CHINH BA ĐI TÌM TỰ DO QUA CHIẾC XƯƠNG CỤT?

Nguyễn Lệ Uyên

clip_image002“…thấy nguyên cả sự tục tĩu kèm với bài thơ

trên xương cụt, thấy nguyên cả

hiện tình văn nghệ tồi tàn của gia đình lão”

(Chinh Ba)

 

Khoảng những năm 1964 trở về sau, báo chí miền Nam thường xuyên bị đục trắng, bị bôi đen. Cầm các tờ nhật báo, tạp chí trên tay nhìn những ô đen trắng đó như nhìn thấy sự bất toàn bắt đầu xâm chiếm, ngự trị lên các hoạt động báo chí ở một miền đất được mệnh danh tự do, dân chủ! Đệ tứ quyền đang lần hồi bị bức hiếp một cách thô bạo. Rất nhiều bài chính luận đã lên tiếng đả kích cách “cai trị” này của chính quyền, của Bộ Thông tin Chiêu hồi miền Nam.

Cuối tháng 10 năm 1965, truyện ngắn Bài thơ trên xương cụt, xuất hiện trên tạp chí Giữ Thơm Quê Mẹ số 4 (1), như một khởi đầu cho sự phản kháng quyết liệt của các nhà văn miền Nam đối với chế độ kiểm duyệt báo chí văn nghệ, thông qua cách hành xử của nhân vật Út Lệ trước Ba Lò Heo. Nhưng mọi chuyện rồi cũng qua đi, không ai làm gì được ai. Ngay cả ông Võ Phiến đang ngồi ở cái bộ ấy cũng chỉ biết thế và hay thế.

Thời cuộc biến đổi như một cơn lốc.

Mãi đến năm 2008, Trần Hoài Thư ngỏ ý với anh em, tập hợp những truyện ngắn tiêu biểu của các nhà văn miền Nam để in lại trong tủ sách Di sản văn chương miền Nam. Ngồi nói chuyện với Nguyên Minh, anh ấy nhắc: “Ông có nhớ truyện Bài thơ trên xương cụt không? Tôi nói có, đọc nhiều lần. Tìm đâu ra nhỉ? Tôi nói, tôi còn giữ bộ Giữ Thơm Quê Mẹ, truyện đó đăng trên số 4. Vậy ông đánh máy đi. Trả lời: Tôi đã đánh từ lâu và lưu trong máy”. Về, tôi chuyển ngay cho Trần Hoài Thư cùng vài truyện ngắn của các nhà văn khác, coi như đóng góp một phần nhỏ cho công sức quá lớn lao của ông chủ nhiệm Thư Ấn Quán. (Nhắc lại là đánh máy chớ không phải chép tay (2) như lời đề tặng của Chinh Ba ghi ngày 19.1.2011, lúc ông về SG in và ra mắt tập truyện Bài Thơ Trên Xương Cụt (3)).

Đọc tập truyện ông vừa gửi tặng, và nhìn chân dung trên bìa gấp và bìa 4, đọc hết 14 truyện để có thể hiểu thêm những gì ông trải lòng trong đó như một nhân chứng sống. Và hẳn ông không hề nghĩ mình đang nhận lãnh một sứ mệnh hay trách nhiệm cao cả của một nhà văn. 14 truyện trong tập sách là những cảnh đời khác nhau trong một thế giới hỗn loạn, đối khi trở thành những câu chuyện bi hài.

Cốt lõi của Bài thơ trên xương cụt chính là những dòng chữ phơi trần những ưu tư của nhà văn về thân phận con người, về sự sống và cái chết; sự trái ngược và tương phản giữa màu sắc, âm thanh; giữa niềm đam mê rực rỡ và sự tàn bạo giấu mặt đến phi nhân tính; giữa người chân thật và ma quỷ luôn rình rập bên cạnh!… Ông vẽ lên những mảnh đời có thật, đâu đó quanh ta; về thân phận con người trong bối cảnh xã hội bị hất tung lên, mọi giá trị đạo đức văn hóa bị bổ nhào cùng những hệ lụy của chiến tranh tàn khốc, để cuối cùng kết lại là nỗi khát khao được làm người theo đúng nghĩa con người.

Những nhân vật trong truyện, không phải là những anh trưởng giả, những nàng tiểu thư khuê các, là tầng lớp thượng, trung lưu sống trong những ngôi biệt thự tráng lệ, vung tiền ở các hộp đêm…như trong một số tiểu thuyết của một số nhà văn thời danh miền Nam, mà tất cả đều thuộc tầng lớp dưới, những người lao động nghèo khổ, những nông dân chất phác với những không gian mở rộng là cánh đồng nước mênh mông, một vùng lau lách sông rạch hay một vùng quê nghèo; hẹp hơn là bốn bức tường giam, nhưng thảy đều ngập ngụa bóng tối đầy dẫy những bất hạnh cùng khổ đau và tủi nhục “… dấu tích còn lại chỉ là dăm ba hàng cừ đơn lẻ bằng cây tràm, in xuống mặt nước vàng ngầu những nét khẳng khiu buồn bã. Người ta lớp chết, lớp bị bắt làm tù binh, lớp bị còng tay đưa đi làm lính, số còn lại thì chỉ riêng mỗi người biết được chỗ ẩn náu của mình” (Mồ sống, trg 69).

Thân phận làm người ở các nhân vật của Chinh Ba có cái gì đó thật tàn nhẫn. Nó không bình thường, bởi nỗi đau phải chịu đựng cùng những nghịch cảnh phải đối mặt trong đời sống, được ông đẩy đến tận cùng số phận hẩm hiu, đến tận rìa mép bờ vực sâu, đen ngòm. Nhân vật ấy vừa là người mà không phải người, vừa là bóng ma mang khuôn mặt quỷ nhưng lại là con người thật đang hiện hữu giữa mộ huyệt sâu, không rõ tự bao giờ và tại sao phải như vậy, không tên không tuổi, vật vờ giữa bãi tha ma, trong bóng tối: “Thật là kinh khiếp! Cả cái hàm dưới rơi đâu mất, lưỡi dài và nước dãi chảy lòng thòng xuống cổ, môi trên và mũi cũng bị sứt đi, bày ra một hàm răng trắng hếu, các bắp thịt trên mặt bị vết thương kéo chùng xuống làm cho đôi mắt xoạc to ra” (Mồ sống, trg 85).

Những số phận đó là những “hắn”, những “lão” với nhân dạng kỳ quái: “Da lão xanh, mồ hôi sương ửng sáng như có chất lân tinh” (Khát nắng, trg 5). Đôi khi cũng có tên, có tuổi, như Hòa, như anh của Hòa nhưng ngoại hình thì thuộc loại “ma chê quỷ hờn” (4): “anh nó… mặt đen và khô, mũi nhọn mỏ két, đôi mắt sáng đỏ như hai cái tàn thuốc đang ngún cháy, trán đùn thấp xuống như cố làm cái đà thật chắc cho những sợi tóc bàn chải chĩa ngược lên trời” (Tóc, trg 44-45). Còn thằng Hòa thì: “Người nó tong teo như được kết bằng những que củi, da nó trắng xanh, mỏng và bủng. Mặt nó dường như đặt trong một cái khung hình thang: trán cao và hẹp, đôi má bạnh ra và trệ xuống… Lông mày thưa, lỗ chỗ như hai bờ cỏ tiết tháng bảy… Cái mũi to và hơi hỉnh của nó cố trườn ra xa hơn cặp môi dày” (Tóc, trg 45).

Những hình thù kỳ quái kia, dưới ngòi bút Chinh Ba, không ai khác hơn là đồng bào của chúng ta. Họ phải mang một số phận nghiệt ngã, không do họ tự chọn lựa. Và đó là hệ quả của chiến tranh, của xã hội tha hóa. Cảnh đời bên ngoài cô đúc lại thành những con người như “lão” trong buồng giam; là đứa con nít, là một chàng thanh niên bị chiến tranh hất tung ra ngoài rìa cuộc sống bình thường, hay một chàng viết văn cố gắng đi tìm giá trị đích thực của đời sống anh ta đang mở trừng đôi mắt với cái giá bằng “hai mươi lọ pénicilline”; tất cả đều là sự kết tụ của những khổ đau chồng chất trong một thời đại loạn lạc, nhiễu nhương, chẳng khác gì thời mạt vận!

“Lão”, chính xác là một tù nhân trong buồng giam. Lão biết số phận sớm muộn gì cũng sẽ đi tới cái chết, như những người bạn tù của lão. Lão biết trước phần số dành cho mình: “Rồi mình sẽ thúi ình ra để người ta cho mình một nấm mồ kín trên miếng đất của Ông Cha mình” (Khát nắng, trg 7). Và rồi: “Trong lão, cái chết đang kết tụ” (trg 9). Người tù ấy, ý thức về cái chết đến với mình một cách rất rõ ràng, như thể ông ta nhìn thấu suốt cái chết đang đậu trong mắt mình. Nó như một định mệnh được an bài, không chút hối hận, không thấy luyến tiếc sau những lần có ý định vượt ngục không thành. Niềm khao khát mãnh liệt nhất đối với ông ta lúc này, không phải là được thoát ra bên ngoài cảnh tù ngục, mà là một chút ánh sáng, như thời thơ ấu, lão nghe mẹ lão nói: “Cha mày theo nghĩa quân bị Tây bắn chết, nhà mình bị đốt. Tao đẻ mày dưới gầm cầu, sát mé nước. Làm gì có lửa có củi! Nhờ trời nắng dữ lắm tao mới nuôi sống mày…” (trg 10).

Đó, ngay từ thuở lọt lòng lão đã được sống sót nhờ có nắng. Vậy thì can cớ gì, trước khi chết và thậm chí khi chết lại không có được chút nắng phủ lên người? Tận sâu trong tiềm thức, lão tin nắng luôn mang đến sự sống, là sự phục sinh từ cõi chết và trong cái chết rất dịu dàng. Niềm tin ấy, trong phút chốc biến thành niềm khao khát, bùng cháy lên, thật dữ dội, thật mãnh liệt, tuồng như đó là cánh cửa cuối cùng tiếp cận với thiên đàng, là niềm hy vọng, dẫu mong manh để có được tính chính danh làm người trước khi gục ngã trên các bậc đá lạnh ngắt trong hầm ngục tối, chỉ vì: “…một phần đời người sau cùng của lão đã không có nắng rọi vào. Nên trước khi chết, lão thèm một tia nắng chiếu vào mặt, chiếu vào đôi mắt ngập bóng tối của lão; để da mặt lão nóng dậy lên, để mắt lão nhìn thẳng được mặt trời” (trg 12). Ước mơ nhỏ bé mà cũng to lớn vô cùng, qua thời gian khắc khoải đợi chờ, cuối cùng cũng đến được với lão, khi Chinh Ba kết thúc câu chuyện: “Lão xoay mình, ngửa thẳng mặt về phía mặt trời. Nắng rực rỡ dội tràn lên mặt lão. Đôi mắt gần mười năm xa mặt trời hoa lên với vô vàn những màu sắc chói chang huy hoàng. Thân lão dịu nhũn lại, rồi té sấp xuống nền đá. Mắt lão vẫn mở… Hôm sau, người ta thay vào chỗ ở của lão một người sống” (tr 14).

Bóng tối và nỗi nhục nhằn về thân phận làm người được Chinh Ba đẩy lên cao hơn ở truyện Mồ sống, mà theo ghi chú của ông là đã đăng trên các báo Pháp, Ba Lan, Canada trong các năm 1968 – 1969. Nhân vật chính trong truyện không phải là lão Tư hay Chót, mà là một người đàn ông nào đó không tên không tuổi, ẩn hiện đâu đó giữa cánh đồng hiu quạnh, có một khuôn mặt kỳ dị, ma quái: “… cái hàm dưới rơi đâu mất, lưỡi dài và nước dãi chảy lòng thòng xuống cổ, môi trên và mũi cũng bị sứt đi, bày ra một hàm răng trắng hếu, các bắp thịt trên mặt bị vết thương kéo chằng xuống làm cho đôi mắt xoạc to ra” (trg 85).

Chinh Ba dừng lại ở đó, để nhân vật tự do lơ lửng trong một khoảng trống, để người đọc phải tự đặt ra câu hỏi, nhân vật ấy là ai? Phải chăng là Vàng, con lão Tư? Hay là một anh du kích, cũng có thể là tay anh chị giang hồ bại trận?

Cái cách Chinh Ba xô đẩy nhân vật xuất hiện khá mập mờ và cũng khá đột ngột, theo kết cấu cổ điển, khởi đi từ ông lão chèo chiếc xuồng ba lá đi tìm thằng con trai tên Vàng đã mất tích trong một trận càn: “Trên trời có ba mươi chiếc máy bay, dưới nước có 60 chiếc xe lội nước, hôm đó con lão dậy sớm chống xuồng đi cắt bàng. Nó lọt vào giữa trận địa” (trg 70); cho tới những hồi ức về chuyện kết sui gia với bà Chánh Sáu. Rồi ông chèo xuồng, lang thang giữa cánh đồng nước mênh mông, chỉ có những lá dừa nước và những dề lục bình bao quanh, như thể đó là bố cục của một bức tranh tối màu với một nhân vật duy nhất: Ông già chèo xuồng. Bức tranh ấy, nhìn xa, nhìn gần đều tấy lên nỗi cô đơn sáng tối niềm hy vọng và vô vọng trong từng động tác chèo xuồng, cái nhìn hoảng hốt và những suy nghĩ rối tung của ông già: “Dưới ánh hoàng hôn nhập nhòa từ trời cao hắt xuống mặt nước, lão thấy loáng thoáng trước mũi thuyền một vật đen như đầu tóc đàn bà và một bàn tay chới với bám vào khoảng không. Lão đứng thẳng dậy, chiếc xuồng trờ tới. Nước quặn hình trôn ốc đảo tròn những tăm nước trắng phau, rồi tất cả tan chìm lặng lẽ, mặt nước khép kín lại như không hề có một hiện tượng lạ nào vừa mới xảy ra” (trg 71).

Ở truyện Mồ sống này, chủ đích của Chinh Ba là lên án chiến tranh bằng một giọng văn cay độc. Ông không gào thét, không phẫn nộ. Nhưng qua cách miêu tả hết sức bình thản các hiện tượng xảy ra chung quanh, người đọc cảm thấy có chút se lòng, một chút ngậm ngùi. Bởi sinh phần của bà Chánh Sáu không còn dành cho bà vì “bà đã chết như cái tan vỡ của một đám bụi, không còn để lại một chút xương cho Chót đem đặt vào ngôi sinh phần có lắp khung kính” (trg 75). Cái trớ trêu, là nơi dành cho người chết lại là chỗ để ươm mầm cho một sinh linh mới chào đời dưới lòng mộ huyệt. Đó là đứa con của Chót, kết quả của một trận càn thảm khốc, giữa Chót và một hình nhân dị dạng, dưới lòng mộ huyệt bà Chánh Sáu!

Đau khổ và hạnh phúc của một kiếp người chính là lúc lão Tư “hớt hải bước xuống ruộng, lội đùng đùng… réo gọi tên con như một người điên” (trg 92) giữa một không gian lạnh ngắt để đón đợi những đợt phi cơ “dội bom xuống mục tiêu suốt mấy giờ đồng hồ liền”.

Chinh Ba đã mở đầu truyện bằng “tiếng máy bay ầm ù không ngớt” và khép lại cũng bằng tiếng phi cơ phản lực dội bom, nhưng chỉ phác họa theo kiểu chấm phá để người đọc suy nghĩ sâu hơn về thân phận làm người của các nhân vật có mặt hay không có mặt trong truyện.

Cũng viết về đề tài chiến tranh như: Ngó lên hòn kẽm đá dừng hay Thằng Chằng… nhưng chỉ dừng lại ở mức độ miêu tả sơ lược, các nhân vật trong truyện đều “bảng lảng bóng hoàng hôn” chứ thật sự không làm người đọc phải rùng mình, gai lạnh sống lưng như Mộ sống: Bởi truyện có dư thừa sự tàn nhẫn của chiến tranh nhìn từ các nhân vật đến ngoại cảnh.

Những truyện khác như Hai vì sao lạc, Kẽ hở bàn tay, Lạc đường hay Một lứa cá mè… cách xây dựng cốt truyện và nội dung mang hơi hướm của phong cách Tự lực văn đoàn hay Vũ Trọng Phụng. Đó là những mối tình đẹp nhưng không thiếu cảnh trái ngang, nhất là Một lứa cá mè khiến ta liên tưởng đến Làm đĩ, Số đỏ (4) trong thời kỳ văn học lãng mạn Việt Nam trong thập niên 40 ở thế kỷ trước. Nhưng ở đó (các truyện này), người đọc cũng cảm thấy an lòng, vì người sáng tạo ra chúng luôn đặt niềm tin, sự lạc quan có thừa để tạo nên những cái kết có hậu, nhất là truyện Đóa sen vàng.

Bài thơ trên xương cụt, là truyện ngắn để đời của ông, bởi nó xuất hiện cách đây gần nửa thế kỷ nhưng chất văn học và tính hiện thực xã hội thì không hề mai một, cứ sáng lấp lánh như vì sao trên bầu trời trong xanh, mỗi khi ta ngước mắt lên và nhìn thấy. Truyện được viết trong trại Chí Hoà, rồi bí mật chuyển ra ngoài, sau đó Hoài Khanh chọn đăng trên Giữ Thơm Quê Mẹ số 4, tháng 10 năm 1965. (Khi viết đến đoạn này, tôi gọi đến anh Hoài Khanh đang ở Biên Hoà, hỏi anh còn nhớ ai mang truyện Bài thơ trên xương cụt đến anh? Anh Hoài Khanh nói: Chinh Văn mang đến, vì tôi có chọn và đăng một số bài thơ Chinh Văn trên GTQM, nên có quen nhau. Sau này mới biết Chinh Văn là em ruột của Chinh Ba). Ít ai biết vì sao ông bị chính quyền VNCH bắt giam 3 năm tại nhà lao Chí Hòa, cũng như bằng cách nào ông có thể dễ dàng viết truyện này trong trại tù và chuyển ra ngoài an toàn? Phần việc này xin để dành cho các nhà viết văn học sử.

Chinh Ba viết Bài thơ trên xương cụt theo lối kể chuyện để dẫn dắt người đọc đi từ sự ngạc nhiên này tới nỗi kinh ngạc khác, bằng một giọng văn chua cay, sắc ngọt. Ông đã vẽ lên sự tha hóa về nhân cách con người, và mặt nào đó là xã hội đang bị sức thống trị tuyệt đối của những thứ quyền lực thô lỗ tục tằn ngày càng trương phình lên: Tiêu biểu là Ba Lò Heo. Con người dung tục ấy đã chen chân vào thế giới mà hắn không mảy may rung cảm và cũng chẳng cần rung cảm trước cái đẹp của nghệ thuật. Hắn nắm toàn quyền “sáng tạo” và chỉ đạo “nền văn nghệ gia đình” phải hò hát theo ý riêng.

Út Lệ vốn dĩ là một cô đào ở một gánh hát, là hiện thân của niềm đam mê nghệ thuật (hò hát) bởi vì “… nàng sống để hát, và sống bằng chính tiếng hát của mình” (trg 128). Nàng sở hữu một giọng hát, theo như mô tả là “ấm áp, đằm thắm, ngọt ngào”, chí ít là với người dẫn truyện, sau khi nghe giọng hát Út Lệ đã nhận ra rằng: “Những cáu bẩn làm nhơ bợn tâm hồn tôi từ khi bon chen vào cuộc sống bỗng quyện lấy nhau mà trầm lắng xuống đáy thẳm trong vực lòng” (trg 127).

Từ chỗ Út Lệ mới đặt chân lên căn gác trọ, đêm đầu tiên cất lên lời ca u buồn đến nỗi người ngoài cuộc không thể giấu giếm được nỗi lòng: “Ánh đèn thì tù mù, tiếng hát thì buồn. Tôi tưởng như sự tối tăm, vắng lạnh của căn nhà hoang đã được mở mắt và lên tiếng. Điệu hành vân áo não u trầm, mang cái buồn cổ kính của dĩ vãng, rỉ ngấm qua vách lá, làm ẩm ướt những dòng cảm nghĩ của tôi về cuộc sống” (trg 125). Sự “làm ẩm ướt những dòng cảm nghĩ” sau khi được lắng nghe Út Lệ “…phô diễn bằng những âm hưởng trong trẻo, dịu ngọt, thanh thoát, hồn nhiên và cởi mở…” (trg 126) như một cách cảm nhận và chia sẻ của nhà văn với nhân vật do chính mình tạo ra. Nhưng đó cũng chỉ là những khoảnh khắc “tự do” rất ít ỏi của Út Lệ, khi chưa có sự chỉ huy và can thiệp thô bạo của nhân vật thứ hai. Chỉ đợi đến lúc, sự thao túng lên tới đỉnh điểm, thì người nghệ sĩ “…phải vừa đọc vừa khóc vì tủi nhục, ấy là bài thơ trên xương cụt của Ba Lò Heo” (trg 141).

Cuộc chiến giữa nàng Út Lệ và Ba Lò Heo là cuộc đấu tranh không cân sức, giữa một bên là người nghệ sĩ và bên kia là tên đồ tể; giữa nghệ thuật và dao phay; giữa kềm tỏa, trói buộc và Tự Do! Hắn ta đã chen chân vào đời sống tinh thần của vợ. Hắn uốn nắn niềm đam mê của nàng bằng những “tiếng dao cheng chẻng chém xuống thanh giường” bằng cả những tiếng la hét, hằn học. Nói khác, ẩn ngữ “ghen bóng ghen gió” của Chinh Ba có thể hiểu đồng thời là sự áp đặt có hệ thống, có mưu đồ tính toán hẳn hòi, mà mục đích cuối cùng là nhằm triệt tiêu Tự Do Sáng Tạo và niềm đam mê cháy bỏng của người nghệ sĩ.

Những “lệnh” của Ba Lò Heo liên tiếp đưa ra từ thấp lên cao: “Mày hát mửng gì mà đâm gan người ta quá vậy! Có câm họng lại không? Tao lột lưỡi mày bây giờ!”. Hay: “… tao biểu mày im thì mày phải im. Lý sự thì tao vặn họng” (trg 135). Út Lệ im, không hát nữa, nhưng không phải là nàng đầu hàng. Người thay nàng lên tiếng chống đối lại mệnh lệnh trái khoáy kia lại là đứa nhỏ “ngoe ngoé khóc lên”. Trò áp đặt quyền lực và sự phản kháng giống như cảnh nước nổi bèo nổi, để sau đó Út Lệ vặt lông tất cả những con vật hiện ra trong đầu óc nàng. Chúng lần lượt bị thay thế cho đến khi không còn con vật nào chịu thế chân vào tình cảnh đau lòng kia, thì Út Lệ phải cất lên: “Chiều chiều bắt ấy nhổ lông/Ấy kêu bớ chị…”.

Và, một khi kẻ bị trị không chịu thi hành lệnh hay thi hành theo chiều hướng phản kháng, ngấm ngầm chống đối; thế tất kẻ thống trị phải nghĩ ra cách khác. Cách mà Ba Lò Heo nghĩ ra là giành lấy quyền sáng tạo tuyệt đối, tự đặt thơ và cho xăm trên lưng, một loại thơ lấc cấc, quái dị xưng tụng cho thứ chủ nghĩa vị kỷ, hẹp hòi, trác táng nhằm lăng nhục kẻ khác: “Men lên chí cả thêm hừng/ Công danh ta túm trong quần ta chơi” (trg 138). Đây có thể coi là khởi đầu cho bi kịch chỉ huy nghệ thuật và nghệ thuật bị chỉ huy giữa Ba Lò Heo và nàng Út Lệ. Về mặt nào đó, trò chơi tởm lợm này, do Ba Lò Heo đặt ra, bước đầu xem ra thắng thế, bởi quyền lực hắn đang nắm trong tay. Nhưng xem ra cái ưu thế kia bị lung lay dữ dội khi nàng đánh đúng vào chỗ nhược của hắn: “Anh Ba nè, sao đọc mấy câu này tôi nhớ ba thằng Bình quá hà!” (trg 139).

Sự mâu thuẫn ban đầu biến thành sự xung đột có dao búa; có cả nước mắt và sự im lặng, nhẫn nhục chịu đựng. Câu chuyện kể bỗng dưng biến thành vở kịch có đầy đủ các yếu tố bi hài: Một khi kẻ nắm quyền thống trị bị đối phương chọt ngoáy đúng vào ý thức “ghen bóng ghen gió”, để cuối cùng Ba Lò Heo phải dùng tới hạ sách cực kỳ dung tục mang dáng dấp một tay anh chị máu lạnh, tàn nhẫn ở lò mổ Chánh Hưng, chợ Cầu Ông Lãnh, Khánh Hội… thuở xa xưa: “… em trịch cái quần anh xuống một chút… Em thấy chưa? Ở trên chỗ xương cụt đó… tao biểu mày đọc, không đọc thì bay đầu!” (trg 140).

Không ai biết bài thơ “nằm ở chỗ kém sạch sẽ đó” có nội dung ra sao, chỉ nghe Út Lệ “nghẹn ngào”, điều này có nghĩa rằng, Ba Lò Heo, người đại diện cho kẻ thống trị văn nghệ đã làm được những gì hắn nghĩ, quyết thực hiện bằng bất kỳ giá nào, miễn đạt được mục đích tối ưu, có lợi cho hắn. “Nền văn nghệ gia đình” chân chính bị xóa sổ để thay thế bằng “văn nghệ xương cụt”, một loại văn nghệ được hình thành bởi những “tư duy” đố kỵ, một chiều và hẹp hòi bắt đầu hãnh tiến lên ngôi, thống lĩnh! “…thì Ba Lò Heo đã định nghĩa văn nghệ là sự tẩm quất dục vọng hoặc là sự làm-đã-ngứa chỗ xương cụt, nên lão đã đặt cơ sở nền văn nghệ trên chiếc xương cụt của lão” (trg141).

Tôi nghĩ, truyện dừng ở đoạn này thì cũng đủ nói lên tính hiện thực xã hội. Nhưng chừng như để cho độc giả khỏi phải nhọc công suy diễn, so sánh, đối chiếu, Chinh Ba cố công viết thêm đoạn ngắn như là cách giãi bày tâm sự, một cách biểu tỏ thái độ của người nghệ sĩ: Đó là quyền Tự Do tuyệt đối, quyền Tự Do sáng tạo: “Kể từ đó, hễ nhìn bất cứ vào cái gì có hình chữ nhật – nhất là những trang giấy trắng trên bàn viết của tôi – thì tôi nghĩ đến tấm gương soi của lão Ba Lò Heo, và thấy nguyên cả một sự tục tĩu kèm với bài thơ trên xương cụt, thấy nguyên cả hiện tình văn nghệ tồi tàn của gia đình lão. Những đêm khuya, nhìn tấm vách lá, tôi lại nhớ tới tiếng hát của Út Lệ. Tôi tin rằng trong một thôn xóm nghèo nàn nào đó, dù đang đói rách, người nghệ sĩ ấy cũng đang được tự do hát những bài hát mà mình ưa thích. Rốt cuộc Út Lệ đã thắng” (trg 142-143).

Đó cũng chính là niềm tin của người nghệ sĩ.

Chinh Ba đã để cho nàng Út Lệ chiến thắng trong cuộc rượt đuổi hụt hơi và trốn chạy đi tìm cái Đẹp. Niềm tin ấy thật mãnh liệt. Và chỉ có lòng đam mê và niềm tin không bị lung lay, rơi rớt thì tiếng hát mới thật ngọt ngào, ấm áp. Cái giá trị đích thực có đến được với nghệ thuật hay không chỉ khi nào Tự Do Sáng Tạo không bị tước đoạt thô bạo!

(xứ Xương Rồng, tháng 3/2012)

__________

(1) Giữ Thơm Quê Mẹ, tập san văn nghệ do Lá Bối xuất bản, Hoài Khanh coi sóc, số đầu tiên phát hành tháng 7/1965.

clip_image004

Giữ Thơm Quê Mẹ, số 4 tháng 10/1965

(2) Thủ bút và chữ ký của Chinh Ba.

clip_image006

(3) Chinh Ba, Bài thơ trên xương cụt, nxb Trẻ, SG 2011

Nxb Trẻ tái bản lần thứ I, 2012

(4) Chí Phèo, Nam Cao

(5) Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng

Chinh Ba tên thật Phan Tân Nhựt.

Sinh năm 1934 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, Quảng Nam.

Học tiểu học ở Bảo An, trung học ở Tam Kỳ rồi Quảng Ngãi.

Ông từng bị chính quyền VNCH giam giữ tại khám Chí Hòa, sau đó vượt ngục sang Cambodge rồi sang Pháp.

Đại học Sorbonne, Pháp.

Hiện sinh sống tại Pháp.

Cộng tác với các báo: Nhân Loại, Lẽ Sống, Bông Lúa, Ngày Mới, Giữ Thơm Quê Mẹ, chủ biên tờ Mã Thượng…

Dưới nhiều bút hiệu khác nhau: Phan Phong Chinh, Trọng Cưu, Thông Mai, Thảo Nguyên, Cước Nguyên, Kiều Mỹ Vân, Hà Thời Đán.

Ông có khoảng 50 truyện ngắn đã đăng báo. Truyện Bài thơ trên xương cụt in chung trong tập Ảo Tượng cùng với Hồ Hữu Tường, Thiều Chi, Võ Phiến, Sơn Nam, Nhất Hạnh, Tuệ Uyển do nhà Lá Bối xuất bản lần đầu 1966 và tái bản năm 1971.

THAM KHẢO:

Bài thơ trên xương cụt

Truyện ngắn của Chinh Ba

Sân gác bỗng rung lên khe khẽ. Tôi đoán chừng Trâm đến. Những bước chân êm ái đưa nhẹ về phía tấm vách lá. Ót tôi nóng ran lên một cảm giác khoan khoái: với đôi mắt đẹp như sao, nàng đang âu yếm nhìn tôi. Đốt một điếu thuốc, ngồi nhìn trang giấy đang viết dở, tôi hồi hộp chờ đợi đôi bàn tay nhỏ nhắn, mát rượi và tinh nghịch của nàng bất thần bịt ngang mắt.

Trời đứng gió, căn gác im vắng đến như tôi có thể đếm được từng hơi thở của Trâm.

Chợt có tiếng sột soạt nhỏ. Tiếp theo là tiếng chắp miệng, tiếng ho húng hắng, rồi một tràng tiếng nhai nhóc nhách đều đều.

Chỉ chừng đó thứ tiếng đủ làm tôi thất vọng. Kẻ vừa xâm nhập căn gác không phải Trâm, mà là bà Tư Ra-Dô, bà chủ nhà của tôi đó. Không cần quay lại, tôi cũng biết bà đang ghìm đầu vào vách, dõ mắt sang căn nhà bên cạnh. Đôi mắt ấy nhỏ, hơi lộ và láo liên như mắt chuột, để bà đặt vừa vặn vào các khe hở mà dòm ngó những cảnh hớ hênh của bốn phía láng giềng. Thế rồi cái miệng toang hoác của bà sẽ nói choèn choẹt cả ngày về những điều xấu xa mà bà đã dày công rình mò săn bắt được. Nhờ cái miệng đó, bà được gọi là “bà Tư Ra-Dô”. Bà chỉ nhận biệt danh ấy với một niềm kiêu hãnh vừa phải. Tuy vậy chẳng mấy ai ưa bà. Cho nên để xứng đáng với lòng ghét bỏ của mọi người, bà bèn đặt đúng chính giữa cặp lưỡng quyền nhọn hểu của mình một chiếc mũi két cong quắp. Trong ấy luôn luôn ló ra hai thỏi nước nhờn màu vàng đọt chuối. Bà sẽ hỉnh mũi hít khìn khịt hai thỏi nước đó vào mỗi khi muốn tỏ bày lòng thương cảm các nhân vật trong câu chuyện mách lẻo.

Ấy thế mà bà đến thay chỗ đứng của Trâm trong căn gác này, lúc 4 giờ chiều. Có lẽ để giải toả bớt nỗi bực dọc, tôi phóng cây bút xuống xấp giấy, rồi xô ghế đứng dậy, đi thẳng ra mái hiên. Tôi vừa tì người vào lan can thì tiếng khịt mũi của bà đã ở bên tai. Quay lại, tôi bắt gặp một cái mồm đang há to, và một ngón tay cộc cằn thò vào chỗ ấy móc ra một miếng bã trầu đỏ quạch. Đó là cách bà dọn mồm để nói một câu chuyện nhì nhằng:

-Cậu Tích à! Nguy cho cậu rồi! Con mẻ bồng cái con khỉ con của con mẻ về đó.

Tôi muốn quát lên: “Mặc người ta, bà cút ngay đi cho tôi yên”. Nhưng tôi không thể thốt lên như vậy, vì một lẽ rất đơn giản là tôi còn thiếu bà hai tháng tiền nhà, và bà thì đang cần một cơ hội tốt để hét to điều đó.

Thấy tôi có vẻ lơ là với câu chuyện, bà cười hì hì, nâng hai bàn tay lên ngang mặt, dùng tay phải bốc một ngón trong bàn tay trái, đưa sát vào mũi tôi:

-Nè, mẹ thì hát nè!

Bốc thêm một ngón nữa, bà tiếp:

-Con thì khóc nè!

Rồi bà buông thõng hai tay, mặt ngất lên trông rất thiểu não:

-Cậu làm sao chịu nổi chớ? Tôi hỏi cậu vậy hà!

Tôi không chịu nổi thật – với cách nói chuyện đó – vội đi lùi về cuối mái hiên. Bà nhẫn nại bước theo, xoè hai bàn tay ra trước bụng, giọng phân trần:

-Cậu tính tôi nói có sai đâu. Hồi con mẻ mới dọn về đây tôi đã nói rồi, không tin cậu đi hỏi hết cả xóm coi, tôi nói làm gì thằng chả cũng đá con mẻ một cái rụp mà.

Tuy chưa biết “con mẻ” và “thằng chả” đây là ai, nhưng nghĩ cho cùng thì cuộc đời tôi chẳng dính líu gì với hai nhân vật đó. Vậy mà bà Tư Ra-Dô cứ bức hiếp tôi phải nghe những chuyện lăng nhăng về họ, thì thật là một điều bất công mà tôi tưởng các nhà xã hội học cần nên lưu tâm đến.

-Úi chà, cậu Tích! Cậu ngó cái gì ở đẳng vậy? Cháy nhà hả?

Thấy bà có vẻ hăng quá, tôi e bà la “nhà cháy, nhà cháy” thì mệt cho cả xóm, nên vội khoa tay nói:

-Không, không! Tôi ngó con khỉ ngồi trên cây gòn của thầy Bảy Xáng đó.

-Ừ, cậu nói tới con khỉ tôi mới nhớ, để tôi nói cho cậu nghe, hồi con mẻ mới về đây, cái bụng còn lum lúp (hà). Đầu tháng Tư, đám giỗ ba con Thu nhà tôi, vợ chồng con mẻ đem qua hai chai la-de. Tới tháng mười thì con mẻ đẻ ra cái con khỉ nhỏ đó, nó khóc thôi… trường canh, không ai chịu nổi. Con chưa đầy tháng thì thằng chả quất ngựa chuối. Tụi “xướng ca vô loài” mà cậu, vui đâu chúc đó, chớ tình nghĩa gì. Vậy mà con mẻ ôm con đáo đế đi tìm thằng chả.

Bà dừng lại, kéo vạt áo quẹt bớt số nước trầu lộn với nước giãi đọng hai bên mép, rồi hối hả nói tiếp:

-Dữ ác hông! Bỏ cửa bỏ nhà đi từ đầu tháng Chạp tới tháng Năm, rồi cũng mang cái mạng mộc trở về.

Trước khi buông tha tôi, bà chằng miệng ra cười the thé, rồi tiếp tục mang cái chuỗi cười vô lý đó đi xuống thang gác. Chuỗi cười được chấm dứt hẳn, lúc bà cất tiếng gọi con đến lạc giọng:

-Thu ơi, Thu à!

Đêm đó, căn nhà tối tăm và vô chủ ở liền vách với căn gác tôi bắt đầu có ánh đèn và tiếng hát. Ánh đèn thì tù mù, tiếng hát thì buồn. Tôi tưởng như sự tối tăm, vắng lạnh của căn nhà hoang đã mở mắt và lên tiếng. Điệu hành vân áo não u trầm, mang cái buồn cổ kính của dĩ vãng, rỉ ngấm qua vách lá, làm ẩm ướt những giòng cảm nghĩ của tôi về cuộc sống. Để ý đến lời ca, tôi nhớ mang máng như đã từng nghe qua trong một vỡ tuồng cải lương nào của xa xưa:

-“Đoạn (cái) can tràng! (là) đoạn (cái) can tràng! Luỵ ngọc dầm chan. Ai ơi, có thấu mấy tiếng đây chăng! Duyên tóc kia (nó) lìa đoạn. Tơ tình vương vấn, rồi bình tan, ngọc vỡ khi không! Ly biệt này ai không đau lòng! Ly biệt này ai không đau lòng! Ôm sầu đoài đoạn…”.

Hết hành vân, tới tứ đại oán, lưu thuỷ trường, nam xuân, nam ai, lý con sáo, rồi vọng cổ. Thỉnh thoảng trong nỗi buồn miên viễn đó, bỗng bật lên tiếng khóc dạ đề của đứa trẻ. Điệu hát liền thay cung bậc, trở nên ấm áp, đằm thắm, ngọt ngào:

-Gió mùa thu, mẹ ru (mà) con ngủ. Năm canh chầy thức đủ vừa năm! Ớ chàng là chàng ơi! Ớ người là người ơi! Em nhớ tới chàng!…”

Có khi cái buồn không vơi, không nhẹ, không hao hớt vì ý nghĩa sai lạc, không hợp thời, hợp cảnh của lời ca:

-“Gió hiu hiu, lộc bình trôi riu riu. Anh đừng bận bịu bớ điệu chung tình! Con nhạn bay cao khó bắn, mà con cá ở ao quỳnh khó câu”.

Chẳng biết từ bao giờ, tôi đã đem lòng yêu cái buồn đó, cái buồn được phô diễn bằng những âm hưởng trong trẻo, dịu ngọt, thanh thoát, hồn nhiên và cởi mở, toả ra một cách dễ dàng từ giọng hát đặc biệt của người miền Nam. Điệu buồn trở nên thân thuộc như đã in hẳn trong tiềm thức tôi tự đời nào. Những bông hoa tình cảm tôi vươn lên trên đài cao và nở rộng với bao la. Những cáu bẩn làm nhơ bợn tâm hồn tôi từ khi bon chen vào cuộc sống bỗng quyện lấy nhau mà trầm lắng xuống đáy thẳm trong vực lòng.

Đêm đó tôi viết dễ dàng như tôi thở. Tôi gửi vào cuộc đời niềm tin yêu màu hồng.

Tôi nghĩ cái buồn đôi khi cũng cần thiết cho con người như chút phèn chua cần thiết cho một ly nước đục. Bởi vậy, thà mùa thu không có gió, chứ đêm khuya đừng vắng tiếng côn trùng. Những tâm hồn thao thức biết lấy gì mà thở nếu không có tiếng dế nỉ non, tiếng vạc kêu sương, tiếng từ quy khắc khoải, tiếng khóc của trẻ con, tiếng ru của bà mẹ bên hàng xóm!

Tôi có một định nghĩa hơi rộng rãi về người nghệ sĩ, nên qua một đêm gần gũi với sinh hoạt văn nghệ của người đàn bà mà bà Tư Ra-Dô gọi tắt là “con mẻ”, tôi gọi người đàn bà ấy là một nghệ sĩ. Sáng hôm sau, bà Tư lấy làm ngạc nhiên thấy tôi vồn vã với bà trong câu chuyện về “con mẻ”.

-Sao, con mẻ hát cả đêm mà cậu chịu nổi à?

Tôi mỉm cười, không trả lời thẳng vào câu hỏi:

-Con mẻ của bà hát hay quá!

Bà luôn luôn cố tỏ ra khôn lanh, hiểu biết nhiều, và đồng ý một cách nhiệt thành với người đối diện:

-Trời ơi! Tôi nói tôi mê con mẻ mà. Đào hát mà hát không hay sao được cậu! Út Lệ đó, hồi trước đi gánh Nam Giang đó, cậu không biết sao!

Út Lệ, cái tên nghe xa lạ quá. Nhưng tiếng hát và tâm hồn của người đàn bà ấy gần gũi với tôi biết chừng nào. Từ đó, những buổi trưa, những đêm tối, tôi thường nghe tiếng hát của Út Lệ. Hình như nàng sống để hát, và sống bằng chính tiếng hát của mình.

Bà Tư thường thóc mách với tôi nhiều điều xấu về Út Lệ. Điều bà cho rằng xấu nhất là Út Lệ không biết làm ăn buôn bán, không kiếm đủ sữa cho con bú, có đêm đã khuya còn xách chén qua xin cơm nguội của bà. Theo bà, sự thiếu ăn là cái quả của những tính xấu.

Một buổi trưa vắng tiếng hát Út Lệ, tôi đang ngồi đọc lại một bản thảo thì bà Tư Ra-Dô chạy đùng đùng lên thang gác. Mắt sáng quắc, bà nói khào khào vào tai tôi:

-Con mẻ đổi nghề rồi cậu ơi! Hồi nửa buổi có một thằng cha vác cái bản mặt cô hồn, vô nhà con mẻ. Hai người rủ rỉ rù rì gì suốt mấy giờ đồng hồ. Thằng chả vừa về là con mẻ đi mua nào là gạo nè, than nè, nước mắm nè, bánh mì nè,. Cái mặt con mẻ đang tươi roi rói, thấy tôi ngó tới cái thì sượng trân liền.

Rồi hai tay chắp sau lưng, đầu nghẹo sang một bên, mắt trừng trừng, bà dằn từng tiếng:

-Tôi hỏi cậu vậy chớ tiền đó ở đâu ra? Tiền đó là tiền gì chớ?

Bước tới cầu thang, bà còn ngoái cổ lại, cất giọng lảnh lót:

-Tôi nói vậy mà phải không cậu?

Tôi liền đứng dậy, chỉ cái khoảng trống chỗ thang gác, hỏi bà:

-Dì làm cho cháu một miếng bửng chỗ đó có được không?

-Chi vậy cậu?

Tôi thẳng thắn đáp:

-Để đậy cầu thang lại.

Bà ngó tôi bằng cái đuôi con mắt, rồi xuống hết thang gác bà mới nói vói lên:

-Cái đó dễ mà, hễ cậu trả tiền nhà thì tôi làm liền hà!

Bẵng đi hai ngày tôi được yên ổn làm việc. Đến ngày thứ ba, tôi vừa đi phố về, chưa kịp thay áo, đã thấy bà Tư thập thò chỗ cầu thang. Không nỡ để bà tiu nghỉu thối lui, tôi mở đường cho bà bằng một nụ cười khuyến khích. Tuy không được tự nhiên như những lần trước, nhưng mặt bà cũng đầy vẻ hớn hở với cái tin vừa săn được của Út Lệ:

-Con mẻ có chồng khác rồi cậu ơi! Cái thằng cha bữa hổm đó. Chiều nay thằng chả dọn về ở luôn với con mẻ. Cậu biết hông, tôi hỏi khéo một câu là con mẻ rút ruột ra nói hết trọi. Thằng chả hồi trước đi lính BX, bây giờ làm trong lò heo Chánh Hưng (á)! Mỗi tháng ba ngàn lận… Thôi, vậy cũng khoẻ cho hai mẹ con con mẻ, phải không cậu?

Bà cười hề hề rồi nói bô bô, phơi bày lòng tốt của mình:

-Tính tôi vậy đó cậu ơi! Không ích kỷ, thấy ai khá cũng mừng cho họ. Chớ nhiều người ớ nghen, thấy người ta ngóc đầu lên là ganh ghét, đâm bị thóc, thọc bị gạo. Như con mẹ Tám Chả-giò đó cậu, ông Trời ổng…

Tôi thiết nghĩ, nghe cho hết chuyện “con mẹ Tám Chả-giò” thì cũng chẳng ích lợi gì cho lắm, nên giả đò dòm ngoài lan can, nói một mình: “Ai như bà Tám vậy kìa!”. Bà Tư liền lật đật chạy xuống cầu thang, tự càu nhàu mình:

-Cơ khổ, nó rủ 12 giờ qua nhà nó đánh xiệp mà nói ba điều bốn chuyện nhè quên mất.

*

Chiều hôm đó, nhà Út Lệ có thêm một giọng đàn ông ồ ề. Giọng ồ ề đó cứ mỗi ngày một to dần, cho tới tuần sau thì trở thành cái loa làm náo động hết cả xóm. Con nít rủ nhau quần tụ trước nhà Út Lệ để xem lão Ba Lò Heo say rượu.

Lão xách dao rượt Út Lệ chạy quanh giường, đe sẽ cắt cho kỳ được cái lưỡi của vợ, chỉ vì chị vừa hát ru con bằng mấy câu này: “Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội, người xa người tội lắm người ơi!…”.

Lão hét lên:

-Tao hỏi mầy, người xa người đây có phải là mầy xa nó không? Tao là chồng mầy, tao ở sờ sờ trước mắt đây mà mầy dám thở than thương tiếc thằng chồng cũ của mầy. Như vậy làm thân con đàn bà một dạ hai lòng như mầy thì thử hỏi có đáng thẻo cái lưỡi mầy đi, có đáng sả nát cái thân mầy ra không chớ?

Những tiếng sau cùng lão rít lên cùng một lúc với tiếng dao cheng chẻng chém xuống thanh giường. Lão la, lão hét thêm một hồi nữa rồi nằm vật xuống nền đất, ngáy khò khò.

Mấy tuần lễ sau, qua nhiều lần bình giảng thi văn bằng dao, bằng búa và bằng hơi men sặc sụa, lão kết luận rằng câu hát nào của Út Lệ cũng có ý than duyên trách phận, cũng có chút tình kín đáo nhắn gửi người chồng cũ. Cứ mỗi lần bình giảng như vậy, lão “bỏ” một câu hát của Út Lệ. Vì vậy mà cái vốn liếng văn nghệ của gia đình Út Lệ ngày càng sa sút nghèo nàn dần.

Cho đến một đêm, nhân lúc tỉnh trí, lão Ba Lò Heo dịu dàng cắt ngang một câu vọng cổ của vợ, rồi thỏ thẻ bày tỏ nỗi lòng mình:

-Em Út à, mỗi lần nghe em hát một bản cải lương là anh thấy khó chịu trong bụng quá sá! Em còn thương nó không? Em nói thiệt đi?

Giọng của Út Lệ nhỏ nhẹ, nhưng không giấu nổi chút bực dọc:

-Tôi lấy anh thì tôi thương anh chớ còn thương ai. Hỏi nghe kỳ hông!

-Vậy từ rày em đừng hát nữa có được hông?

Ba tiếng “có được hông” lão dằn mạnh với giọng vừa khuyên vừa doạ. Út Lệ khẩn khoản:

-Cái kiếp em là kiếp con hát, em hát từ nhỏ tới giờ quen rồi, không hát chịu không được!… Với lại không hát thì thằng Bình nó không ngủ, nó khóc hoài làm sao anh chịu được.

Rồi nhân lúc lão Ba còn đang lựa lời, Út Lệ năn nỉ thêm:

-Em hát là hát cho vui vậy chớ đâu có thương ai nhớ ai. Anh đừng ghen bóng ghen gió tội nghiệp em!

Lão Ba nổi nóng:

-Ghen, ghen cái con khỉ khô họ! Mầy hát mấy câu hát đưa em không được sao chớ? Cái đồ cải lương cải liếc, vọng cổ vọng kiếc đó là đồ… đồ dở ẹt. Tao biểu bỏ đi là bỏ đi!

Út Lệ còn cố níu chút hy vọng mong manh:

-Mấy câu đó anh cũng cấm rồi, đâu còn câu nào!

-Sao không còn! Tao nghe con mẹ Tư Ve chai hát cái câu gì mà có con két đó, nghe được quá chớ, sao không hát?

-Có một câu đó hát đi hát lại hoài sao?

-Còn cái câu “ví dầu ví dẫu, ví dâu” nữa chi!

Thế là đêm đó, nghệ sĩ Út Lệ chỉ được phép hát vỏn vẹn có hai câu:

“Chiều chiều bắt két nhổ lông
Két kêu bớ chị chị đừng ác nhơn”.

Và “Ví dầu ví dẫu ví dâu,
Ví dâu dâu chạy, ví trâu vô chuồng”

Cũng từ đó, tiếng hát của chị có giọng oán hờn thống trách, dần dà về sau lại đượm ý chán nản, liều lĩnh, khinh thị. Mỗi tiếng hát như một lát dao băm vào vết đau khổ trong lòng mình, và xỉa xói vào tâm can người nghe. Hai câu hát ngô nghê, lạt lẽo và vô nghĩa mà Út Lệ phải hát đi hát lại mãi, đã làm tôi khó chịu hơn cả những câu chuyện lăng nhăng, nhảm nhí của bà Tư Ra-Dô.

Chỉ trong vòng một tuần lễ, những tiếng “ví dầu” xoay tít trong ý nghĩ tôi, đánh nhịp theo bước đi của tôi. Và câu “bắt két nhổ lông” lúc đầu chỉ làm tôi tức cười cho cái cắc cớ của người đặt ra nó; nhưng về sau, cứ mỗi lần nghe Út Lệ thốt lên thì tóc tôi in tuồng dựng đứng dậy, một cảm giác ran ran đau nhức chạy luồn trong da đầu.

May thay tình trạng đó chỉ kéo dài trong vòng nửa tháng thì có một biến cố lớn trong gia đình Út Lệ. Biến chuyển đó bắt đầu bằng việc Út Lệ tự tiện sửa đổi câu “ví dầu” nguyên tác thành câu:

“Ví dầu, ví dẫu, ví dâu,
Ví dâu, ví dẫu, ví dâu, ví dầu”

Cứ thế chị hát giật giọng từng hai tiếng một. Giọng hát không còn buồn giận nữa. Chị đã dùng tài diễn tả của mình biến những âm thanh gần như vô nghĩa đó thành hàng loạt kim nhọn, rồi bình tĩnh và ngạo nghễ đẩy từng chiếc vào tim, vào óc lão Ba Lò Heo. Ngày đầu lão còn lặng lẽ chịu đựng cuộc phản công đó. Nhưng qua đêm hôm sau thì tôi đã nghe tiếng hét của lão:

-Mầy hát cái mửng gì mà đâm gan người ta quá vậy! Có câm họng lại không? Tao lột lưỡi mầy bây giờ!

Út Lệ xẵng giọng cãi lại, nhưng chính là cách kín đáo ca ngợi thắng lợi của mình:

-Ông biểu tôi hát câu nào thì tôi hát câu nấy. Trong câu hát có gươm có dao gì đâu mà ông nói tôi đâm gan ruột ông!

Lão Ba hồ đồ:

-Vậy mà… tao biểu mầy im thì mầy phải im. Lý sự thì tao vặn họng.

Không có tiếng hát, thắng Bình không chịu ngủ, ngoe ngoé khóc lên. Út Lệ lặng thinh, để mặc cho con khóc. Sự nín tiếng tuyệt đối đó thành một cách chống đối có hiệu quả. Chỉ nửa giờ sau, lão Ba phải đầu hàng:

-Mầy làm gan với tao hả? Sao không ru cái thằng quỷ con đó cho nó ngủ đi!

Út Lệ ung dung cất tiếng hát. Thế là con két bị đem ra nhổ lông:

-Ầu ơ…ơ… Chiều chiều bắt két nhổ lông, két kêu bớ chị, ờ…ơ… chị đừng ác nhơn…

Câu tiếp đáng lẽ là câu “ví dầu”, nhưng vừa bị cấm, Út Lệ phải hát lại câu “chiều chiều”. Để khỏi nhàm chán, chị không “bắt két nhổ lông” nữa, mà lại “bắt chó nhổ lông”:

-Ầu ơ… Chiều chiều bắt chó nhổ lông, chó kêu bớ chị ờ…ơ… chị đừng ác nhơn.

Rồi cứ theo cách đó, mỗi lần lặp lại câu hát, chị lại tìm một con chim hay con thú, có cái tên bằng thanh trắc để thế vào địa vị khốn nạn của con két.

-Ầu ơ… chiều chiều bắt ngỗng nhổ lông, ngỗng kêu bớ chị ờ… ơ… chị đừng ác nhơn… Ầu ơ… chiều chiều bắt chuột nhổ lông…

Đôi khi chị “nhổ lông” cả những con không có nổi một sợi lông như con rắn, con nhái, con cóc. Sau cùng, tới lúc chị hát: “Chiều chiều bắt ấy nhổ lông…Ấy kêu bớ chị…” thì lão Ba gầm một tiếng dữ tợn, đập phá một vài món đồ đạc trong nhà, rồi xách xe đạp đi thẳng.

*

Năm ngày sau tôi mới nghe lại tiếng nói của lão Ba. Lão về vào một buổi trưa, với một cân thịt quay, một cân bánh hỏi và một giải pháp cho tình trạng bế tắc của nền văn nghệ gia đình.

Sau khi ăn uống no nê, hể hả, lão Ba vui vẻ bảo Út Lệ:

-Em Út à! Cái lưng anh đây, bữa rày em muốn hát thì cứ tự do ngó vô đây mà hát cho phỉ tình.

Út Lệ sửng sốt:

-Uý trời! Anh xăm, anh vẽ nát cái lưng vầy đây hả?

-Thì còn xăm được chỗ nào nữa đâu mà không xăm cái lưng, hỏi kỳ hông! Trước bụng thì có con đầm; trên ngực thì có cặp rồng chầu, tay chơn thì có lân, có quy, có phụng. Đừng hỏi lôi thôi, đọc lên nghe thử coi nà!

-Mà ai xăm cho anh vậy chớ? Phải Tư Kiên hông?

Lão Ba cười to:

-Cái thằng đó mà biết xăm cái con khỉ mốc! Nó làm cho người ta sanh ghẻ sanh sẹo thì có. Thằng này là thằng Bảy Kền, bạn của anh hồi ở Nam Vang, em không biết nó đâu. Thôi, đọc hai bài thơ đó đi!

Út Lệ lẩm nhẩm đọc, bên này vách tôi chỉ nghe câu được câu mất:

“Nam vô tửu như kỳ vô phong
“Người mà không có rượu thì không phải người

……………………………………………

“Kể từ lúc ta vào làng đế
“Cái sự đời ta để sau lưng
“Men lên chí cả thêm lừng
“Công danh ta túm trong quần ta chơi…

Đọc xong hai bài thơ, Út Lệ lập lờ khen hay. Lão Ba khoái chí cười ngất. Giọng hí hửng, lão Ba bảo Út Lệ:

-Đâu, em Út hát lên cho anh nghe thử coi!

Út Lệ từ chối khéo:

-Phải thuộc mới hát được.

-Đây nè, học cho thuộc đi!

Út Lệ lúng túng:

-Hay thì hay đó… mà cái thứ thơ này học khó thuộc quá hà!

Lão Ba tức giận, nói gằn từng tiếng:

-Tao…biểu…mầy…phải…học…thuộc!

Tôi đang lo, không biết Út Lệ có nại ra được cớ gì để từ chối nữa không, thì đã nghe tiếng đọc đều đều của chị. Tôi tưởng tới nỗi khó chịu trong những ngày sắp tới, mỗi khi nghe Út Lệ miễn cưỡng hát ru con bằng những câu thơ kệch cỡm đó. Nhưng chỉ một lát thì Út Lệ ngưng đọc, chị thỏ thẻ nói với chồng:

-Anh Ba nè, sao đọc mấy câu này tôi nhớ ba thằng Bình quá hà!

Lão Ba đập tay xuống giường, ngồi bật dậy thét:

-Sao? Mầy nói sao?

Tin vào ngón đòn tâm lý của mình, Út Lệ bình thản đáp:

-Hồi đóng vai Uất Trì Cung, gã cũng nói lối mấy câu tương tự như vậy đó.

Ba Lò Heo chui mình xuống giường, giọng buông thõng:

-Thôi, thôi bỏ đi!

Út Lệ ỡm ờ:

-Tôi học thuộc rồi mà bỏ chi uổng vậy!

Ba Lò Heo cương quyết:

-Tao…biểu…bỏ…là…bỏ.

Ngoài chút tình thương cảm sẵn có với Út Lệ, bây giờ lòng tôi lại thêm mến phục chị. Người nghệ sĩ ấy đã thắng liên tiếp trong những điều kiện khó khăn. Nhưng có lẽ chị cũng như tôi đều không ngờ rằng Ba lò Heo còn thủ một miếng đòn tối hậu để giành lấy phần thắng sau cùng.

Lão nằm, ngẫm nghĩ, cười sằng sặc một mình rồi trổ miếng đòn bí hiểm đó ra:

-Em Út nè! Đâu, em trịch cái quần anh xuống một chút thử coi có cái gì, hà hà hà…

Thật là một câu lỗ mãng và tục tĩu mà chỉ có Ba Lò Heo mới thốt lên được một cách tự nhiên như vậy! Út Lệ im lặng, sự im lặng có nghĩa như một tiếng khóc nấc.

Lão Ba nói:

-Em thấy chưa? Ở trên chỗ xương cụt đó, thằng bảy Kền làm riêng bài thơ tặng anh. Học thuộc đi rồi hát cho anh nghe. Đừng có lôi thôi gì nữa hết.

Út Lệ vẫn im lặng. Bây giờ sự im lặng đọng lại thành một giọt nước trong khoé mắt tôi.

Bên kia vách, hình như men rượu đã ngấm đều vào máu Ba Lò Heo, lão rút con dao phay liếc rổn rảng trên vành lu.

-Đọc, tao biểu mầy đọc, không đọc thì bay đầu!

Út Lệ nghẹn ngào, đọc đi đọc lại bài thơ nằm ở chỗ kém sạch sẽ đó.

Trong đời tôi, tôi đọc thơ cũng khá nhiều, tôi nghe người ta ngâm thơ cũng bộn, nhưng tôi chỉ biết có một bài thơ làm cho người đọc phải vừa đọc vừa khóc vì tủi nhục, ấy là bài thơ trên xương cụt của Ba Lò Heo.

Hẳn có vị tò mò muốn biết bài thơ ấy hay ho như thế nào! Lúc đầu tôi đã toan ghi nó ra đây, nhưng e làm thế thì vô lễ với độc giả quá, nên lại thôi. Tuy vậy, nếu giấu đi cái phần độc đáo của bài thơ thì cũng tủi cho tác giả đã dùng một thứ kỹ thuật tân kỳ để làm cho những dục vọng của Ba Lò Heo được tẩm quất đều đều qua từng câu từng chữ. Những dục vọng ấy chỉ súc tích trong những hạng người thường ngứa ngáy chỗ xương cụt, mà không muốn tự mình gãi cho mình.

Nếu nói một cách khôi hài thì Ba Lò Heo đã định nghĩa văn nghệ là sự tẩm quất dục vọng hoặc là sự làm-đã-ngứa chỗ xương cụt; nên lão đã đặt cơ sở nền văn nghệ trên chiếc xương cụt của lão.

Nghệ sĩ Út Lệ không đồng ý như vậy, nên qua ngày hôm sau, thừa lúc lão Ba đi vắng, chị bồng đứa con riêng, bỏ nhà ra đi.

*

Út Lệ vắng nhà chưa đầy một tuần thì Ba Lò Heo đã có người đàn bà khác. Họ ăn ở với nhau có vẻ tương đắc lắm, trong nhà không hề có “tiếng bấc tiếng chì”. Người đàn bà ấy – theo bà Tư Ra-Dô cho biết – trẻ hơn Út Lệ, mặt mày khá sáng sủa, thân hình đầy đặn, làm việc giỏi, biết chiều chuộng chồng, không bao giờ ngồi lê đôi mách. Và người đàn bà ấy câm từ lúc mới lọt lòng mẹ.

Một hôm tình cờ đi ngang qua nhà Út Lệ – mà bây giờ là của lão Ba Lò Heo – tôi thấy lão đang săm se một tấm gương soi mới mua, khá lớn. Bỗng tôi đem lòng thương hại lão. Tôi nghĩ: những lúc buồn, có lẽ lão phải dùng tới tấm gương ấy để đọc bài thơ trên xương cụt của mình. Như vậy những chữ trong gương đều bị đảo ngược hết, thật khó lòng cho lão quá.

Kể từ đó, hễ nhìn bất cứ vào cái gì có hình chữ nhật – nhất là những trang giấy trắng trên bàn viết của tôi – thì tôi nghĩ đến tấm gương soi của lão Ba Lò Heo, và thấy nguyên cả một sự tục tĩu kèm với bài thơ trên xương cụt, thấy nguyên cả hiện tình văn nghệ tồi tàn của gia đình lão. Những đêm khuya, nhìn tấm vách lá, tôi lại nhớ tới tiếng hát của Út Lệ. Tôi tin rằng trong một thôn xóm nghèo nàn nào đó, dù đang đói rách, người nghệ sĩ ấy cũng đang được tự do hát những bài hát mà mình ưa thích.

Rốt cuộc Út Lệ đã thắng. Chị thắng nhờ biết sống đúng với phương châm:

“Ví dầu, ví dẫu, ví dâu
Ví dâu, ví dẫu, ví dâu, ví dầu”

(trích tạp chí Giữ Thơm Quê Mẹ, số 4 tháng 10/1965)

Nguồn: Trang sách và những giấc mơ bay, Thư Ấn Quán, HK, 2012

Comments are closed.