GẶP MỘT NGƯỜI GIA RAI Ở NỮU ƯỚC

Nguyễn Đức Tùng

clip_image001

Khi về già, bạn mắc bệnh mất trí nhớ, rồi mất phương hướng, sau đó mất ngôn ngữ. Nếu bạn sống thật lâu, như một ngọn núi, các chuẩn tắc đạo lý do con người đặt ra sẽ mất sau cùng.

Và theo thứ tự như vậy. Trước cửa một tiệm cà phê gần khu vực tưởng niệm sự kiện 911, gần nền của tòa tháp đôi đổ sập, xuôi về phía hiệu sách cũ Strand ở Broadway, nơi tôi mua được một tập thơ của Gerald Stern, tôi gặp anh Siu Kpa, người Gia rai sáu mươi tuổi, và vợ anh. Anak Gia rai, con của Gia rai. Hay Giơ rai, Jarai, Jrarai, Chơ rai đều được, cả hai nói tiếng Việt, nhưng anh nói giỏi hơn. Thật ra chị là người Ba na, nghe phát âm như Bơ na, hay Bờ na, hay Bà nà, cũng là Ba na dưới núi, Ba na trên núi, Bơ Nâm, Bơ Môn. Cả hai đều mất trí nhớ nhưng theo hướng ngược chiều nhau.

Anh mất trí nhớ như một người già, tức là mất trí nhớ gần, lập tức, còn chuyện quá khứ xa nhớ rõ. Chị ngược lại, không nhớ những chi tiết quan trọng trong đời, lịch sử cá nhân, nhưng lưu giữ kiến thức gần, có khả năng học hỏi việc trước mắt, lập tức và cần cho đời sống. Đôi khi mất phương hướng và mất một phần ngôn ngữ. Anh có thể trong một lúc quên cả tên mình, quên nhiều thứ cần thiết, như địa chỉ nhà mình, tên người thân, dự định trong một giờ sắp tới, nhưng nhớ lại quá khứ xa với chi tiết chính xác, nhất là khi đó là quá khứ tập thể, của plơi, buôn làng. Nhớ những cái khố trắng kẻ sọc, cái khăn quấn đầu màu chàm, gọn, buông thả qua một bên, của đàn ông Gia rai. Nhớ trang phục phụ nữ Ba na ngày hội, kẻ hoa văn đỏ, viền trắng, lòng thòng tua trắng.

Nhớ những ngọn núi buồn rầu, xanh tía, cao vút, như cái nhìn chăm chú, càng cao lên càng xanh càng sẫm, càng buồn.

Không phải trong quán cà phê, mà trước cửa quán, họ ngồi trên thềm nhà, ở New York bạn biết rồi, thừa không gian vỉa hè cho người lang thang. Vợ chồng anh bị cướp nhà, bị lấy đất, bị xua đi trôi giạt như nhiều người Tây nguyên khác. Người Gia rai theo mẫu hệ, chồng theo vợ, nhưng anh quen một người Ba na, một chuyện hiếm gặp. Tục lệ bên dòng tộc chị hôn nhân một vợ một chồng chung thủy, nhưng trong sinh hoạt lại tự do phóng khoáng. Đôi vợ chồng trẻ ở luân phiên bên vợ bên chồng, có với nhau một đứa con, tám tháng, chết trên đường chạy trốn. Trên tay chị. Con trai hay con gái? Con trai, anh bảo. Con gái, chị bực bội cãi lại. Tôi hỏi tên cháu. Tên nó là Langanh, chị đọc là Nh’anh, thì chắc con gái rồi. Nhưng có chắc tên đó không? Sau khi sinh con đầu lòng, cặp vợ chồng ra ở riêng, làm một ngôi nhà nhỏ xinh bên suối. Siêng năng, làm giỏi, họ có đàn gà đông đúc, đàn lợn ba con, có cả một con ngựa. Lông gì? Đen tuyền. Nhưng chắc không phải thế. Màu ấy hiếm. Một con chó, phải không, màu gì, màu vàng, có đốm trắng, không chắc, đi khập khiễng. Nhà của họ bị bọn người di dân theo kinh tế mới từ các vùng nghèo khó, không mảnh đất cắm dùi, có máu anh chị dữ dằn, nhưng lại sẵn sàng tuân phục hoặc hùa theo các mệnh lệnh cấp trên hơn dân thường, phá sạch để cướp đất. Các phong tục đẹp, các thể chế cộng đồng phi chính thức, các niềm tin và ý thức tự nguyện đồng loạt bị phá vỡ. Bị đập nát đền thờ, nhà tang lễ, nhà Rông, nơi thờ phụng, họ đi biểu tình, đi từng đoàn, hàng trăm người, hàng ngàn. Họ bị nghi ngờ, giải tán, đánh đập.

Và bị săn đuổi. Từ Gia lai qua Kon tum qua Đăk lăk. Bị săn đuổi trên đèo Cheo reo, nơi phát tích của dân tộc Jrarai như những con thú dữ, có hại, cần tiêu diệt tận gốc. Chạy vào rừng. Bị bắn. Họng súng cách anh mười mét, bảy mét, có khi năm mét, khạc lửa, từ sau một gốc cây kơ nia vừa bị đốn ngã, tươi rói, chảy máu vàng. Máu cây vướng lâu trên người đông lại vàng rực như hổ phách. Một mảnh đạn xuyên suốt qua ống chân phải, nay vẫn còn đi cà nhắc. Một mảnh đạn khác ghim trong ngực trái, đi sát tim, chạm vào ngoại tâm mạc, sướt qua, như cái chết chơi đùa, rồi nằm im trong nhu mô phổi trái, thùy trên, các bác sĩ để yên chưa kịp lấy ra. Qua Campuchia năm 2001, vào được trại tị nạn, chờ ba năm, phỏng vấn, điều tra ba năm nữa, thanh lọc, năm thứ bảy, đến New York. Chị biết làm sợi từ quả bông, biết dệt vải, biết đan, thêu thùa. Anh biết chế thuốc chữa bệnh từ rễ cây, thuộc hết dược tính. Anh kể chuyện đi bắt ốc, cắt đọt chuối, đẵn cây T’nưng, tìm cây chàm, đem về làm thuốc nhuộm. Mỗi khi nhớ con, chị nằm nghiêng, co chân, gối đầu lên đùi anh, ôm cái bọc vải như ôm một đứa trẻ con, anh hát cho chị nghe trường ca Xinh nhã, hát thuộc lòng, chị nhắm chặt mắt, không cho ánh sáng lọt vào, khóc.

Hãy tưởng tượng một người lớn lên giữa rừng núi Tây nguyên, giữa plơi, sáng mang gùi lên nương, mang con rựa chặt cây, chiều xuống rẫy, chọc lỗ gieo hạt, đêm uống rưọu quanh bếp lửa, sống trong huyền ảo bia ký Chăm pa, trong hoang dã đất rừng, bỗng một hôm thấy mình trên đường phố lập loè chớp tắt xanh đỏ tím vàng phơi ngực phơi rốn phơi mông ở New York. Không trở về được, mà cũng không muốn trở về, nhưng không quen hoàn cảnh mới. Con người phải sở hữu điều gì để sống nhưng Siu Kpa không sở hữu điều gì. Không sở hữu điều gì, cái gì, từ rất lâu, khi người miền xuôi tràn vào buôn làng, tước đi vật sở hữu của anh, là mái nhà, sở hữu của làng, là rừng núi, sở hữu của vợ, là đứa con trên tay. Anh làm việc lặt vặt quanh các phố và ngõ hẻm. Có một căn phòng được chính phủ tiểu bang cấp phát cho người tị nạn để ở, nhưng anh và vợ anh, chị Dep, không mấy khi sống ở đó, gặp gì làm nấy, gặp gì ăn nấy, không ra người có nhà cũng không ra người không có nhà, cả hai khoảng sáu mươi tuổi nhưng còn mạnh khoẻ. Dep là tiếng Gia rai anh đặt cho chị ở trại tị nạn, vì cả hai đã quên mất tên chị, một cái tên Ba na đẹp, không có họ. Có một lần bối rối, tuyệt vọng, mất trí, anh lao vào gầm một chiếc xe tải nhưng được cứu sống, từ đó lúc nào chị cũng đi bên anh, bám sát, họ nói với nhau bằng thứ tiếng Ba na hay Bơ na đã gần tuyệt tích không ai hiểu được.

Không ai cần hiểu. Sau những đợt phỏng vấn liên tục ở trại tị nạn gần biên giới Campuchia – Thái Lan bởi các phái đoàn nhân đạo, sau khi đặt chân đến đất tự do, không ai có nhu cầu hỏi họ điều gì nữa. Ký ức của chị về buôn làng, về nhà Rông của người Ba na cao đẹp, thanh thoát, về cao nguyên, về lễ hội, chiêng trống, đàn t’rưng, ký ức của anh về cây kơ nia cao vút tán lá rộng xòe với những chùm hoa trắng khi mưa xuân lác đác bay về, về bóng núi âm u đại ngàn rủ xuống tâm hồn họ, lạnh tăm, trở thành ký ức tối đen, và ký ức trở thành không cần thiết, và thời gian trở thành ký- ức- không- cần- thiết.

Cái gì không cần thiết sẽ chết.

Trước hết nó trở nên mờ dần, loãng ra, tối tăm hơn, mờ hơn, mịt mù. Như thị giác bị đánh mất. Ý thức khô quắt đi, co rút lại, sáng lên một lúc, rồi tối sầm, thu gọn về. Cho đến khi có người ngồi xuống hỏi chuyện, hình như nhờ đó đã hé ra trong anh chút kỷ niệm còn lại, và ngược lại, khai mở bầu trời bao la của Gia rai, của lịch sử hùng vĩ và bi đát, của những tàn phá và những tội ác của người Kinh đối với các dân tộc cao nguyên.

Nhưng chị nhớ nhất là chú ngựa và con chó, có lẽ vì chúng chạy nhanh nhất, thoát chết. Đôi khi chị gặp con chó của chị loay hoay bới rác ở cuối đường Fith Avenue, chị bắc tay làm loa kêu lớn, nó cong đuôi chạy mất. Một hôm lại có người quen chỉ cho chị con ngựa, gặm cỏ trên cánh đồng bên kia sông Hudson, dưới ráng chiều đỏ rực. Loáng cái, nó cũng biến mất, thỉnh thoảng lại hiện ra. Những con vật cứ trở đi trở lại, phân vân do dự, không biết có nên hài lòng chưa với vùng đất mới.

Nắng của ngày sắp tàn sau lưng tòa cao ốc xua nỗi ám ảnh đi xa dần, làm nó, nỗi ám ảnh ấy, trở nên mát dịu, hắt cái bóng của mình lên tường như bóng một cổ thụ hàng trăm tuổi cao lớn. Đi ngang thư thả dưới cái bóng ấy, sau khoảng sân rộng, một con hạc trắng từ lâu không ai để ý. Có thể ngày trước nó từng đậu xuống trên đỉnh tòa tháp đôi chọc trời sau đó bị đánh sập. Người Việt không cần than khóc cho người Mỹ, vì núi rừng Tây nguyên chính là tòa tháp đôi của lịch sử chúng ta. Nó bước đi trên những tảng đá, dọc theo vũng nước nhỏ, cẩn trọng, chăm chú, nhàn tản. Từ cách tám mét, con hạc trắng lắng nghe câu chuyện của chúng tôi. Không khí ẩm lạnh, mây bay thấp, chiếu bóng xuống vũng nước. Có tiếng đập cánh, con hạc ngửng cổ cao, nhấc mình lên, bay là đà qua các cửa sổ khép kín hắt ánh đèn của tòa nhà cao tầng, dang rộng hai cánh ra, bay chậm lại nửa như lấy đà, nửa như ngẫm nghĩ, rồi đập cánh quả quyết bay thẳng đứng lên. Bay ra khỏi cái bóng của những tòa nhà, thoát ra khỏi sức hút của ký ức, của bóng núi trầm uất, mê muội, hoang dã, nguyên sơ, biến mất trong bầu trời. Nó cất giọng kêu khàn khàn, mờ đục, xen lẫn có tiếng vút cao của chiêng, cồng, đàn T’rưng, đàn Klông pút, tiếng thở dài của một người già thấu triệt lẽ đời, bắt đầu quên, lẫn, nhưng chưa mất phương hướng. Tiếng động của thiên nhiên và của văn hóa bị đe dọa sẽ biến mất.

Thế mà lúc chị thiu thiu ngủ, khi được nhắc lại về cây kơ nia, vì tôi tò mò hỏi, anh chỉ tay về một cây nhỏ dựa bên rào có hoa như hoa tường vi màu tím. Tôi lắc đầu, không phải. Anh bối rối nhưng không thay đổi ý kiến. Tôi mường tượng nhận ra không phải chỉ là mất trí nhớ. Tôi bảo anh thử xác định khoảng cách từ chỗ chúng tôi đứng đến cây, anh không xác định được, nhưng đoán là năm bước. Đi năm bước, anh đưa tay sờ vào thân cây, không được, mất đà, chúi xuống, suýt ngã, anh phải đi thêm năm bước nữa. Hụt. Mất khả năng cảm nhận về không gian, về kích thước, về hình dạng, về khoảng cách, mất phương hướng, là hình thức hiếm gặp của mất ký ức chấn thương có tính chọn lọc. Thêm năm bước nữa, rồi anh cũng chạm được cả người vào nó, ôm lấy nó, như người đi đâu xa về chưa kịp mắc áo khoác lên chiếc sừng trâu đã vội vã ôm lấy cột nhà đen mát rượi.

Nguyễn Đức Tùng

Comments are closed.