Tác giả Đinh Đức Hoàng và ‘Trọc phú kiến thức’

Thái Hạo

Tháng 9, trong lễ khai giảng của đại học danh tiếng Fulbright Việt Nam, tác giả Đinh Đức Hoàng đã có một bài phát biểu “gây chú ý”. Trên tinh thần của người quan tâm đến giáo dục, xét thấy bài viết còn có nhiều điểm cần trao đổi một cách thẳng thắn để cùng làm rõ một số ý tưởng, tôi chia sẻ ở đây suy nghĩ của cá nhân mình.

Bài của tác giả Đinh Đức Hoàng có rất nhiều cái sai về kiến thức mà tôi không muốn liệt kê ra ở đây, vì sẽ dài và làm loãng trọng tâm. Nhận định đầu tiên của tôi là bài ấy lợi ít, hại nhiều. Tại sao nói thế? Vì không thể phủ nhận rằng tác giả đã nói đúng một phần thực tế: lối học “copy and paste” hay “trọc phú kiến thức” theo cách gọi của chính tác giả, tức là sự sao chép một cách máy móc mà ít tư duy, ít khám phá tự thân. Phơi bày thực trạng ấy là cần thiết, hữu ích, và rất nên làm. Nhưng ngay cả ở chỗ này, tôi nghĩ tiếng Việt đã có một từ diễn đạt rất trúng mà ai nghe cũng hiểu ngay và hiểu đúng: học vẹt. Tiếc thay, tác giả đã không dùng nó mà lại sa vào một lối nói có vẻ hàn lâm nhưng nhiều mâu thuẫn, thậm chí có những nhầm lẫn, và dễ gây hiểu lầm (nếu đó không phải là ý đồ thực sự của tác giả).

Tuy thế, ngay cả trong việc nói về tình trạng học vẹt kiểu ấy thì tác giả lại cũng đã đi quá xa khi gần như muốn phủ nhận luôn cả sự học – sự học theo nghĩa đọc, xem, nghe những tri thức vô giá mà nhân loại đã tích lũy được qua hàng thiên niên kỷ đầy gian lao nhọc nhằn, và cả hiểm nguy nữa. Đề cao đến mức gần như tuyệt đối cái mà tác giả gọi là “tri thức tự thân” hay “tri thức nguyên bản” nhưng lại xem nhẹ và coi thường sự tiếp thu tri thức từ người khác để lại và trao truyền là vừa phiến diện, vừa mâu thuẫn.

Hình như vì quá say sưa nói mà Đinh Đức Hoàng quên mất thực tế Việt Nam. Cái đáng lo của sinh viên và người học nói chung là họ đọc quá ít chứ không phải là đã đọc quá nhiều; là họ không chịu cập nhật chứ không phải là vì họ quá nhạy bén. Tác giả cũng quên mất rằng mỗi năm, một người Việt đọc chưa đến 1 cuốn sách (tính cả sách giáo khoa và giáo trình). Cái cần lo lắng, thúc đẩy và cổ xúy bây giờ là “văn hóa đọc” – làm sao để người Việt đọc sách nhiều hơn, xem phim tài liệu nhiều hơn, nghe giảng nhiều hơn, chứ không phải là coi thường những thứ ấy.

Có lẽ cũng vì quá say sưa nói mà tác giả Đinh Đức Hoàng quên mất rằng tri thức chỉ hữu ích và có giá trị khi nó được sinh thành trên một cái nền vững chắc. Làm đề tài khoa học, đầu tiên bao giờ cũng có phần “lịch sử vấn đề”. Vì sao thế? Vì việc phải đọc và biết những tri thức về đề tài mình đang nghiên cứu là một yêu cầu bắt buộc. Cái phát minh, khám phá, phát hiện của anh chỉ có ý nghĩa khi nó được đảm bảo rằng anh đã thấu hiểu hết những gì đã có và bây giờ là góp thêm vào đó một chút của riêng mình, hay là lật nhào cái cũ ấy đi. Nếu không làm công việc bắt buộc này (duyệt lại toàn bộ lịch sử vấn đề) thì người học rất dễ rơi vào thói vĩ cuồng, là cái mà học giả Cao Xuân Hạo gọi một cách mỉa mai là “một phút lóe sáng của thiên tài”.

Đinh Đức Hoàng có mấy lần nhắc Phật và kinh Phật, nhưng tạm bỏ qua câu mà tác giả hiểu lầm ý Phật (“Tâm tư thế giới, này các Tỷ-kheo, không thể nghĩ đến được, nếu nghĩ đến thời có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ”), ở đây chỉ nói về đại cục. Đinh Đức Hoàng khi đề cao đến mức tuyệt đối cái gọi là “tri thức tự thân”, “tri thức nguyên bản” thì lại quên mất mấy chữ rất căn bản trong kinh Phật, là Văn – Tư – Tu. Sự học, theo Phật, đầu tiên là phải nhìn, nghe, đọc, quan sát, thu nhận thông tin (văn); rồi suy nghĩ, tư duy về những thông tin ấy như phân tích, hệ thống, khái quát, phản biện… (tư); cuối cùng là thực hành, tức là tri hành hợp nhất, là vận dụng và áp dụng vào thực tiễn. Không có thứ hiểu biết nào được sinh ra từ hư không cả, sự học phải khởi đầu bằng việc “nghe” (văn); cũng không có thứ tư duy nào có thể vận hành trên một cái nền trắng tinh cả. Tóm lại, đối với sự học, việc thâu góp tri thức của nhân loại là vô cùng hệ trọng, nếu không nói là bắt buộc.

Hồi đầu thế kỷ, trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, Phan Châu Trinh khi đề xướng tư tưởng bất như học (chi bằng học) đã đồng thời nỗ lực truyền bá tân thư – tân văn vào nước ta, cũng vì lẽ ấy. Người dân phải nghe (diễn thuyết), phải đọc sách vở tiến bộ trước đã. Những cố gắng mà các nhà xuất bản như nhà Tri Thức đang làm cũng chính là cùng một tinh thần như thế.

Tác giả Đinh Đức Hoàng tuy không phủ nhận sạch trơn sự đọc và sự học hỏi nhưng đã giáng nó xuống một mức độ gần như bị xem thường và khinh bỉ. Đó là một sai lầm tai hại, và càng tai hại hơn trong bối cảnh mà sự đọc ở Việt Nam đã xuống đến mức báo động.

Sự học, nguy hiểm không phải là ở đọc nhiều, mà là tự huyễn. Phải đọc để biết trời cao đất dày, phải đọc để biết mình đang ở đâu và phải đọc để biết sợ. Biết sợ mà vươn lên chứ không còn tự ru ngủ mình trong cái giếng ảo tưởng nữa. Tiếc thay, chỉ vì để nói về tình trạng “học vẹt” vốn rất giản dị và dễ hiểu mà tác giả Đinh Đức Hoàng đã đi xa tới nỗi gây ra trong người nghe một thứ cơ chế và tâm thế rất dễ lầm lạc, thậm chí có thể chặn đứng con đường học vấn của họ và ru họ trong sự ngụy tín không có lối ra.

Đến đây, xin nói thêm về quan điểm của tác giả Đinh Đức Hoàng đối với việc đọc (hiểu rộng ra là việc học). Trong bài, đoạn văn sau đây được tác giả cũng như những người ủng hộ quan điển của anh dùng một cách chủ đạo để phản biện/biện minh cho bài nói ở Fulbright: “Thế làm thế nào để có được tri thức nguyên bản? Bạn vẫn phải đọc. Đọc rất nhiều. Bạn vẫn ghi nhớ. Nhưng không phải để phun ra, để sống như một trọc phú, khoe mẽ với đám trí nhớ đó. Bạn cứ nhớ trong đầu thôi, và cuộc sống sẽ cho bạn thêm các mảnh ghép để tri thức tự hình thành. Bạn không cho phép mình nói ra một thứ gì, ứng dụng một kiến thức gì, nếu chưa tự tin rằng đó là điều bạn tự nhận ra”.

Tạm bỏ qua sự mất cân đối theo kiểu “vớt vát” của một ý phụ trong một bài chê bai đến điều đối với việc học và đọc, ở đây tôi chỉ nói về bản thân nhận định này của tác giả Đinh Đức Hoàng, như một luận điểm độc lập và bình đẳng.

Hai lần chữ nhớ/ghi nhớ được tác giả lặp lại như một nguyên tắc đọc (sách) đúng đắn và phải thực hiện. Cứ đọc và ghi nhớ nhưng đừng “phun ra”, “bạn cứ nhớ trong đầu thôi”. Thú thật, tôi không hình dung nổi lại có một “lời dạy” về cách đọc sách kỳ quặc như thế. Đọc sách không phải để ghi nhớ, đúng ra là không nhớ nổi nếu anh không hiểu nó đang nói gì. Nhớ vài câu thì được, chứ làm sao có thể nhớ hằng bao nhiêu cuốn sách đã đọc suốt hàng chục năm trong cuộc đời khi mà mình không hiểu? Đó là một cái USB chứ không phải cái đầu.

Đọc sách tức là đối thoại, đối thoại ngay lúc đang đọc, từng chữ, từng câu. Đọc như thế thì mới đúng nghĩa của từ Đọc. Người ta phải cố tìm để hiểu điều tác giả nói, phản biện nó ngay lúc đang lướt trên con chữ, đồng tình hay không đồng tình cũng ngay lúc đó. Chỉ có như thế cuốn sách mới đi vào trong mình và ở lại ở đó, dù mình có đồng ý với nó hay không. Và chỉ như thế thì cũng mới có sự thay đổi quan điểm ở một ngày mai nào đó khi mình đã trải nghiệm nhiều hơn.

Đọc sách là để góp phần nhận ra, chứ không phải để ghi nhớ, cất giữ và đợi đến khi nhận ra. Nếu nói như tác giả Đinh Đức Hoàng thì rốt cuộc cái sự nhận ra ấy có can hệ gì với việc đọc sách đâu?

Tác giả dạy rằng, đọc nhưng không được phép “phun ra”, “không cho phép mình nói ra một thứ gì”! “Chân lý sinh ra từ đối thoại”, tôi không hình dung nổi một quan niệm rằng cứ giữ lấy mớ kiến thức trong đầu và đừng nói gì cả cho đến khi nó tự biến thành “tri thức nguyên bản”. Sự cọ xát, va chạm của các ý kiến sẽ làm phát sinh chân lý, làm thay đổi nhận thức con người và từ đó kiến tạo xã hội. Phương Tây đề xướng và bảo vệ tự do ngôn luận cũng vì lẽ này, nay thì tác giả Đinh Đức Hoàng dạy sinh viên rằng đừng nói gì cả!

Từ việc dặn rằng đọc chỉ ghi nhớ để đó (tức không có đối thoại với sách) đến lời dạy đừng nói với ai cả là hai bước mà tôi không không thể biết được rốt cuộc thì cái mà tác giả gọi là “tri thức tự thân”, tri thức nguyên bản” sẽ được sinh ra bằng cách nào.

Trên đây là chưa nói tới những “bất cập” của “tự học”, tự đào tạo. Giáo dục đại học, hơn ở đâu hết, cần một sự chuyên nghiệp bằng giáo trình, bằng sự hướng dẫn và đào luyện nghiêm cẩn. Những người tự học bao giờ cũng đáng quý, nhưng trên phương diện rộng, điều đó không thể thay cho một chương trình đào tạo chặt chẽ, nghiêm túc có các mục tiêu cụ thể và nghiêm ngặt.

Phê phán những sai lầm và hư hỏng của nền giáo dục là điều mà bản thân tôi và nhiều người khác vẫn thường xuyên làm, và đôi khi là làm một cách cực đoan. Nhưng dù là phê phán ở mức độ nào thì điều ấy cũng không thể đồng nghĩa với việc được phép dẫn đến làm méo mó các nguyên tắc tự nhiên và phổ quát của sự học, mà nói rộng ra là quy luật phát triển của nhận thức con người.

Quan điểm của tác giả Đinh Đức Hoàng có nguy cơ gây ra sự rẻ rúng đối với sách vở, sự khinh thị đối với người thầy, và hiểu một cách rộng lớn hơn, là coi thường giáo dục. Chính sự phiến diện trong nhìn nhận vấn đề, sự thiếu cân nhắc trong trình bày và thái độ quá tự tin về những suy nghĩ chủ quan đã dường như mang đến một ý niệm lệch lạc, và từ đó có thể gián tiếp gây hại cho nền học vấn vốn đang rất cần chấn hưng ở Việt Nam.

T.H

Comments are closed.