày chiến thắng trở về năm 1975, trong bữa tiệc mừng do gia đình tổ chức, “Một ông già hướng mặt về phía Dũng bảo: “Đồng chí bộ đội có chuyện gì vui kể nghe nào?” Dũng nói: “Thưa các bác, chỉ có những chuyện không được vui lắm”. Một bà nói: “Cứ nói, người ở xa về có quyền muốn nói gì thì nói”. Dũng nói rằng trong nửa năm nay anh không ngớt nghĩ về những người từ Hà Nội ra đi cách đây đúng mười năm. Sáu trăm sáu mươi người, bây giờ còn lại khoảng trên dưới bốn chục”.

Vâng, đó là một “nỗi buồn chiến tranh” – nỗi buồn của những người mẹ, người cha, người đồng đội trở về sau chiến thắng. Sống mà trở về khi bạn bè đã phải chết, trong hoàn cảnh ấy, Dũng thấy buồn đau và tội lỗi…

Dũng khác hẳn với nhân vật “tôi” – một người đang say men chiến thắng, đầy lòng tự hào và sự hãnh diện. Trước cơn bốc đồng của “tôi”, mọi người im lặng, không ai nói một lời. Những người Hà Nội có giáo dục đã chọn một cách ứng xử tế nhị ấy: im lặng trước anh lính đang bốc lên niềm vui say sưa của “bên thắng cuộc”.

Truyện ngắn này được đưa vào dạy trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 cách đây đã 20 năm.

Điều an ủi là cuối cùng nhân vật “tôi” hình như nhận ra, anh biết xấu hổ về cái nông cạn, cái nhân danh và sự hãnh tiến của mình. Từ chỗ đề phòng, nghi ngại và xa lánh, anh dần nhìn thấy trong những con người Hà Nội kia một chiều sâu văn hóa, cái sang trọng, lịch lãm, và sự tự trọng mà anh phải thốt lên rằng đó là những “hạt bụi vàng”. Anh tiếc, vì cái hạt bụi vàng ấy rồi sẽ rơi xuống, chìm sâu vào lớp đất cổ…

“Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh và “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải ra đời chỉ cách nhau vài năm, một bên là tiểu thuyết, bên kia là truyện ngắn. Nhưng cả hai đều là… văn học.

Không biết trong những người đang hăng hái phê phán cuốn sách của Bảo Ninh, có bao nhiêu người đã đọc nó? Rồi trong những người đã đọc, có bao nhiêu người đã đọc nó như một tác phẩm văn chương? Hay họ đã đọc như một bài báo, một báo cáo chính trị, hay như một cuốn sách lịch sử?

Người ta kết tội Nỗi buồn chiến tranh bằng những ngôn từ mạnh mẽ nhất, hùng hồn nhất, nhân danh lập trường, nhân danh người lính, nhân dân đất nước…, đủ cả. Nhưng có ai đã lặng lẽ đọc nó trong một đêm khuya khi mọi thanh âm đã chìm vào bóng tối, một mình đối diện với trang sách, với những số phận, những cuộc đời, với tình bạn, tình yêu, những vết thương xé toạc, những tiếng cười điên dại và những dòng nước mắt thổ ra?

Dũng của Một người Hà Nội và Kiên của Nỗi buồn chiến tranh đều buồn, không ai vui cả. 620 gia đình của những chàng trai trẻ ra đi ngày ấy và mãi mãi không trở về, ai có thể vui?

Cho đến tận hôm nay, có được bao nhiêu người biết buồn như Dũng, và còn có bao nhiêu người vẫn hăng hái như “tôi” buổi ấy?

***

Kiên nghĩ, “Thực ra trong chiến tranh Kiên được hưởng nhiều may mắn hơn là trong thời bình, bởi vì trong chiến tranh anh được sống, chiến đấu, trưởng thành lên bên những người đồng chí thật tốt. Tuy nhiên, cái giá của sự may mắn ấy là anh đã lần lượt mất hết những người bạn, người anh em, người đồng đội chí thiết nhất. Họ bị giết ngay trước mắt Kiên hoặc là đã chết ngay trong vòng tay anh. Nhiều người đã chết để gỡ cho tính mạng Kiên. Nhiều người đã hi sinh bởi lỗi lầm của anh”.

Vui được sao?

Bảo Ninh đã “bôi đen” và “xuyên tạc” điều gì với những suy nghĩ như thế ở Kiên mà ai cũng hiểu là “hóa thân của tác giả”? Không, nhà văn chỉ giúp ta biết buồn, như những con người.

Văn chương không phải và không bao giờ là một bản nghị quyết, văn chương chẳng hô hào điều gì cả, dù là lý tưởng, là lẽ sống, là lập trường, là chủ nghĩa… Nó, trong một đặc trưng không thể thay thế, chỉ có một chức năng duy nhất, là đánh thức những “cảm xúc thẩm mỹ” – thứ vốn xa xỉ trong đời sống bận rộn và xô bồ này.

Trong cuộc chiến tranh tàn khốc, giữa tinh thần xông lên và men say chiến thắng, văn chương neo lại một lát cắt như mảnh gương xoẹt qua, giữ lại một niềm đau, một sự day dứt, một nỗi thổn thức, một giây trong vắt. Và trong khoảnh khắc ấy, người ta làm người. Nếu không có nó, họ chỉ là những người lính, những thanh niên xung phong, những cán bộ, những chính trị viên, những thợ cày, thợ cấy…

Xưa, khi Hữu Loan khóc vợ trong Màu tím hoa sim, ông bị kỷ luật, bắt viết kiểm điểm, vì đã yếu đuối, đã bi lụy, đã làm méo mó tinh thần của “toàn quân toàn dân ta”. Xưa nữa, Quang Dũng viết Tây Tiến, cái án văn chương theo mãi, cũng vì những cái chết không oai hùng, không khí thế, không khẩu hiệu…

Nhưng rồi thời gian qua đi, từng tháng, từng năm, người ta tìm Hữu Loan, tìm Quang Dũng, vì ở đó không chỉ có chiến tranh và địch ta, ở đó còn có con người, những người biết buồn vui, biết đau đớn, biết mơ mộng. Tôi tin rằng, nếu không có nỗi buồn và sự cô đơn thăm thẳm, sẽ chẳng có văn chương.

Ở một góc nhìn khác, văn chương chỉ được sinh ra khi có công chúng văn chương. Chúng ta không có công chúng văn chương. Họa hoằn lắm thì có những cá nhân biết đọc, trầm lặng trước trang sách mà sống lấy những khoảnh khắc đã bị cuộc đời ồn ã cuốn đi trong thường nhật không phút nghỉ.

Những tranh cãi hôm nay phải chăng cũng là một “nỗi buồn buồn chiến tranh”? Cuộc chiến chưa yên trong tâm hồn người Việt. Vẫn lập trường, vẫn “tính đảng”, vẫn thắng bại, vẫn địch ta. Không có chỗ cho một phút giây sâu lắng, không có chỗ cho chính mình.

***

Không ai bị làm cho yếu đuối đi bởi một tác phẩm văn chương. Những kẻ mơ mộng nhất, sầu não nhất, nhạy cảm nhất, lắm khi lại chính là những người hăng hái chiến đấu và dũng mãnh vô cùng. Kiên đầy thù hận và đau khổ, Kiên xông lên như một con thú hoang, Kiên nhả đạn điên cuồng đến nỗi đồng đội phải cầu xin anh hãy dừng lại. Nhưng Kiên, trong một góc khác, là một tâm hồn đa cảm, đa mang và đầy thương tật. Anh đau đớn trong cơn thù hận, anh hoang dại trong niềm sướt mướt, anh tỉnh táo trong nỗi vật vã…

Đấy là con người. Con người không phải là một cỗ máy chỉ biết lên đạn và bóp cò, chỉ biết “hát mãi khúc quân hành”, chỉ biết niềm vui chiến thắng. Văn chương làm cho người được người hơn, bởi vì nó đánh thức, nó khiến người ta đau, nó làm người ta sung sướng, nó gọi dậy những tình cảm sâu kín, nó nâng con người lên trong tuyệt vọng và nỗi bi thiết cùng cực.

Văn chương là để bầu bạn, một người bạn tri âm mà ta sẽ nói những điều vĩnh viễn không thể nói cùng ai. Ở đó, trong những dằn vặt tội lỗi, những ác độc vô lương, những nhầy nhụa nhớp nhúa, ta được thổ lộ, được an ủi, được tha thứ. Ta tha thứ cho mình, và cho người.

Viết văn (và đọc văn) là một cách giải thoát, là một hành trình sám hối và rửa tội, là một sự thanh tẩy và nâng đỡ. Văn chương không mang đến những bài học, những tuyên ngôn, những lý tưởng, những lập trường, nó chỉ âm thầm gột rửa tâm hồn ta trong một sự sẻ chia thầm lặng mà bao dung.

Hôm nay, dù ngồi trước một tác phẩm văn học, người ta vẫn mắc kẹt trong chiến tranh. Họ phát động một mặt trận mới trên trang sách. Họ không lắng nghe nhân vật, họ không nhìn vào lòng mình. Thay vì nhìn vào tâm hồn con người và tâm hồn mình, họ đi tìm xem nó có đúng với các chi tiết lịch sử hay không, nó có khoa học và logic hay không, nó có đúng chủ trương đường lối hay không. Thế là lại chiến tranh. Một lần nữa, họ đánh mất cơ hội được gặp mình, gặp người, và chỉ nhìn thấy kẻ thù, thấy địch ta, thấy thắng bại, thấy chính nghĩa và phi nghĩa…

Có người hỏi tôi có thích “Nỗi buồn chiến tranh” hay không? Không hẳn. Tôi đọc nó rất chật vật, đọc nhiều lần mới xong. Nay đọc lại cũng vẫn vất vả. Không phải vì nó khó đọc, mà vì cái tạng. Tôi không thích văn chương quá nhiều lời kể lể. Tôi hợp với thứ văn mà ở đó tác giả thật kiệm lời, anh ta lùi ra thật xa, thay vì lấp đầy thì hãy khoét rỗng, để lại những khoảng trống… Nhưng phải thú nhận, có nhiều trang trong sách này đã khiến tôi phải thổn thức. Nó đẹp, đau đớn, và sáng bừng lên trong nước mắt.

Bất luận thế nào, dù có bị đấu tố đến đâu, Nỗi buồn chiến tranh vẫn sẽ là một tác phẩm có vị trí xứng đáng trong văn học Việt Nam, vì một bổ khuyết đáng kể bằng một cái nhìn và cách nhìn.

Tôi viết không để tham gia vào cuộc cãi lộn vô nghĩa và trì độn này, tôi viết cùng những người đọc văn chương, tức là những người có nhu cầu đi vào trong chính họ…

                                                                                                                                         T. H

This entry was posted in Văn and tagged , . Bookmark the permalink.