Nhân đọc “Hoa đăng” của Vũ Hoàng Chương (Miền Nam)

Chế Lan Viên

“BẤT CÔNG VÀ ĐỘC ÁC” NÀY KHÔNG CỦA RIÊNG AI

Trên trang Fb Huỳnh Duy Lộc 12-2-2023, tôi đọc được đoạn tin sau:

Nhà phê bình Đặng Tiến đã viết trong bài “Hoài niệm Vũ Hoàng Chương”:

Ngày 6 tháng 9 dương lịch là ngày giỗ Vũ Hoàng Chương, mất tại TP.HCM năm 1976, sau mấy tháng bị chính quyền bắt giam vào khám Chí Hoà. Anh bị trọng bệnh, đưa về nhà một thời gian ngắn thì qua đời vì ho suyễn.

Vũ Hoàng Chương là nhà thơ lớn của đất nước, bắt đầu từ phong trào Thơ Mới, với các tập “Thơ Say” (1940), “Mây” (1943), qua những truân chuyên của dân tộc với “Thơ Lửa” (1948), “Hoa Đăng” (1959), “Lửa Từ Bi” (1963), và những biến chuyển trong thi ca hiện đại.

Vũ Hoàng Chương là một tác giả lớn lao và quan trọng trong lịch sử văn học nước nhà, chiếm một địa vị riêng biệt trong các trào lưu thi ca.

Giữa những trầm luân của đất nước, tác phẩm của anh chưa được tìm hiểu toàn bộ và đánh giá đúng mức, ở miền Bắc cũng như miền Nam, trước năm 1975, và trong nước cũng như ngoài nước những năm gần đây.

Trong nước, từ chính sách Đổi mới (1986) đã có lối nhìn thoáng rộng hơn đối với phong trào Thơ Mới 1932-1945 và Vũ Hoàng Chương, ở một chừng mực giới hạn, cũng được đọc lại một cách công bình hơn…

Nhưng nói chung những thành kiến còn đè nặng trên sự nghiệp văn học của Vũ Hoàng Chương, có thể từ bài viết của Chế Lan Viên (tháng 4.1960) phê phán tập thơ “Hoa Đăng”, bất công và độc ác.

Có thể nói, bài này, ở chừng mực nào đó đã đưa đến thảm kịch Vũ Hoàng Chương năm 1976.

Bài của Xuân Diệu ân cần với Vũ Hoàng Chương, trong mục Tiếng Thơ trên báo Văn Nghệ số 6/1948 không thấy in lại trong sách (NXB Văn Nghệ, 1954).

Thỉnh thoảng lắm mới có người nhắc đến tình cũ nghĩa xưa như Tô Hoài trong “Tự truyện”, hay mới đây trong “Chiều chiều”.

Còn lại là những phê phán gay gắt, kể cả Lê Đình Kỵ, là người tương đối cởi mở với thơ tiền chiến, cũng đánh giá Vũ Hoàng Chương là “bi quan, bế tắc, buông thả, tự hủy, trụy lạc”.

Chỉ ghi nhận những lời mới đây (2.1989) của Hà Minh Đức, đương kim Viện trưởng Viện Văn học, xem Vũ Hoàng Chương là “cây bút có tài năng nhưng nằm trong dòng nước đục ( .. .) chẳng có gì để nói thêm về những câu thơ như một con thuyền bập bềnh trôi trên dòng nước đục “.

Dù sao, thời gian cũng sẽ gạn đục khơi trong.

“Biết ai là đục biết ai trong…”

Sau đây là bài viết “bất công và độc ác” nói trên – dẫn theo Chế Lan Viên Tác phẩm Văn học được giải thưởng Hồ Chí Minh quyển II. Chúng tôi đưa lại vì nghĩ rằng hồi ấy nhiều người chúng ta – tôi muốn nói các nhà văn Việt Nam sống ở miền Bắc những năm chiến tranh – ít nhiều đều đã có lúc nghĩ và viết những điều tương tự như những điều tác giả viết ở đây. Chế Lan Viên không đơn độc trong cơn say sưa phê phán của mình. Chỉ vì ông tài quá và biết nhiều quá nên sự “bất công và độc ác” ở ông càng gây ấn tượng mà thôi. Một số nhà văn hôm nay quay ra viết ngược lại những điều họ đã phê phán hôm qua, nhưng nếu nhìn lại những điều Chế Lan Viên đã viết họ sẽ thấy hình ảnh của chính mình trong quá khứ, nó vẫn còn đeo đẳng mãi trong họ tới tận bây giờ. Nên chi hôm nay đọc lại những điều Chế Lan Viên viết 60 năm trước vẫn là có ích lắm lắm.

Nguồn: FB Vương Trí Nhàn

NHÂN ĐỌC “HOA ĐĂNG”

CỦA VŨ HOÀNG CHƯƠNG (MIỀN NAM)

– bài của Chế Lan Viên 60 năm trước

 

 

Một tờ báo miền Nam gần đây viết:

“Về thơ, ngoại trừ Hoa đăng của Vũ Hoàng Chương đáng đánh dấu một sự chuyển hướng về sáng tác và của Đoàn Thêm, một loại tiểu thuyết bằng thơ có tính cách một công trình dài hơi đề cập đến vấn đề nhân sinh xã hội, thì không còn thi phẩm nào có sự cố gắng đáng ta lưu ý”.

Vì lẽ đó, tôi đã tìm đọc Vũ Hoàng Chương và Đoàn Thêm.

Đoàn Thêm, thôi ta không bàn đến. Chẳng phải cái anh đổng lý văn phòng của Ngô Đình Diệm ấy đã bàn những chuyện chính trị phản động gì gì ở đây. Anh ta cũng khôn khéo lắm mà. Vào làm văn, anh ta cũng quên đi những giấy tờ vấy máu của tổng Ngô để nói đến những chuyện thoát tục, nghìn đời, tập thơ anh tên là Từ Thức. Cái lẽ giản dị để ta không bàn đến vì anh ấy là một kẻ bất tài. Cái tài duy nhất có lẽ là sắp lại, nhai lại những ý, những lời đã mười lần sáo cũ.

Tôi muốn nói đến Vũ Hoàng Chương với tập Hoa đăng. Tôi vốn không yêu nhiều – nhưng vẫn là yêu – cái tài không lớn lắm nhưng vẫn là tài của nhà thi sĩ họ Vũ. Nước nhà đã độc lập, giải phóng trên một nửa, miền Bắc đang tiến vào cuộc sống xã hội chủ nghĩa huy hoàng, cuộc đời của dân tộc và của từng người đã có tự do, hạnh phúc. Nhưng (hoặc chính vì lẽ ấy) mỗi khi quay nhìn dĩ vãng, tôi vẫn thương cho những con người kiểu Vũ Hoàng Chương:

…Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ

…Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa…

…Ngoài ba mươi tuổi duyên còn hết

Một ván cờ thua ngả bóng chiều…

Cũng có một lúc, tôi đã từng quý nhà thơ ấy. Tôi biết anh theo kháng chiến với cả bàn đèn, dọc tẩu và những tâm tình hỗn độn của mình, nhưng nghĩ mà xem, ngày hôm qua, nhà thơ kia chỉ có những giấc mơ rất xoàng:

Mải mê theo sự nghiệp

Quá trớn lỡ giàu sang…

Thế mà ngày hôm nay anh đã mang vào mình cái ước vọng của một dân tộc:

Ba kỳ hỡi hỡi! Người dân Việt

Mau võ trang cùng tiến bước lên

Cùng tiến bước mau! Thề một chết

Đòi hoa Hà Nội sóng Long Biên.

(Nhớ về Hà Nội vàng son)

Làm sao lại không yêu mến một sự thay đổi bước đầu như vậy được?

Đá thử vàng, gian nan thử sức. Anh đã bỏ kháng chiến gian nan nhất, đang cần sức lực, tài năng của từng người một. Nhưng tôi vẫn thương anh như thương những người đàn bà yếu đuối chạy Tây không nổi, phải bế con hồi cư – mặc dầu cái ví von ấy thật là mỉa mai đối với anh là người đã hô:

…Bút cũng như gươm thề chẳng thẹn

Với lời hô cách mạng thành công…

(Nhớ về Hà Nội vàng son)

Âu đó cũng là lời hô trên mặt giấy, trong một lúc.

Thực ra, đó cũng là lúc đẹp nhất của đời anh, và trang giấy kia là trang giấy sạch sẽ nhất. Thỉnh thoảng ra chơi các cửa ô Hà Nội, tôi vẫn nhớ mấy câu thơ anh ấy viết:

Chói lọi sao vàng hoa vĩ đại

Năm cánh xòe trên năm cửa ô.

(Nhớ về Hà Nội vàng son)

Và thật là bao dung thay tấm lòng của chúng ta, tấm lòng những người mang cái tình và cái chính sách nhân hậu của Đảng. Vũ Hoàng Chương bỏ chúng ta mà đi. Nhưng chúng ta không nỡ bỏ Vũ Hoàng Chương.

Tôi nghĩ họ Vũ đang đau khổ, hối hận cho bước đường lầm lỡ của mình ở Sài Gòn. Tôi nghĩ anh Vũ nhớ mãi năm cửa ô trong cuộc đời, năm cửa ô trong thơ anh, năm cánh hoa trong hồn dân tộc.

Cũng vì vậy mà tôi vội vàng đọc Hoa đăng.

Một tập thơ kém, hay là xoàng, cũng được. Nhưng thôi, chuyện kỹ thuật trái mùa, cổ lỗ của anh, ta sẽ nói sau. Thực ra, báo chí miền Nam cũng có người không phải là khen Hoa đăng như câu ở đầu bài tôi trích. Nguyễn Văn Xuân viết ở Bách khoa:

“Cái điều khiến ông thất bại trong mặt tâm tình, chính vì ông không quá thiết tha với những mối tình mà ông diễn tả. Nói cách khác, hình như ông không còn những tình cảm, cảm giác, mà ông chỉ còn những ảo tưởng thuộc về nó mà thôi… Về mặt hình thức, người ta càng thấy rõ việc này. Ông chỉ dùng đa số từ ngữ, hình ảnh cũ, điệu quen thuộc, ước lệ diễn đạt tâm tình”.

Hoặc ở một đoạn khác:

“Ở đây nội dung đã không mới, mà câu thơ cũng không được mười lần gọt rũa như thói quen Vũ quân – hay trái lại, dầu có mười lần gọt giũa cũng chỉ để cốt thu lượm những danh từ cho lạ, cho kêu, những hình ảnh đã thành ước lệ, những cú pháp cho êm tai, hơn là những tình cảm đặc sắc, rung động, ý tứ tân kỳ”.

Tôi trở về cái vấn đề “nội dung mới”.

Tập thơ làm xấu hổ cho Vũ Hoàng Chương nhiều điều, làm đau xót cho chúng ta nhiều chỗ, nhưng theo tôi, cái điều Vũ Hoàng Chương đáng hổ thẹn nhất, và chúng ta đau xót căm giận nhất là bốn câu này:

Có nghĩa gì đâu một chữ “Về”

Nếu không ngàn dặm ngược sơn khê

Nếu không ngược cả mười năm ấy

Về tận kinh đô của nước thề.

(Nửa đêm trừ tịch)

Chữ “Về” tác giả tự gạch đít, cái việc “về thành”, cái việc dinh tê về Hà Nội lúc ấy có đội quân chiếm đóng của Pháp đang làm hoen máu trên năm cửa ô, mà tác giả gọi là về “kinh đô của nước thề”, là chẳng có nghĩa gì cả, thế thì trong tâm hồn nhà thơ này không còn ranh giới giữa cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái có nghĩa và cái không có nghĩa.

Người mẹ chạy Tây không nổi bế con về Hà Nội là để nuôi con, nhưng thi sĩ họ Vũ về là với một nội dung không mới mẻ gì cho lắm đối với cuộc đời trụy lạc của anh ngày trước:

Mấy phen biếc đón, hồng đưa

Dẫu rằng xong, vẫn là chưa thỏa nguyền…

(Nửa đêm trừ tịch)

Vũ Hoàng Chương “về” thành chỉ vì biếc đón, hồng đưa! Thì Vũ Hoàng Chương đi Nam, âu cũng chỉ vì hồng đưa, biếc đón! Thực ra không phải chỉ có thay đổi địa dư. Mà so với tâm hồn anh hồi kháng chiến, so với cả tâm hồn anh trước Cách mạng, thì lần này anh thay đổi cả tâm hồn. Qua thơ anh, thấy không còn chỉ là biếc đón, hồng đưa, mà đã “ma dẫn lối, quỷ đưa đường”, bàn tay chính trị phản động của quỷ Diệm đã bắt đầu đưa anh đến gần miệng vực!

Vũ Hoàng Chương vẫn vờ làm ra người cao đạo:

Mặc cho những kẻ mài gươm sắc

Ta chỉ mài riêng ngọn bút này

Không biết biết gì đến những việc ở miền Nam hiện nay, không biết đến thuốc độc Phú Lợi, máy chém Mỹ lưu động từ Tây Ninh cho đến Cà Mau, không biết đến những trận càn, những luật 10 – 59…

Anh chỉ biết có Đạo:

Đời hiểu gì chăng hề chữ Đạo…

Chỉ biết có Thơ:

Ngôi Thơ một sớm cao vòi vọi

Nhân loại chầu quanh ngát khói hương…

Chỉ biết có vợ anh:

Ngọc nhã thành Chương, Oanh ríu rít.

Chỉ biết có con anh:

Hoa hẹn mùa trăng đã đến tuần

Ước mơ đã hiện Vũ Hoàng Tuân

Đây trời ánh sáng, hương đầy đất

Lòng kết vàng son, hội mở xuân.

Chỉ biết có người yêu của anh:

Khóe thu còn biếc trăng tâm sự…

Khanh của Hoàng ơi, mộng vẫn còn!

Chỉ còn biết có khoái lạc, vật dục:

Kề vai căn vặn nỗi niềm

Mà người yêu có tơ niềm tuyết nhung

Em rằng: một đóa phù dung

Mấy tang thương vẫn ngại ngùng gió mưa…

Nghĩa là không biết chính trị gì gì cả.

Nếu thật mà như thế? Nếu thật ở giữa miền Nam nước sôi lửa bỏng ngày nay mà có những người thành tâm chỉ biết đến Thơ, thành tâm chỉ biết đến Đạo, chí thú lo cho vợ con mình, hoặc tệ nữa, không dám đấu tranh, chỉ biết vùi đầu trong nhớ thương, quên mình trong khoái lạc đi nữa, thì ta cũng thương họ, trách họ mà thôi, chứ không giận họ.

Trong khi chưa đòi được tất cả mọi người cái tối đa – là đứng lên đấu tranh với bọn cướp nước Mỹ – Diệm – thôi thì ta tạm bằng lòng với cái tối thiểu của họ, là họ hãy lo cái thú vui riêng dù trong dù đục đó của họ, mà đừng đi với bọn khát máu, mà đừng làm hại đến sự việc của toàn dân.

Thực ra cuộc đời không đơn giản, cắt ra từng việc, chia ra từng ô như thế được. Cái nọ xọ cái kia, cái dây đã dắt con bò, Vũ Hoàng Chương sa đọa về sinh hoạt không xa mấy với Vũ Hoàng Chương sa đọa về chính trị.

Vũ Hoàng Chương sa đọa ư? Phải chăng trong tập này, Vũ Hoàng Chương đã “vươn” mình dậy, nhà thơ ủy mị bên cái dây tơ đã mắc thêm một dây đàn thép, giọng trữ tình đã thêm giọng anh hùng ca. Vũ Hoàng Chương đã nói đến Phạm Hồng Thái, Trần Hưng Đạo, đã nói đến Bắc Bình Vương…

Chúng ta sẽ không hổ với người mà một trận Đống Đa nghìn thu oanh liệt

Vì ta sau trước lòng kiên quyết

Vàng chẳng hề phai, đá chẳng sờn…

Thưa các bạn, biết làm sao được, khi nhiều việc bắt lòng tôi phải đa nghi. Lần đầu tiên trở về Hà Nội bị chiếm bởi giặc Pháp, tôi thấy nhiều con đường, Tây vẫn để là đường Nguyễn Thái Học. Và những chiến dịch tàn sát những người kháng chiến cũ của Mỹ – Diệm lại lấy tên những anh hùng dân tộc: Nguyễn Trãi…, những nhà ái quốc: Phan Chu Trinh…

Đối với một nhà thơ, biết yêu từ một ngọn cỏ, một con chim, yêu cái tiếng Việt mẹ đẻ này, cố nhiên là tôi tin anh Vũ Hoàng Chương cũng có một lòng yêu nước chứ.

Cho nên tôi vẫn muốn tin ở lòng ngay thật của anhkhi anh ca tụng cái hồn thiêng đất nước. Nhưng đi với ma thì mặc áo giấy. Và cái áo giấy của ma lâu ngày thành cái áo thật của anh cũng nên.

Trả ta sông núi là bài thơ anh viết về “nhân ngày kỷ niệm liệt sĩ”. Anh nói về Hai Bà Trưng, về Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Và anh nói cả đến ngày nay: Phan Đình Phùng, Nguyễn Thái Học… Bài thơ gần như một bản tổng kết về lịch sử đấu tranh và cách mạng của dân ta:

Ôi Việt sử là tranh đấu sử

Trước đến sau cầm cự nào ngơi

Tinh thần cách mạng sáng ngời

Bao người ngã, lại bao người đứng lên…

Thế nhưng anh không nói đến những người mà anh vừa kêu gọi họ đứng dậy:

Ba kỳ hỡi hỡi người dân Việt

Mau võ trang cùng tiến bước lên…

(Nhớ về Hà Nội vàng son)

Bao người đã ngã xuống vì:

Cùng tiến bước mau! Thề một chết

Đòi hoa Hà Nội sóng Long Biên

(Nhớ về Hà Nội vàng son)

Anh không dám nói đến cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, cuộc kháng chiến còn nóng hổi hơi máu, hơi người! Kháng chiến, hai chữ ấy thiêng liêng, thần thánh bao nhiêu! Ngô Đình Diệm muốn bôi xóa nó đi trong lịch sử, không được, lại quay ra muốn nhờ hơi nó. Tôi hiểu ra rồi: Vũ Hoàng Chương viết bài thơ này giữa lúc Ngô Đình Diệm còn đang chửi bới kháng chiến. Giá mà bài thơ được viết ra lúc tổng Ngô đang lợi dụng hai danh từ kháng chiến thì chắc Vũ Hoàng Chương lại không quên cái thời kỳ lịch sử lớn lao, nhờ nó mà anh đã viết được những trang trong sạch nhất trong đời cầm bút của anh.

Đối với kháng chiến, anh từng ca tụng, giờ anh bội bạc, mà đối với Hà Nội, anh từng nhớ mong lúc kháng chiến, thì anh lại còn tệ hại hơn, anh vu cáo nó.

Liễu của Hà Nội do Tây chặt đi, giờ quanh các hồ ta đang bắt đầu trồng liễu. Nhưng anh vu cáo đó là tội ác của chúng ta:

Trông vùi hỏa ngục giờ đây

Hàng mi liễu đôi bờ lửa sém.

Hồ Kiếm đông đến nỗi từ tên Hoàn Kiếm, có người gọi đùa là “Hồ tìm kiếm”, hồ Tây là nơi rộn rịp mấy công trường, anh vẫn nói bằng cái giọng lưỡi của địch:

Nhưng năm cửa sao mà vắng ngắt:

Mà rưng rưng hồ Kiếm, hồ Tây…

Tôi không muốn đem thực tế của Hà Nội ta đối chọi với những lời vu cáo trong thơ anh. Thực ra, anh đã tự thú nhận cái lối nhìn Hà Nội của anh là cái lối không phải mắt thấy, tai nghe, nghe cả hai tai, thấy bằng hai mắt, cái lối nghiên cứu, điều tra tìm hiểu gì gì! Nó là cái lối đoán mò! Cái lối nhờ “tiềm thức ban đêm”, cái lối “linh cảm” rất là thầy bói, cái lối nằm ở trên giường chiếu của phòng ngủ mà nhắm mắt hay lim dim mở mắt nói mò:

Tiềm thức đêm đêm đời rộng mở

Ta chờ linh cảm ý quê hương.

Không gian từng kết hình trong mộng…

Và sắc thời gian ở chiếu giường.

Sông núi xa xưa về hiện bóng

Hồn say ta vượt hết biên cương…

(Tâm sự phố phường)

Đài địch nói: “Hà Nội đói khổ, loạn lạc rồi”, thế là anh lại viết:

Cố quận riêng mình xót nhiễu nhương

Đài địch gào: “Dân Hà Nội khởi loạn rồi”, thế là anh gào:

Là máu sôi thành lệ dựng đêm nay

Là xôn xao lửa bốc dựng đôi mày…

Anh đã thành cái loa của địch.

Nhưng thôi, nhà thơ thì vốn tin ở cảm giác của mình. Cái loa của địch ở gần, mà Hà Nội của ta thì ở xa, một bên anh nghe được, mà một bên anh chưa thấy được. Ta có nói với anh cũng là vô ích.

Tôi mời Hoàng Vũ Chương trở lại cuộc sống quanh anh. Đến đây thì tôi không muốn làm phiền độc giả của tôi bằng bắt họ nghe lại những chuyện họ đã đọc nghìn lần trên báo. Và tôi chỉ mời ông Chương đọc báo. Đọc báo Sài Gòn. Đọc ngay cái tờ Cách mạng quốc gia là cái tờ hàng ngày chửi chúng tôi và chỉ có một lý tưởng là ca tụng đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diệm.

Ông Chương nghĩ gì về những vụ nông dân bị dồn làng làm khu trù mật, bỏ quê hương đi dinh điền nơi nước độc rừng sâu? Nghĩ gì về công nhân các đồn điền đình công mà bị đốt sạch hết nhà ở? Nghĩ gì về những người kháng chiến cũ liên tiếp bị án tử hình? Nghĩ gì về cái máy chém đang lưu động? Nghĩ gì về việc mổ gan anh Út Lép, “một con người”? Nghĩ gì về việc giáo sư Thịnh và mấy sinh viên bị bắt vì vẽ một người mẫu? Việc học sinh các trường không có tiền may đồng phục, bị cảnh sát đến đuổi học, theo dõi điều tra? Việc những nghệ sĩ sân khấu chết không chiếc quan tài? Đến những người di cư sống bằng nghề làm pháo mà pháo bị cấm? Đến hàng nghìn người bị bắt vì đốt pháo Tết vừa qua? Việc nhà thơ Dương Tử Giang bị bắt? Việc cấm tờ báo Liên Á vừa rồi? Việc người ta giết người Việt Nam ở Biên Hòa để báo thù cho người Mỹ?…

Tôi nhớ không trật tự gì về cái xứ hỗn loạn “thế giới tự do” mà anh ca tụng. Nhưng chỉ cần anh đọc báo Sài Gòn. Đúng hơn, chỉ cần anh đọc xong và suy nghĩ. Đối chiếu với thơ anh mà suy nghĩ. Tôi chắc anh sẽ hối hận vì những câu ca tụng một cuộc “trưng cầu dân ý” mà ý dân được trưng bằng súng lục, nhà tù:

Lá phiếu trưng cầu một hiển linh

Xé tan bạo lực dưới muôn hình

Từ đây nước Việt dân làm chủ…

Anh sẽ ghê tởm những câu “làm đĩ” cho cái lưỡi và ngòi bút của mình:

Các bạn! Nào ta hãy đứng lên

Trái tim dân tộc đã xây nền

Tự do đã hiển linh thần tượng

Cánh vỗ hào quang tỏa bốn bên…

Anh sẽ xóa trong đời thơ anh những câu tương tự:

Gió nổi vần mây giục đấu tranh

Tâm tư lồng lộng kết nên thành

Thành ngăn sóng Đỏ, mây sừng sững

Nước Tổ về ngôi đẹp sử xanh…

Tôi biết có một số người không hiểu rõ miền Bắc. Có một số người không hiểu rõ chủ nghĩa cộng sản. Một bà má có con đi kháng chiến ở bưng biền, ra thăm con, hỏi nhỏ con: “Này con, con lén chỉ cho má xem vài người cộng sản xem sao?” Cô con bảo: “Con đây. Con vào Đảng ba năm rồi.” Bà mẹ không tin: con mình hiền lành vậy, “tốt” vậy sao mà cộng sản được?

Ta chỉ giận bọn giặc đầu độc, chớ ta thương, hết sức thương bà má hiểu nhầm.

Vũ Hoàng Chương, dù anh là trí thức, là thi sĩ, là người ngạo mạn về dòng thơ của mình:

Từ hôm nay nhỉ, suối hào quang

Nối mãi dòng thơ họ Vũ Hoàng…

Nhưng anh thật thua nhiều, không thể nào so sánh với bà má ấy được. Bà má ấy không biết thì bà má hỏi. Còn anh không biết thì anh lại chửi càn.

Gần đây, một hôm đi chơi bên các vườn hoa đẹp ở hồ Kiếm, hồ Tây, hồ Bảy Mẫu, tôi bỗng sực nhớ một cái ý của thi sĩ Henri Heine cách đây trên một trăm năm. Ông ta cũng là người không hiểu cộng sản. Ông nói đại khái:

“Sau này chủ nghĩa cộng sản lên, xé thơ tôi để gói lạp xường, nhổ hoa hồng để trồng bắp cải…”

Và ông tiếp:

“Ví dù như thế đi nữa thì tôi vẫn tán thành chủ nghĩa cộng sản, bởi vì không có chủ nghĩa cộng sản thì không thể đánh đổ các bọn vua quan áp bức hiện nay…”

Câu văn Heine hay và mãnh liệt hơn nhiều. Tôi ít thuộc sách nên nhớ tạm là như vậy.

Tôi mỉm cười vì chúng ta không những trồng thêm nhiều bắp cải mà với Tết trồng cây năm nay, chúng ta trồng rất nhiều hoa hồng. Lạp xường thì mậu dịch bán rẻ, gói bằng giấy bóng gói lạp xường, thơ Henri Heine thì lại được ta kỷ niệm, in ra bằng giấy đẹp.

Anh Vũ Hoàng Chương, nếu anh chê câu chuyện bà mẹ trên kia là dân giã, thì tôi biếu anh mẩu truyện này.

Tôi biết anh làm thơ trong một bầu nước đục.

Tôi biết anh làm thơ vì những lý do không phải lúc nào cũng vì Đạo, vì Thơ:

Báo chương mấy độ vẽ bùa

Chắt chiu cũng đủ tiền mua trăng rằm…

Đồng tiền quả là chỉ đủ đem mua trăng thì có thanh cao đấy, nhưng coi chừng, bàn tay đưa tiền cho anh là bàn tay vấy máu. Văn chương anh chỉ xem như một thứ vẽ bùa lấy lệ cho có tiền, nhưng bùa của anh vẽ ra, có kẻ đem dùng để trấn áp những người yếu bóng vía, dễ lòng tin.

Cho nên, tôi chỉ xin nhắc anh cẩn thận. Thơ anh đã xuống lắm rồi. Và tâm hồn anh, bầy quỷ đã dìm xuống những nơi anh không muốn. Anh không còn cái trong sạch hào hoa thời kháng chiến. Anh cũng không còn cái lỗi lầm vô tội và cũng hào hoa xưa kia. Anh đã đi vào con đường tâm lý chiến tranh, tác động tinh thần…! Anh đạp lên cái hồn thơ anh mà chúng tôi rất quý.

Những sách tốt, hay của chúng tôi làm tôi tin con đường chúng tôi đi là đúng. Nhưng những sách xấu, dở của các anh càng làm cho tôi tin con đường chúng tôi đi là đúng hơn, chưa bao giờ tôi biết ơn nhân dân tôi, Đảng tôi, bè bạn, đồng chí tôi bằng những lúc này. Cũng chính lúc này, tôi thương xót các anh hơn.

Chúng ta cùng ở một tầng lớp mà ra. Chúng ta cùng là những người ra từ một phong trào thơ mới. Chúng ta bắt đầu cùng có mặt trong cuộc Cách mạng Tháng Tám. Ngày nay hầu hết những nhà thơ cũ thời ấy đều đã sống lại, trưởng thành: Xuân Diệu, Tế Hanh, Huy Cận, Anh Thơ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Xuân Sanh, Huyền Kiêu… Ít nhiều chúng tôi đều có cái tự hào đã đóng góp gì cho thơ, cho dân tộc.

Còn anh? Và Đinh Hùng, bạn anh nữa, các anh đã làm gì? Đọc tập thơ Hoa đăng, tôi rất giận anh, mà lại thương anh! Các anh ca tụng một bọn bán nước, bán máu người, đã làm tâm hồn và thơ ca anh xuống dốc. Các anh chửi một chính Đảng, một nền tư tưởng mà rồi đây cũng sẽ hết sức cứu lấy các anh.

Hãy làm lại cuộc đời mình đi, Vũ Hoàng Chương! Nghĩa là nếu không có thiện chí như Henri Heine thì cũng cần dè dặt như bà má.

4-1960

Comments are closed.