Phùng Nguyễn – Như chưa hề giã biệt

Ngô Thế Vinh

The only certainty in this life is uncertainty

Chỉ có thường hằng trong đời này chính là sự vô thường

Gửi Các Bạn Anh Phùng Nguyễn

 

Hôm nay là đúng bảy năm ngày mất của Phùng Nguyễn (17/11/2015 – 17/11/2022). Chúng tôi đăng bài này của Ngô Thế Vinh để kỷ niệm một “kiện tướng” (chữ của Ngô Thế Vinh) của Văn học Việt Nam, người đã dành bài đầu tiên trên blog Rừng & Cây của mình để đăng bài Văn đoàn độc lập Việt Nam: Sự kiện hay Cước chú?.

Văn Việt

clip_image002

Hính 1: Phùng Nguyễn, California May 2015

[photo by Ngô Thế Vinh]

TIỂU SỬ PHÙNG NGUYỄN

Nhà văn Phùng Nguyễn, tên thật Nguyễn Đức Phùng, sinh năm 1950 tại Quảng Nam, là anh cả trong một gia đình đông anh em. Học xong tiểu học trong một làng quê, năm 1961 cậu học sinh Nguyễn Đức Phùng thi đậu vào lớp Đệ Thất trường trung học Trần Quý Cáp, Hội An. Ba năm sau đó Phùng theo gia đình vào Sài Gòn 1964.

Có một giai đoạn rất quan trọng mà Phùng Nguyễn đã không ghi trong phần tiểu sử của mình, đó là Phùng đi lính năm 1968, lúc ấy mới 18 tuổi và là một thương phế binh giải ngũ trước 1975. Theo người viết, những năm tháng mặc áo lính tuy ngắn nhưng đã có ảnh hưởng sâu đậm tới bước hình thành phong cách của cả văn nghiệp Phùng Nguyễn về sau này.

Phần tiểu sử chính thức mà Phùng Nguyễn tự soạn cho mình chỉ ghi khoảng thời gian từ 1984 khi anh đặt chân tới Hoa Kỳ:· Sinh quán Quảng Nam, Việt Nam.

· Định cư ở Hoa Kỳ từ tháng 5 năm 1984.

· Tốt nghiệp Cử nhân summa cum laude ngành quản trị kinh doanh và tin học năm 1990 và Thạc sĩ Quản Trị Kinh Doanh (MBA) năm 1992 tại California State University (Bakersfield, California).

· Làm việc trong ngành tin học từ năm 1990. Chức vụ sau cùng: Director of Information System (Jaco Oil Company, California).

· Có nhiều sáng tác văn học và tiểu luận xuất hiện trong các tạp chí Văn (USA), Văn Học (USA), Hợp Lưu (USA), Việt (AUS), Thế Kỷ 21 (USA) và các báo mạng như talawas.org, tienve.org, damau.org …

· Đề xuất, thiết kế, xây dựng, và bảo trì ấn bản mạng cho các tạp chí Văn Học, Văn, Hợp Lưu, và Việt từ năm 1997 cho đến 2002.

· Từng đảm nhiệm chức vụ Chủ bút của tạp chí văn học Hợp Lưu (California, USA) từ tháng 6 năm 2002 cho đến tháng 4 năm 2003.

· Đồng sáng lập tạp chí văn chương mạng Da Màu (tháng 7 năm 2006) cùng với nhà văn Đặng Thơ Thơ & nhà thơ Đỗ Lê Anh Đào.

· Biên tập viên và đồng thời phụ trách phần kỹ thuật cho tạp chí Da Màu từ 2006 cho đến nay.

· Sáng lập và xây dựng Thư viện Kệ Sách eBook (kesach.org). Đưa kesach.org vào sinh hoạt từ tháng 5, 2008. Cho đến nay đã xuất bản và ấn hành miễn phí hơn 150 tác phẩm văn chương tiếng Việt trong dạng ebooks trên các hệ thống ấn hành ebook Scribd.com và Smashwords.com

· Phụ trách Blog Phùng Nguyễn: Rừng và Cây trên VOA (Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ).

Sách đã xuất bản:

· Tháp Ký Ức, tập truyện ngắn. Nxb Văn 1988 (California, USA)

· Đêm Oakland và Những Truyện Khác, tập truyện ngắn. Nxb Văn 2001 (California, USA)

Sách dự định xuất bản trong năm 2015:

· Tuyển tập truyện ngắn

· Tiểu luận Phùng Nguyễn

[hết trích dẫn]

Blog Rừng & Cây của Phùng Nguyễn trên VOA (Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ) phân tích các sự kiện văn hóa đáng chú ý của Việt Nam và thế giới, cũng là nơi góp mặt của một số các ngòi bút thân hữu trong và ngoài nước.

Bài đầu tiên trên blog là của Phùng Nguyễn: Văn đoàn độc lập Việt Nam: Sự kiện hay Cước chú? posted ngày 16-07-2015, và bài viết cuối cùng Mệnh Trời cũng của Phùng Nguyễn như một di cảo posted ngày 20-11-2015, nhưng anh đã mất ba ngày trước đó. VOA đã viết một chapeau dẫn nhập thật cảm động cho Mệnh Trời:

"Chủ nhật 22 tháng 11 là ngày phát tang nhà văn Phùng Nguyễn. Nhân dịp này VOA Tiếng Việt xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả một di cảo của nhà văn vừa tạ thế như một lời vĩnh biệt của ông với bạn đọc, bằng hữu cùng những người ngưỡng mộ ông. Đây là blog cuối cùng của ông, nhưng chúng tôi tin rằng những lý tưởng và giá trị nhân bản mà ông và các thi văn hữu của ông bảo vệ và cổ xúy qua cột blog do ông chủ xướng sẽ không bao giờ bị mai một, cho dù Mệnh Trời có như thế nào đi nữa."

Trước sự ra đi đột ngột của nhà văn Phùng Nguyễn, VOA cũng đã có lời phân ưu:

"Nhà văn Phùng Nguyễn, người phụ trách cột blog "Rừng & Cây" trên VOA Tiếng Việt, vừa đột ngột qua đời ngày 17 tháng 11, 2015 tại bang Maryland, Hoa Kỳ. Tuy thời gian hợp tác với VOA Tiếng Việt chưa lâu, những bài viết nghiêm túc, độc đáo và đặc sắc của nhà văn Phùng Nguyễn cũng như của những thi văn hữu được ông mời cộng tác về đề tài văn học-nghệ thuật cùng những vấn đề liên quan đã thu hút sự chú ý và được đánh giá cao bởi đông đảo bạn đọc tại Viêt Nam cũng như ở nước ngoài. Sự ra đi quá sớm của Ông là một thiệt thòi khó bù đắp không những cho giới văn học mà còn cho những người đọc yêu mến Ông qua cột blog "Rừng & Cây". Ban Việt ngữ xin thành thực chia buồn cùng tang quyến Nhà văn Phùng Nguyễn trước sự mất mát to lớn này. Sự đóng góp quý báu của Ông sẽ được VOA Tiếng Việt luôn trân trọng."

clip_image003

Hình 2: chân dung Phùng Nguyễn trên Blog Rừng và Cây

[nguồn: VOA Tiếng Việt]

Tính ra Blog Rừng & Cây chỉ hoạt động vỏn vẹn được đúng bốn tháng với tổng số 35 bài viết, riêng Phùng Nguyễn viết 16 bài nhưng trước đó anh cũng đã viết nhiều bài tiểu luận rất sắc sảo đăng trên các tạp chí Văn, Văn Học, Hợp Lưu, Việt, Thế Kỷ 21 và các báo mạng như talawas.org, tienve.org, damau.org…

CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH PHÙNG NGUYỄN

Trong bài Vĩnh biệt Phùng Nguyễn, nhà văn Trần Hoài Thư đã phác họa chân dung Phùng Nguyễn: "Từ Ô Thước rồi đến Talawas rồi Da Màu, những diễn đàn văn học luôn luôn thấy bóng Phùng Nguyễn. Ngày xưa Phùng Nguyễn mang súng thì bây giờ Phùng Nguyễn mang laptop đến mọi nơi mọi chốn. Tôi theo dõi người lữ hành ấy và cảm phục vô ngần”.

Trần Hoài Thư viết tiếp: "Tôi và Phùng Nguyễn dù chỉ gặp nhau một đôi lần nhưng xem như thân thiết trên cuộc hành trình cùng văn chương chữ nghĩa, và cả cuộc sống. Thứ nhất là chúng tôi cùng là dân IT (information Technology). Thứ hai, chúng tôi cùng có mặt trong bộ đồng phục trước 1975. Thứ ba chúng tôi cùng viết chung con đường yêu mến văn chương chữ nghĩa."

Tối Thứ Bảy, ngày 21 tháng 11, 2015 cũng là ngày phát tang Phùng Nguyễn bên Maryland, tôi eMail cho Trần Hoài Thư:

"Phùng Nguyễn rất ít khi nói về thời gian quân ngũ của mình, nhưng theo tôi biết, Phùng Nguyễn nhập ngũ sau Tết Mậu Thân 68, và sau đó là một thương phế binh phải nằm nhiều tháng trong Tổng Y viện Cộng Hoà cho tới khi giải ngũ, anh Trần Hoài Thư có biết thêm chi tiết gì về giai đoạn người lính sau đó là thương phế binh Phùng Nguyễn không? Tôi đang viết một bài về Phùng Nguyễn."

 Trần Hoài Thư trả lời tôi ngay trong đêm:

"Anh Ngô Thế Vinh thân, tôi không biết. Chỉ đọc tiểu sử. Anh gắng truy tầm thử xem. Phùng Nguyễn nhập ngũ năm 18 tuổi, lúc là học sinh Trung học…"

Gặp Phùng Nguyễn mới đây thôi, anh có dáng khoẻ mạnh của một tráng niên, trẻ hơn tuổi, da sậm nắng, khuôn mặt vuông, trán cao, nói cười chừng mực. Có lần sánh vai cùng đi bộ nhanh với Phùng trên bãi biển Huntington Beach, do có phone của Đinh Cường tôi bị bỏ rơi về phía sau. Phùng Nguyễn có ý vừa đi vừa chờ; và tôi chợt nhận ra dáng đi của Phùng hơi lệch về bên phải. Suy đoán, có lẽ Phùng bị polio / sốt bại liệt nhẹ từ hồi nhỏ, một dịch bệnh rất thông thường ở Việt Nam. Chỉ nghĩ vậy thôi nhưng tôi không hỏi thêm. Ở một khi khác cũng đi bộ nhưng lần này trên bãi biển Laguna Beach, trời nắng ấm Phùng mặc quần short, thấy chân phải anh không bị teo nhưng lại có các vết sẹo mổ. Tôi hỏi Phùng, anh chỉ kể rất vắn tắt về một cuộc hành quân vùng sình lầy, tiểu đội anh đạp phải mìn, vài đồng đội chết, riêng Phùng bị thương, gẫy nát hai xương chân bên phải, vết thương khá nặng phải đưa về Tổng Y viện Cộng Hoà để được phẫu thuật chấn thương chỉnh hình [reconstructive surgery] và bó bột, nhưng không may sau đó vết thương nhiễm trùng và kháng thuốc trụ sinh. Phùng phải chịu mổ lại nhiều lần với tháp xương ghép da. Phải nằm lâu nhiều tháng trong bệnh viện, đau đớn vật vã quá mức chịu đựng, đã có lần Phùng xin được cắt chân nhưng bác sĩ không cho. Phùng còn nhớ tên người bác sĩ điều trị "lạnh lùng hầu như vô cảm" ấy trước những cơn đau của anh, bác sĩ ấy tên Thái nhưng cũng chính ông đã cứu giữ được chân của Phùng để không bị tàn phế, và rồi những năm về sau này Phùng cho biết không bao giờ được gặp lại người bác sĩ ân nhân ấy.

Vẫn muốn có thêm tin về người lính Phùng Nguyễn, tôi eMail hỏi Khánh Trường, người Hoạ sĩ Vỉa hè New York [chữ của Mai Thảo], người sáng lập và điều hành tạp chí Hợp Lưu trong 12 năm, trước khi giao chức chủ bút cho Phùng Nguyễn [2002]. Khánh Trường sinh năm 1948 có thể coi là cùng trang lứa với Phùng Nguyễn sinh năm 1950, lại cùng gốc Quảng Nam; Khánh Trường có một quá khứ lính tráng trong binh chủng Dù và hơn một lần bị thương trước khi giải ngũ. Khánh Trường chắc hẳn biết về giai đoạn người lính Phùng Nguyễn. Nhưng không, Khánh Trường trả lời tôi ngay: "Không nghe Phùng Nguyễn nói gì chuyện cũ. Hình như có đi lính, bị thương ở chân, giờ đi không bình thường, để ý lắm mới thấy chàng bước không đều… Bất ngờ quá. Hôm đi viếng Võ Phiến về Phùng Nguyễn có ghé thăm tôi. Rất bình thường. Vậy mà!"

Qua gợi ý của nhà thơ Thành Tôn, tôi liên lạc với anh Trần Trung Đạo bên Boston, tác giả bài thơ Đổi cả thiên thu tiếng Mẹ cười, anh cũng là cựu học sinh trường Trần Quý Cáp, và được hồi âm ngay: "Anh Phùng Nguyễn rất ít nói về thời gian anh ở Sài Gòn. Thời ở Trần Quý Cáp, anh Phùng viết khá rõ và đã in trong Tháp Ký Ức. Để tôi tìm hỏi các bạn Trần Quý Cáp của ảnh thử có biết gì không, tôi sẽ thông báo cho anh biết."

Chưa dừng lại ở đó, qua chị Diệu Chi Nguyễn Mộng Giác, tôi liên lạc được với một người bạn khác của Phùng Nguyễn, anh Huy Văn Trương Văn Hùng, người đã cùng với Phùng Nguyễn tới thăm anh Tạ Chí Đại Trường vào ngày phát tang nhà văn Võ Phiến. Huy Văn đã chụp bức hình Tạ Chí Đại Trường và Phùng Nguyễn bằng chiếc iPhone của Phùng. Hy vọng sẽ còn tìm lại được. Trao đổi với Huy Văn, anh xác nhận một số thông tin mà tôi có về Phùng Nguyễn nhưng vẫn có một khoảng trống 20 năm 1964 – 1984, thời gian Phùng sống ở Sài Gòn.

Được biết anh Huy Văn, cũng là dân IT một thảo chương viên điện toán đồng trang lứa với Phùng Nguyễn, cùng viết cho tạp chí Văn Học và rất thân với gia đình Phùng Nguyễn. Tôi điện thoại hẹn với Huy Văn để cùng tới thăm Mẹ Phùng Nguyễn, hai ngày sau Thanksgiving. Không có địa chỉ, qua hướng dẫn của Hồ Như, khó khăn mới tìm ra ngôi nhà em gái Phùng Nguyễn trong một khu mà các con đường toàn mang tên cá như Bluefin, Stingray, Carp thuộc thành phố Huntington Beach, cũng là nơi bà Mẹ Phùng Nguyễn thường về chơi với con gái. Nhưng rồi cả nhà đều đi vắng.

Mấy ngày sau, qua số điện thoại của Đặng Thơ Thơ cho, tôi được nghe chuyện qua giọng nói nghẹn ngào của người em gái Phùng Nguyễn, và bỗng chốc khoảng trống 20 năm ấy được phần nào lấp đầy.

1964, không sống được trong vùng xôi đậu cộng thêm trận lụt khủng khiếp ở Miền Trung năm đó, bà mẹ Phùng quyết định đưa đàn con vào Nam tìm kế sinh nhai. Phùng là con trai cả mới 14 tuổi đã phải ra đời sớm giúp mẹ nuôi đàn em, ban ngày làm phụ thợ hồ hay trong xưởng mộc, ban đêm cắp sách đi học ở một trường tư thục.

1968, chưa xong trung học tới tuổi 18, Phùng bị động viên vào Trung tâm Huấn luyện Quang Trung, ra trường là lính truyền tin. Bị thương do mìn bẫy trong một cuộc hành quân năm 1971, phải nằm lâu dài trong Tổng Y viện Cộng hoà cho tới khi đứng lại được trên đôi nạng xuất viện về nhà và được giải ngũ sau đó.

1975, bị kẹt lại sau 75 thương phế binh "Nguỵ" Phùng Nguyễn đã sống vất vưởng thêm chín năm nữa, làm đủ nghề để kiếm sống cho đến khi cả gia đình được người em gái bảo lãnh sang Mỹ 1984 theo diện di dân. Mấy năm đầu Phùng cũng phải đi làm đủ nghề để mưu sinh: ra đồng thu hoạch bóc hành, phụ bếp nhào bột rửa mâm cho tiệm pizza, buổi tối mới tới trường đi học.

Cây bút phê bình văn học Nguyễn Vy Khanh, cách đây 14 năm đã ghi nhận tính tự truyện/ autofiction trong hai tác phẩm xuất bản của Phùng Nguyễn. Qua những trang sách tự truyện ấy có thể biết thêm về người lính, người thương binh Phùng Nguyễn.

"Anh còn trẻ lắm. Lúc đó anh đang nằm điều trị ở Quân Y viện Cộng hoà. Người ta đang cố gắng chữa cái chân gẫy nát của anh bằng cách hành hạ nó đủ điều, và anh đau đớn đến nỗi cứ van xin họ cắt nó liệng đi cho rồi. Cũng may mà họ không thèm nghe lời anh! Anh nằm chịu trận trên chiếc giường sắt, chân mang khúc bột cứng đờ, tay cắm đầy những mũi kim to tướng nối liền với những ống nhựa lòng thòng, bất lực và tuyệt vọng chờ đợi những cơn đau khủng khiếp sẽ đến với mình ngày hai lần, sáng và chiều, khi những người y tá đến rửa và thay băng cho vết thương. Ngoài việc nằm dài ra đó để nguyền rủa những cơn đau nhức."

Nếu Phan Nhật Nam viết phóng sự chiến trường với máu mồ hôi và nước mắt, thì có thể nói Phùng Nguyễn đã viết về những mảnh bom mảnh đạn để lại vương vãi trên các trận địa ấy. Phùng Nguyễn viết về những người lính đồng đội thương phế binh quanh anh. Trích đoạn:

"Anh chỉ có việc để giết thì giờ, đánh cờ tướng. Anh có những đối thủ rất đáng gờm, từ hình dạng cho đến tên tuổi. Một tên có tước hiệu Độc Nhãn Hắc Thần, đen trùi trũi và chỉ có một mắt. Điều làm anh ngại nhất không phải là ngón pháo đầu dồn dập khi hắn ra quân mà chính là vì hắn cứ thỉnh thoảng móc con mắt trái bằng đá ra lau chùi ngắm nghía như của gia bảo, cái hốc mắt sâu hoắm đỏ bầm nhìn anh chế riễu trông gớm chết. Còn nhiều biệt hiệu quái đản khác nữa cho những người bạn cờ kỳ dị của anh, những thằng lính trẻ sứt tay gẫy gọng tụ họp ở đây sau khi bị đốn gục trên một chiến trường nào đó, anh không làm sao nhớ hết! Nhưng đáng gờm nhất vẫn là Độc Cô Cầu Bại, một ông Thượng sĩ đứng tuổi không có chân! Ông ngồi bình thản trên chiếc xe lăn cạnh giường bệnh của anh, chiếc mền nhà binh màu cứt ngựa phủ kín hai khúc đùi cụt, khoan thai tấn công anh bằng những nước cờ thâm trầm hiểm ác. Anh thua tối tăm mặt mũi, cho đến một lần hiếm hoi sau đó anh mới có cơ hội để thắng ông. Vậy mà anh để cơ hội ấy trôi qua một cách đáng tiếc khi nhìn thấy những giọt mồ hôi ứa ra từ chân tóc, những ngón tay sần sùi bứt rứt không yên trên chiếc mền nhà binh, và cặp mắt có những tia máu đỏ li ti trên tròng mắt vàng ệch chỉ còn phát ra những tia bồn chồn tội nghiệp. Anh nhấc quân cờ, đi một nước… hớ hênh. Độc Cô Cầu Bại lại thắng anh ván đó, và anh không bao giờ có một cơ hội nào khác." [Đêm Oakland và những chuyện khác; Cháy Lên Những Ngọn Cỏ Khô. p31-32]

Phùng Nguyễn ra ngoài nước rồi, anh đã nhìn lại cuộc Chiến tranh Việt Nam ấy ra sao? Trích đoạn:

"Hắn [tên Đức người bạn trẻ của Phùng Nguyễn, ghi chú của người viết] sống một mình, không thực sự có trách nhiệm với ai, đi nhiều và đi lúc nào cũng được. Chỉ riêng điều ấy cũng làm tôi ganh tị quá đỗi." [tôi, là Phùng Nguyễn đang nói về người bạn trẻ của mình] Phùng Nguyễn viết tiếp: "Đối lại, tôi lớn tuổi hơn Đức, đủ lớn để giết người và để bị người giết một cách hợp pháp trước khi Đức có cơ hội tham dự vào cái trò chơi lớn có tên gọi là chiến tranh. Ngoài ra, chỉ việc tôi sinh ra và lớn lên ở một làng quê nghèo nàn và đầy rẫy những vết tích của đạn bom cũng đủ làm hắn xốn xang. Ở phía trong bước tường cao của căn biệt thự sang trọng và được tách ra khỏi những nỗi hiểm nghèo đang xảy ra bên ngoài, người ta có quyền có những nhu cầu tinh thần vô cùng xa xỉ. Chẳng hạn như những suy nghĩ phức tạp của mình về chiến tranh… Hoặc người ta thực sự sống với, hoặc người ta suy tưởng về một điều gì đó." [Đêm Oakland. Câu hỏi. p13]

"Nếu phải tự mô tả mình với cuộc chiến tranh đã qua, tôi thường nghĩ đến một gã thua cạn láng ở ván cờ cuối cùng, lúng túng không biết phải làm gì. Người thắng cuộc thì không chịu xoá bàn làm lại, có ngẩn ngơ đứng đó càu nhàu cũng chẳng ích gì. Thôi thì bỏ đi, tự an ủi mình dù sao cũng đã đánh xong ván cờ, cho dù một cách dở tệ."

Cũng ít người biết rằng, khi tham dự ván cờ chiến tranh ấy, có phần xương máu của người lính trẻ truyền tin Phùng Nguyễn.

BƯỚC CHÂN VÀO DÒNG CHÍNH

Tới Mỹ theo diện di dân/ immigrants, không được hưởng một thứ trợ cấp nào như những người tị nạn/ refugees, Phùng và cả gia đình đã phải xả thân ngay đi làm với những đồng lương tối thiểu.

Ở tuổi 34 trắng tay, đặt chân tới một tân lục địa, Phùng mới lại bắt đầu cắp sách tới trường. Cậu học sinh trường làng chưa xong bậc trung học, cũng là thương phế binh ấy đã chứng tỏ ngay là một sinh viên xuất sắc. Phùng đã đi những bước vững vàng vào dòng chính với đầy đủ học vị chỉ trong vòng 6 năm: tốt nghiệp cử nhân với hạng tối ưu ngành Tin học và Quản trị Kinh doanh 1990, hai năm sau, Phùng tốt nghiệp Cao học Quản Trị Kinh Doanh / MBA.

Làm việc trong ngành tin học từ 1990, sau hơn 20 năm, Phùng đã bước lên vị trí Giám đốc Hệ thống Điện toán của Công ty Jaco Oil Company, California.

Bước qua tuổi 60 lục thập nhi nhĩ thuận / đạt đến mức độ hoàn-hảo về tri-hành, và kinh-nghiệm sống, Phùng Nguyễn đứng trước hai lựa chọn: hoặc tiếp tục bước đường sự nghiệp của anh trong dòng chính, hoặc chọn hạnh phúc một gia đình mới mà anh muốn xây dựng. Con người cứng cỏi và đa cảm ấy đã chọn commitment thứ hai / chữ của Phùng Nguyễn.

Anh chấm dứt hợp đồng với công ty Jaco ở Bakersfield mà anh đã gắn bó hơn 20 năm cùng với bao nhiêu những benefits mà anh đang có để về sống ở Miền Đông. Phùng Nguyễn tìm được hạnh phúc gia đình với quây quần những bạn bè thân thiết nhưng cũng với cái giá mà cá nhân anh phải trả: cái khoảng trống của một chuyên gia còn đầy sinh lực khi bước ra khỏi dòng chính, sống với cái lạnh rất khắc nghiệt không hợp với sức khoẻ của anh và cả những trải nghiệm bất ưng của anh với người bác sĩ tim mạch mới mà anh không mấy tin tưởng. Phùng Nguyễn tâm sự anh không thể cùng một lúc có cả hai chọn lựa và anh chưa bao giờ anh có một ý nghĩ khác về một chọn lựa dứt khoát ấy.

PHÙNG NGUYỄN NHÀ VĂN

Nguyễn Xuân Hoàng trong lời tựa cho cuốn Tháp Ký Ức tác phẩm đầu tay của Phùng Nguyễn đã viết: "Tháp Ký Ức là tập hợp những câu chuyện về số phận của một con người, những khắc hoạ về một mảnh đời thường, chuyện tình yêu, chuyện tuổi thơ, chuyện quê nhà, chuyện quê người. Quá khứ và hiện tại của một lớp tuổi khi rời Sài Gòn ra đi chỉ mới vừa bước qua hai mươi. Truyện của Phùng Nguyễn nhẹ nhàng, thở cái hơi thở bình dị của một cuộc sống vốn không bình an, và được viết bằng một bút pháp đơn giản mà lôi cuốn. Cái đẹp, theo ý nghĩa của văn chương, tràn ngập trên những trang chữ của anh."

clip_image005

Hình 3: từ trái, Lê Thánh Thư, Trần Thị NgH, Phùng Nguyễn, Dương Nghiễm Mậu Sài Gòn 2014. [nguồn: tư liệu Phan Nguyên, Emprunt Empreinte]

Nguyễn Mộng Giác trong lời bạt cho cuốn Tháp Ký Ức, cũng đã nhận xét: "Truyện ngắn đầu tay của Phùng Nguyễn vượt lên trên những sáng tác của những người ra đi tị nạn cộng sản từ Miền Nam thuộc thế hệ trước anh hay cùng thế hệ của anh, những sáng tác làm nòng cốt cho văn chương hải ngoại. Phùng Nguyễn ôn chuyện cũ như một kỷ niệm đẹp, nhưng anh không dừng ở đó. Anh nâng tấm ảnh cũ lên thành một suy niệm về nhân sinh."

Tháp Ký Ức, truyện ngắn đầu tiên của Phùng Nguyễn được chủ bút Nguyễn Mộng Giác và tổng thư ký Thạch Hãn Lê Thọ Giáo chọn đăng trên tạp chí Văn Học số Tết Ất Hợi 1995, đã gây ngay sự chú ý với một dư luận xôn xao. Tháp Ký Ức có thể coi như tự truyện của Phùng Nguyễn, với nhân vật xưng "tôi" cũng là tác giả. Đáng chú ý nhất là câu hỏi đầu đời của cậu bé học trò mới 11 tuổi "tranh luận" với cô giáo Tố Quyên của anh, khi cô nói rằng "Hy vọng luôn luôn hướng về tương lai. Nhưng chúng tôi vẫn khăng khăng cho rằng hy vọng có tính cách hai chiều, không phải một chiều như cô đã khẳng định. Nếu quả thật hy vọng chỉ hướng về tương lai thì cuộc sống này buồn quá." Đó cũng là điều mà nhiều năm sau, Phùng Nguyễn vẫn muốn có dịp gặp lại cô giáo của anh một lần nữa để hỏi cô: "Phải chăng hy vọng chỉ hướng về tương lai? Hay cả hai?"

Trong buổi tiệc tất niên tại toà soạn Văn Học tại nhà riêng Nguyễn Mộng Giác năm đó, các nhà văn Võ Phiến, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Xuân Hoàng và nhiều bạn văn khác đều có câu hỏi về cô giáo Tố Quyên với tác giả Tháp Ký Ức.

Câu hỏi đó, có lẽ, Phùng Nguyễn vẫn mang theo suốt đời mình chỉ với ước mong làm sao "vượt qua cái khoảng trống ghê rợn nằm giữa một điều đã thực sự qua đi và một điều hãy còn chưa tới."

clip_image007

Hình 4: In dấu tay Phùng Nguyễn, với dòng chữ: Bút tích "Ước mơ của điều đã đi qua!" Phùng Nguyễn, 01-17-2012 [nguồn: Phan Nguyên. Emprunt Empreinte]

Viết về lớp người trẻ, thế hệ 20 – 30 sống ở hải ngoại, Phùng Nguyễn viết: "Bất kể những khác biệt lớn về tuổi thơ và kinh nghiệm chiến tranh, tôi cho rằng Đức và tôi cùng thuộc về nhóm những kẻ đứng chông chênh trên hai mảnh ván trôi ngược chiều nhau, cố giữ thăng bằng để không rơi vào cái vực đen ngòm của hoang mang bên dưới. Thực ra, cái mảnh ván cứ kéo giật tôi về quá khứ có nhiều cơ hội thành công hơn. Có những điều nằm ở đó sẽ theo đuổi tôi cho đến hết đời. Trong nhiều năm, tôi cứ đi giật lùi nhiều hơn là đi tới." [Trích dẫn Đêm Oakland. Câu hỏi.]

clip_image009

Hình 5: Tháp Ký Ức, tập truyện, nxb Văn, 1998 gồm 15 truyện, ngoài phần tựa của Nguyễn-Xuân Hoàng và bạt của Nguyễn Mộng Giác.

Chim Gáy Sau Vườn, vượt qua tính tự truyện là một truyện ngắn đặc sắc cảm động và đầy tính nhân bản của Phùng Nguyễn với hồi ức về những vết thương kinh hoàng nhất của cuộc chiến vừa qua. Một cuộc chiến tranh vô cùng nghiệt ngã nhân danh các chủ nghĩa ngoại lai, đã dìm cả dân tộc vào tấn thảm kịch nồi da xáo thịt. Trong hoang tàn đổ nát của Chim Gáy Sau Vườn cũng là nơi chớm nở tình yêu ngang trái của người con gái tên Xuyến, với những người anh em thân thiết như Thuận và Tấn bị đẩy sang hai phía đối nghịch khiến họ phải giết nhau. Một hầm chông phía sau vườn của phe Thuận nhằm bẫy giết Tấn trong ngày về giỗ mẹ nhưng thảm kịch lại là cái chết của Xuyến em gái Tấn cũng là người yêu của Thuận – cũng là thân phận những người dân vô tội kẹt giữa hai chiến tuyến. [Đêm Oakland và những chuyện khác. p51]

Nhà văn Thảo Trường đã có lần phát biểu: "Tôi có tham vọng làm sao nhét cả một cuộc chiến tranh vào trong một truyện ngắn, làm sao đưa được cả một thời đại mình đang sống vào trong một truyện ngắn. Tôi vẫn hằng mong muốn làm được như vậy." Đọc Chim Gáy Sau Vườn, tôi không thể không liên tưởng tới câu phát biểu ấy của nhà văn Thảo Trường cho dù biết rằng khi viết Chim Gáy Sau Vườn, Phùng Nguyễn chưa hề có một tham vọng như vậy.

clip_image011

Hình 6: Đêm Oakland và Những Truyện Khác, tập truyện, nxb Văn, 2001

không có lời tựa hay bạt, gồm 16 truyện.

Tại sao viết? Đó là câu hỏi đặt ra cho mỗi người cầm bút.

Phùng Nguyễn viết: "Sau này tôi nghiệm ra chính cái nhu cầu cần được chia sẻ là động cơ thúc đẩy tôi đến gần với văn chương thay vì với những điều khác. Phải chăng ở giữa một điều đã qua và một điều còn chưa tới là nỗi sợ không thể vượt qua? Trong khi chờ đợi câu trả lời cho những nghi vấn của mình, tôi hoang mang vô cùng."

Phùng Nguyễn rất kỳ vọng ở văn chương: "Và từ giữa tro tàn, biết đâu sẽ bước ra rực rỡ và mới tinh khôi con phượng hoàng với đôi cánh đủ dài để vượt qua cái khoảng trống ghê rợn nằm giữa một điều đã thực sự qua đi và một điều hãy còn chưa tới." (Nhà văn, 11/1999)

PHÙNG NGUYỄN NHÀ BỈNH BÚT

Tháp Ký Ức trên báo Văn Học của Nguyễn Mộng Giác là truyện ngắn đầu tiên tôi được đọc và bắt đầu làm quen với một bút danh mới mẻ Phùng Nguyễn, nhà văn.

Nỗi loay hoay của Lữ Phương trên trang mạng Talawas là bài phân tích phê bình sắc sảo đầu tiên tôi được đọc với cùng bút danh Phùng Nguyễn, nhưng là cây bút chính luận.

Cả hai thể loại văn học và phê bình của Phùng Nguyễn đều để lại cho tôi ấn tượng mạnh mẽ.

clip_image013

Hình 7: Buổi họp mặt với Đinh Cường tại Saigon Quán, Maryland 16.06.2015, từ phải, Phùng Nguyễn, Lữ Quỳnh, Phạm Cao Hoàng, Nguyễn Quang chơn, Đinh Cường, Duyên, Tùng, Lãm Thuý, Nguyễn Minh Nữu. [nguồn: blog Phạm Cao Hoàng]

Mới đây được đọc trước một bài viết sẽ post trên Blog’s Rừng và Cây trên VOA, khi đề cập tới sự phục tùng của ông TT Hun Sen đối với Bắc Kinh, đối chiếu với sự trung thành của Đảng Cộng Sản Việt Nam với Tàu, Phùng Nguyễn viết: "như vậy từ nay, xem ra về mặt cúc cung tận tụy với thiên triều, đảng CSVN nay đã có một đối thủ đáng gờm", tôi trích dẫn câu đó trong eMail với tiêu đề Quote of the Week, như một tán thưởng đồng thời báo cho Phùng biết tôi đã đọc bài viết mới của anh. Có lẽ đây là eMail cuối cùng trao đổi với Phùng mà không có hồi âm. Cũng sáng ngày 17 tháng 11 hôm đó, tôi phone cho Phùng Nguyễn qua Cell chỉ có lời nhắn, nghĩ rằng thời điểm đó trong thời tiết Thu của Maryland, Phùng đang đi bộ quanh bờ hồ chứ không nghĩ là Phùng đang nằm trong bệnh viện.

PHÙNG NGUYỄN MỘT NHÂN CÁCH

Hạnh phúc có được một người bạn như Phùng Nguyễn, khi mới gặp đã có ngay trực giác về sự tin cậy. Ở Phùng toát ra một nhân cách, anh có cách đối xử rất đôn hậu và tận tuỵ với bằng hữu.

Phùng Nguyễn và Tạ Chí Đại Trường quen nhau qua thời kỳ làm báo Văn Học. Sáng thứ Bảy 11/10/2015 Phùng Nguyễn đã hẹn gặp tôi trong ngày phát tang nhà văn Võ Phiến, nhưng mấy giờ trước đó Phùng được chị Diệu Chi vợ Nguyễn Mộng Giác báo tin anh Tạ Chí Đại Trường mới đến nói lời vĩnh biệt chị và tối nay anh lên máy bay về Sài Gòn. Tạ Chí Đại Trường đang ở giai đoạn cuối của bệnh ung thư gan, anh chọn về chết ở Việt Nam. Nghe vậy, Phùng cho biết bằng mọi giá phải tới gặp Tạ Chí Đại Trường mà anh nghĩ là lần gặp cuối cùng. Cho dù đã biết Tạ Chí Đại Trường không ăn uống được gì, Phùng và người bạn thiết Huy Văn vẫn mua đem tới món gỏi cuốn Brodard mà Tạ Chí Đại Trường thích.

clip_image015

Hình 8: bức hình cuối cùng của Phùng Nguyễn và Tạ Chí Đại Trường, Garden Grove nam California thứ Bảy 11/10/2015 [nguồn: tư liệu gia đình Phùng Nguyễn]

Tối hôm đó Tạ Chí Đại Trường lên chuyến máy bay "quy cố hương"; cũng được biết, Tạ Chí Đại Trường có giao cho Phùng Nguyễn giữ mấy bài viết với dặn dò chỉ cho phổ biến sau khi anh mất. Nay thì Phùng Nguyễn lại bất ngờ ra đi trước. Hy vọng chị Quỳnh Loan vợ anh Phùng Nguyễn sẽ tìm ra được bản thảo mấy bài viết ấy và không bị thất lạc.

Hồi cuối tháng Năm 2015, trong dịp bay về California thăm mẹ, gặp Phùng Nguyễn, anh cho biết sắp nhận một Blog trên VOA với tên Rừng & Cây và anh ngỏ ý mời tôi tham dự trên sân chơi của anh, với lý lẽ thuyết phục: sức quảng bá của các bài viết trên VOA rất rộng rãi đối với độc giả ở trong nước. Tôi nghĩ rằng rằng với uy tín và sự quảng giao của Phùng Nguyễn, Blog Rừng và Cây sẽ quy tụ được nhiều văn hữu cộng tác. Tôi hứa phần tôi sẽ gửi tới Blog của anh một bài mỗi tháng.

Phùng Nguyễn rất cởi mở và hoà nhã trong tranh luận nhưng cũng cứng cỏi trên nguyên tắc. Nếu người ta đồng ý với anh là do nơi khả năng thuyết phục chứ không vì một lý do khiên cưỡng nào khác. Trong các buổi họp mặt với những ý kiến hết sức khác biệt, kể cả đối nghịch nhưng anh có khả năng điều hợp, tạo một không khí sinh hoạt dân chủ, và thường anh là người có tiếng nói cuối cùng. Có thể gọi đó là khả năng lãnh đạo / leadership mà Phùng Nguyễn đã thấm nhuần trong những năm sinh hoạt dòng chính / mainstream.

Cùng sinh hoạt trong Da Màu, Trịnh Cung viết về Phùng Nguyễn: "Phùng đối với tôi là một tấm gương về tự do tư tưởng, về dân chủ và chống lại chủ nghĩa phân biệt. Tôi mới quen Phùng chỉ vài năm gần đây nhưng rất gần gũi về các vấn đề văn học và chính trị theo hướng tự do và văn minh. Đặc biệt Phùng rất tôn trọng quyền tự do chọn lựa quan điểm chính trị của người khác nhưng cũng rất sòng phẳng giữa tội ác và nhân bản vốn là mục đích của nhà văn chân chính trước khi được đánh giá về tài năng văn chương."

Những bài bình luận của Phùng Nguyễn về các vấn đề trong nước, đã được Diễn đàn Văn Việt nhận xét là anh có "sự hiểu biết hiếm có từ một góc nhìn hải ngoại."

MỘT CHÚT RIÊNG TƯ

Tâm niệm khi viết về chân dung các văn nghệ sĩ, điều tối kỵ lại viết về mình. Nhưng khi phải đưa "chút riêng tư" vào bài viết này, vì tính cách một tư liệu liên quan tới người bạn văn Phùng Nguyễn.

Gần bốn tháng trước, Phùng Nguyễn gửi cho tôi ba câu hỏi và mới đây thôi, Phùng còn nhắc "anh Vinh còn nợ tôi ba câu hỏi". Ghi lại mấy câu hỏi đó như một di cảo của Phùng Nguyễn, và cũng buồn rầu mà nghĩ rằng sẽ chẳng bao giờ tôi có cơ hội trả được anh món nợ chữ nghĩa ấy.

Ba câu hỏi cho Ngô Thế Vinh của Phùng Nguyễn:

1. Sông Mekong, mối tình lớn.

2. Ra tòa vì “Mặt trận ở Sài Gòn” năm 1971.

3. Chân dung văn nghệ sĩ

Anh Phùng Nguyễn thân, tôi chẳng bao giờ nghĩ là sẽ có một bài viết về anh sớm đến như vậy. Mới gặp anh đó, anh mới ra đi mà đi tìm những thông tin về anh đã rất khó khăn, nhất là ở suốt một giai đoạn mà anh đã không muốn nhắc tới. Anh mất đi, sinh hoạt văn học và phê bình hải ngoại vừa mất đi một kiện tướng. Sự ra đi vô cùng bất ngờ của anh khiến tôi chợt nhớ một câu trích dẫn ở đâu đó, không còn nhớ nguồn: "điều chắc chắn duy nhất trên đời, đó là sự bất trắc / the only certainty in this life is uncertainty."

clip_image017

Hình 9: thời đại internet chỉ liên lạc với nhau qua emails, hiếm hoi để có một thư tay với thủ bút và chữ ký của Phùng Nguyễn, trong thời gian anh còn sống và làm việc tại Bakerfield, California 2011 [nguồn: tư liệu Ngô Thế Vinh]

MỘT PHÙNG NGUYỄN RẤT MÊ BIỂN

Không rõ bắt đầu từ bao giờ, Phùng Nguyễn rất mê biển. Những năm sống và làm việc ở Bakersfield tương đối xa biển nhưng những ngày cuối tuần Phùng đều lái xe 1-2 tiếng đồng hồ tới những khúc biển đẹp mà anh ưa thích. Những ngày ngắn ngủi từ Miền Đông sang California thăm mẹ, mỗi sáng rất sớm, Phùng đều ra bãi biển đi bộ từ 4 tới 5 miles khi một mình khi cùng hai cô em gái. Phùng thích đi bộ sớm vì lúc đó khí trời tinh khiết và còn vắng bóng người; phải có một trái tim khoẻ mạnh Phùng mới đi được bấy nhiêu xa với tốc độ nhanh. Riêng tôi, chỉ có được hai ngày cuối tuần là có thể đi bộ với Phùng, điểm hẹn là trên Pier Huntington Beach mà tôi vẫn gọi đùa là nơi "đầu cầu biên giới".

clip_image019

Hình 10: Huntington Beach Pier Oct 4, 2015

[photo by Trịnh Cung]

clip_image021

Hình 11: Huntington Beach Mural Oct 4, 2015

[photo by Ngô Thế Vinh]

clip_image023

Hình 12: Phùng Nguyễn và Ngô Thế Vinh

trên bãi biển Laguna Beach Oct 11, 2015

Mới tháng Mười đây thôi, cùng ngồi ăn sáng nơi một quán Đức Cafe Heidelberg trên đường PCH Laguna Beach có thể nhìn ra một góc biển, hai anh em còn hẹn nhau lần tới sẽ trở lại đây nhưng là trên một Rooftop Lounge để từ trên cao có thể nhìn bao quát biển Pacific nổi tiếng là tuyệt đẹp lúc hoàng hôn với bờ bên kia là quê nhà. Và lần này Phùng Nguyễn đã không giữ được lời hứa ấy với tôi cho dù anh luôn luôn là người đúng hẹn.

Ngày thứ Bảy, một tuần lễ sau tôi và Huy Văn cũng tới thăm được bà Mẹ Phùng Nguyễn, tuổi cụ đã ngoài 90, cụ bà họ Phan cùng một nhà thờ họ với gia đình cụ Phan Khôi và cùng quê Điện Bàn Quảng Nam. Cụ kể chuyện về cả một thời kỳ thơ ấu cơ cực của Phùng với nhiều nước mắt của một người mẹ vừa mất con. Hộp tro cốt của Phùng được đặt ngay trên đầu giường cụ, mỗi tối cụ niệm Phật và con gái cụ cho biết cụ vẫn thủ thỉ một mình nói chuyện với Phùng. Cụ bật khóc khi nhắc tới câu nói của Phùng ở lần gặp mẹ cuối cùng: "Mẹ có biết là con thương mẹ lắm không." Trong tuần lễ tới, hộp tro cốt của Phùng lại được đưa trở về Miền Đông. Cô em gái Phùng cho biết, ý nguyện của Phùng rồi ra tro cốt sẽ được rải trên biển, nhưng là biển Thái Bình với bờ bên kia là quê nhà.

clip_image025

Hình 13: Cụ bà Mẹ Phùng Nguyễn và Ngô Thế Vinh

[photo by Huy Văn, 5.12. 2015]

Bài viết này với nỗi xúc động, như một chia sẻ với những người bạn thân thiết của Phùng Nguyễn trong nỗi mất mát chung vô cùng lớn lao này.

TRẢ LỜI BA CÂU HỎI CỦA PHÙNG NGUYỄN

Phùng Nguyễn mất ngày 17 tháng 11 năm 2015. Bàng hoàng với cái chết đột ngột của Phùng Nguyễn ở cái tuổi đang sung mãn nhất về sinh hoạt trí tuệ và sáng tạo, tôi đã viết bài tưởng niệm "Phùng Nguyễn, Như Chưa Hề Giã Biệt" (1), nay nhớ tới Anh, có dịp đọc lại bài viết, mới nhận ra là còn nợ Anh "Ba Câu Hỏi", mang món nợ ấy cũng đã hai năm, nay là lúc tôi phải trang trải, và cũng là thay cho nén nhang tưởng nhớ Phùng Nguyễn

1. Phùng Nguyễn: Sông Mê Kông, mối tình lớn

Sẽ không xa lắm với sự thật nếu cho rằng ai cũng có một mối tình lớn. Nhà văn Ngô Thế Vinh cũng không ngoại lệ. Người tình của nhà văn đến từ một vùng hẻo lánh của cao nguyên Tây Tạng (Tibetan plateau) với một độ cao hơn 5000 mét tính từ mặt biển. Bắt đầu bằng những bước dò dẫm từ vùng núi non thuộc tỉnh Thanh Hải, nàng lượn lờ suốt chiều dài tỉnh Vân Nam miền Nam Trung Quốc trước khi lần lượt băng qua biên giới các quốc gia Miến Điện, Lào, Thái Lan, Cambodia, và cuối cùng Việt Nam, nơi nàng kết thúc cuộc hành trình dài hơn 4800 km và hòa nhập vào Biển Đông ở các cửa Sông Tiền và Sông Hậu. Nàng được gọi bằng nhiều cái tên, Dza Chu, Lan Thương, Mea Nam Khong, Tonglé Thom, Cửu Long… Tuy nhiên nàng được biết đến nhiều nhất dưới cái tên Mekong.

Sông Mekong là nguồn cảm hứng của tiểu thuyết dữ kiện nổi tiếng “Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng” và ký sự “Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch” cũng như hàng chục bài biên khảo, nghiên cứu giá trị về những biến đổi của hệ sinh thái của Sông Mekong trong những thập niên vừa qua của nhà văn Ngô Thế Vinh. Nguồn cảm hứng này đã, qua năm tháng, biến nhà văn Ngô Thế Vinh thành một chuyên gia về dòng sông quan trọng bậc nhất của vùng Đông Nam Á.

Bởi vì giá trị kinh tế cũng như những nội hàm nghiêm trọng của những biến đổi hệ sinh thái của dòng Sông Mekong dọc con đường ra biển lớn, quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia lên hệ trở nên rối rắm hơn, đặc biệt khi những con đập thủy điện lớn nhỏ được dựng lên ở thượng nguồn lẫn hạ lưu Sông Mekong. Việt Nam gặp nhiều khó khăn về các mặt kinh tế và ngoại giao hơn bất cứ quốc gia nào khác trong vùng khi phải đối phó với những vấn đề nhức đầu liên quan đến những thay đổi bất lợi của hệ sinh thái Sông Mekong và trong cùng lúc, âm mưu bành trướng của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Thưa nhà văn Ngô Thế Vinh, điều gì ở dòng Mekong đã làm anh say đắm? Ở vị trí của một người am hiểu tình hình, anh có thể chia sẻ với người đọc viễn kiến của anh về những thay đổi hệ sinh thái của sông Mekong và hậu quả của chúng trong một tương lai có thể nhìn thấy được?

1. Ngô Thế Vinh

Năm 1995, tôi có kỷ niệm về một ngày rất khó quên với nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến nơi thủ đô tỵ nạn Little Saigon. Ðó vào sáng thứ Bảy của một ngày tiết Thu nắng đẹp miền Nam California, anh Như Phong hôm ấy rủ tôi tới gặp mấy người bạn trẻ thuộc Nhóm Bạn Cửu Long mà tôi chưa hề quen biết nhân có buổi mạn đàm đầu tiên tại Phòng Sinh Hoạt nhật báo Người Việt. Trên bàn thuyết trình hôm đó có kỹ sư Phạm Phan Long, tiến sĩ Phạm Văn Hải và nhà báo Ðỗ Quý Toàn. KS Phạm Phan Long có thể nói là người đầu tiên ở hải ngoại lên tiếng báo động về những hiểm họa sắp xảy đến cho dòng Sông Mekong khi Trung Quốc có kế hoạch xây một chuỗi những con đập Bậc thềm Vân Nam; tuy lúc đó chỉ mới có một con đập dòng chính đầu tiên Manwan/ Mạn Loan 1,500 MW vừa được xây xong (1993) trên sông Lancang — tên Trung Quốc của con Sông Mekong.

Ngày hôm ấy với tôi quả là mối “duyên khởi” bởi vì đây cũng là lần đầu tiên tôi tiếp cận với một vấn nạn mới mẻ của đất nước: đó là những bước phát triển “không bền vững/ non-sustainable development” của con Sông Mekong mà Việt Nam / Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là quốc gia cuối nguồn. Cũng từ đó tôi được làm quen với những người bạn mới như KS Phạm Phan Long, KS Ngô Minh Triết, KS Nguyễn Hữu Chung và rồi thêm những người bạn khác của Mekong Forum, tiền thân của Hội Sinh Thái Việt/ Viet Ecology Foundation về sau này.

Rồi phải kể tới một bài báo đăng trên tờ báo Tuổi Trẻ trong nước số Chủ Nhật (03-11-1996): "Khai thác sông Mekong: nhìn từ góc độ Việt Nam" tuy đứng tên Phạm Phan Long nhưng là do 4 người viết, họ đều là những chuyên gia từ hải ngoại: TS Phạm Văn Hải (Mỹ), KS Nguyễn Hữu Chung (Canada), TS Bình An Sơn (Úc), KS Phạm Phan Long (Mỹ). Nội dung bài viết ấy cho tới nay vẫn còn nguyên tính thời sự. Và riêng tôi, ý thức ngay được đây là một vấn đề nghiêm trọng, lâu dài liên quan tới con Sông Mekong, ĐBSCL cũng là vựa lúa của cả nước.

Năm 1999, một Hội nghị Mekong mở rộng do Mekong Forum và Vietnamese American Science & Technology Society đồng tổ chức tại Nam California với chủ đề: “Hội thảo về Sông Mekong trước Nguy cơ, Ảnh hưởng Phát triển trên Dòng sông, Ðồng Bằng Sông Cửu Long và Cư dân” với sự tham dự của liên hội Tiền Giang và Hậu Giang, TS Sin Meng Srun Hội người Cam Bốt tại Mỹ, và Aviva Imhof thuộc tổ chức Mạng lưới Sông Quốc tế/ International Rivers Network. Kết thúc hội nghị là một bản Tuyên Cáo “The 1999 Mekong River Declaration” được gửi tới Uỷ Hội Sông Mekong /MRC/Mekong River Commission và nhiều tổ chức liên hệ khác.

Nhà báo Như Phong, cho đến ngày anh mất, vẫn cùng chúng tôi tham gia sinh hoạt của Nhóm Bạn Cửu Long với tầm nhìn “địa dư chính trị/ geopolitics” rộng mở trước những nan đề của Sông Mekong gắn liền với vận mệnh của đất nước.

Cũng trong khoảng thời gian ấy, tôi đã thực hiện những chuyến đi quan sát thực địa từ Vân Nam Trung Quốc xuống các quốc gia Lào, Thái Lan, Cam Bốt và ĐBSCL Việt Nam. Qua các chuyến đi ấy, cũng để thấy rằng sự suy thoái của con Sông Mekong là hậu quả dây chuyền của những bước khai thác tự huỷ, tàn phá sinh cảnh, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường… tất cả những hiện tượng tiêu cực ấy đã và đang diễn ra nhanh hơn dự kiến của nhiều người.

Và cho tới nay 1995-2017, cũng đã 22 trôi năm qua rồi, tôi vẫn là người bạn đồng hành bền bỉ với Nhóm Bạn Cửu Long, như những con chim “báo bão” về những bước khai thác huỷ hoại từ các quốc gia thượng nguồn Sông Mekong mà con chủ bài thực sự vẫn là nước lớn Trung Quốc.

Cũng để thấy rằng cho đến nay, nói chung ngót 20 triệu dân sống nơi ĐBSCL thì vẫn "mù thông tin", vẫn không nghĩ rằng họ có quyền có tiếng nói bảo vệ những dòng sông lớn nhỏ như mạch sống của mình, nếu không muốn nói là phó mặc hay buông xuôi.

Theo lượng giá 2010 của Toán Đặc Nhiệm Lượng Giá Môi Sinh Chiến Lược / Strategic Environmental Assessment thuộc International Center for Environmental Management / ICEM [Úc] thì ngoài những con đập Bậc thềm Vân Nam, những con đập dòng chính Hạ lưu sẽ gây ra những tác hại dây chuyền nghiêm trọng như: (1) Làm biến đổi dòng chảy; (2) Gây nguy hại tới nguồn cá và an toàn thực phẩm; (3) Đe doạ tính đa dạng của hệ thuỷ sinh; (4) Thay đổi toàn hệ sinh thái của dòng sông; (5) Giảm trữ lượng phù sa làm mất cân bằng dòng chảy, gây sạt lở bờ sông, các vùng ven biển; (6) Ảnh hưởng sút giảm trong sản xuất nông nghiệp nhất là cho hai vùng châu thổ Tonlé Sap, ĐBSCL; (7) Làm tổn hại vĩnh viễn nếp sống văn hóa cổ truyền dân cư Mekong trong vòng mấy thập niên tới.

Không phải chỉ có sự huỷ hoại từ những con đập thuỷ điện, còn phải kể tới kế hoạch chuyển dòng lấy nước từ Sông Mekong của Thái Lan, kế hoạch đặt mìn phá đá các khúc ghềnh thác của con Sông Mekong của Trung Quốc và Thái Lan để mở rộng thuỷ lộ giao thông… với thời gian đó là những bước huỷ hoại tích lũy không thể đảo nghịch.

Có thể nhắc lại vài hậu quả nhãn tiền: những năm gần đây, ngay cả Mùa Mưa, con Sông Tonlé Sap không còn đủ sức tiếp nước cho Biển Hồ — như trái tim của Cam Bốt thì đang cạn dần; năm 2016 vừa qua ĐBSCL đã không còn Mùa Nước Nổi và bị hạn hán khốc liệt… Sự kiện Thủ tướng Việt Nam ông Nguyễn Tấn Dũng phải kêu gọi Trung Quốc xả nước từ hồ chứa con đập Cảnh Hồng/ Jinhong để cứu hạn cho ĐBSCL đã là một tín hiệu rất bi đát.

Điều gì đáng lo ngại nhất hiện nay? Rõ ràng Việt Nam đã mất cảnh giác và thiếu chuẩn bị trong cuộc chiến môi sinh “không tuyên chiến” của Trung Quốc. Lẽ ra giới lãnh đạo phải tiên liệu nguy cơ này từ nhiều năm trước. Nay lại thêm 9 dự án đập dòng chính hạ lưu của Lào và 2 của Cam Bốt sẽ khiến bài toán cứu nguy ĐBSCL khó khăn và phức tạp hơn nhiều, mà Việt Nam thì chưa có một chiến lược đối phó.

Với tầm nhìn địa dư chính trị trên toàn vùng, chúng ta đang phải chứng kiến một con Sông Mekong-Cửu Long cạn dòng, một Biển Đông đang dậy sóng, mạch sống của dân tộc đang bị chiếm đoạt và vắt kiệt do một Trung Quốc rất hung hăng và không ngừng tham vọng bành trướng.

SarDesai khi nghiên cứu về Việt Nam đã nhận định rất đúng là trong suốt dòng lịch sử, hai yếu tố vừa phá huỷ vừa tạo dựng xã hội Việt Nam đó là: vừa phải đối đầu với cường địch Phương Bắc và vừa chống chỏi với khắc nghiệt của thiên nhiên và thay đổi khí hậu/ climate change như hiện nay; Việt Nam thì vẫn kẹt cứng trong vòng kim cô ấy.

Việt Nam khi bị mất Hoàng Sa, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã viết trên tạp chí Sử Địa 1974: "Một gương sáng lịch sử là mỗi khi thế nước suy hèn vì chia rẽ và nội loạn thì mỗi khi lân bang lấn cõi… Ngày nay vụ Hoàng Sa, [14 năm sau, 1988 thêm vụ Trường Sa, ghi chú của người viết] bị chiếm là triệu chứng cụ thể gây nên bởi sự bất hoà của dân ta… tuy rằng nhiều chứng xưa nay, trong ngoài bảo rằng đó là đất Việt." Và cũng để thấy rằng, nguyên nhân của một thế nước suy hèn và chia rẽ dân tộc hiện nay là do đảng Cộng sản Việt Nam rất lệ thuộc Trung Quốc.

Chỉ có dân chủ hoá đất nước mới có cơ hội đoàn kết và phục hồi nội lực của dân tộc; như yếu tố thiết yếu để sống còn.

2. Phùng Nguyễn: Ra tòa vì “Mặt trận ở Sài Gòn” năm 1972

Năm 1972, tạp chí Bách Khoa Sài Gòn thực hiện buổi phỏng vấn nhà văn Ngô Thế Vinh nhân việc tác giả “Mặt trận ở Sài Gòn” phải ra hầu tòa. Trong Lời Tòa soạn, tạp chí Bách Khoa giới thiệu tác giả và sự kiện như sau:

Nhà văn Ngô Thế Vinh, tác giả truyện dài Vòng Đai Xanh vừa nhận được giải thưởng bộ môn Văn trong Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc 1971 trước Tết, thì sau Tết lại nhận được trát gọi ra tòa về bài "Mặt trận ở Sài Gòn" trên tạp chí Trình Bày số 34, có "luận điệu phương hại trật tự công cộng và làm suy giảm kỷ luật, tinh thần chiến đấu của quân đội." Nếu giải Văn trao cho Vòng Đai Xanh không gây dư luận sôi nổi như giải Thơ thì trái lại vụ án Ngô Thế Vinh đã là đề tài cho rất nhiều anh em cầm bút trên các nhật báo cũng như tuần báo, tạp chí, trên báo dân sự cũng như báo quân đội và dư luận đã nhất trí bênh vực nhà văn quân đội mà ngày lĩnh giải thưởng văn chương vẫn còn lận đận hành quân ở Cao nguyên. Do đó mà có cuộc đàm thoại sau đây để độc giả Bách Khoa biết rõ tác phẩm trúng giải Vòng Đai Xanh đã được thai nghén hình thành ra sao, và tác giả Vòng Đai Xanh đã quan niệm vụ án của anh thế nào.

Cũng xin ghi lại: Ngô Thế Vinh sinh năm 1941 ở Thanh Hóa, Anh đã là chủ bút báo Tình Thương, cơ quan tranh đấu văn hóa xã hội của Sinh viên Y khoa 63-67. Tốt nghiệp y khoa năm 1968, anh gia nhập quân y, phục vụ tại Lực lượng Đặc biệt và đã giữ chức vụ y sĩ trưởng Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù. Tác phẩm đã xuất bản: các tiểu thuyết Mây Bão (1963), Bóng Đêm (1964), Gió Mùa (1965) và Vòng Đai Xanh (1970).

Trong bài phỏng vấn nói trên, nhà văn Ngô Thế Vinh thảo luận về một loạt các vấn đề mà xã hội Miền Nam phải đối diện trong những năm đầu tiên của thập kỷ 1970, từ phong trào đòi tự trị của đồng bào thiểu số ở Tây Nguyên cho đến chế độ kiểm duyệt áp đặt lên báo chí và tác phẩm văn học. Để có một cái nhìn rõ hơn về những khía cạnh được nhà văn Ngô Thế Vinh đề cập, mời các bạn đọc toàn bộ bài phỏng vấn của tạp chí Bách Khoa ở đây. (2)

Thưa anh Ngô Thế Vinh, vụ án “Mặt trận ở Sài Gòn” cho thấy chế độ kiểm duyệt ở miền Nam vào thời điểm phiên tòa diễn ra cũng khắc nghiệt không kém gì chế độ kiểm duyệt của chính quyền CS Hà nội. Cũng tịch thu, cũng đục bỏ, cũng trừng phạt, thậm chí đưa người viết ra tòa. Là người trong cuộc, anh có những nhận xét nào về chế độ kiểm duyệt ở hai miền? Có công bằng hay không khi cho rằng chế độ kiểm duyệt của miền Nam “tốt” hơn hoặc “tử tế” hơn của miền Bắc?

2. Ngô Thế Vinh

Trước khi đi vào cuộc thảo luận chi tiết, tôi có thể trả lời ngay anh Phùng Nguyễn rằng, về "bản chất" chế độ chính trị hai Miền Nam Bắc hoàn toàn khác nhau, nên khi nói về "chế độ kiểm duyệt" bất cứ một so sánh nào cũng khập khễnh và khiên cưỡng vì đã không có cùng một hệ thống giá trị quy chiếu.

Với đảng cộng sản, bản chất là chuyên chính; không có tự do tư tưởng, không có tự do học thuật; sự tàn nhẫn của đối với trí thức và văn nghệ sĩ Miền Bắc là một chính sách nhất quán: đó là sự cưỡng chế thô bạo, bắt họ phải khuất phục và trở thành công cụ vô điều kiện của đảng. Nếu không thế, họ đương nhiên trở thành kẻ thù của đảng, nhưng với vỏ bọc là kẻ thù của nhân dân. Họ hoặc bị tiêu diệt bằng khổ sai tù đầy mà không bao giờ được công khai xét xử, hoặc nếu không thì cũng bị cô lập, đầy đoạ đói khát và vô hiệu hoá cho đến chết, chưa nói tới gia đình người thân của họ cũng bị trù dập và liên luỵ.

Miền Bắc chính thức "không có bộ phận kiểm duyệt" nhưng tinh vi hơn thế nữa là do cả một guồng máy đàn áp đưa tới sự khiếp sợ khiến "kiểm duyệt" đã nằm ngay trong đầu mỗi nhà văn nhà báo và trở thành một thứ quán tính trong phản xạ vô thức, họ đã khắt khe "tự kiểm duyệt trong khi viết", chính sách ấy hiểm độc và tàn ác hơn nhiều vì nó đã phá huỷ con người và triệt tiêu mọi tiềm năng sáng tạo. Vụ án Nhân văn Giai phẩm như một điển hình nhưng cũng để thấy rằng đó chỉ là phần nổi thấy được của khối băng hà / Tip of the Iceberg trải dài trong suốt hơn 70 năm lịch sử chuyên chính của đảng cộng sản Việt Nam.

Trở lại với Văn học Miền Nam 54-75, phải nói ngay rằng không có văn nghệ sĩ sáng tạo nào mà không có "dị ứng" khi nói tới kiểm duyệt. Không bênh vực nó nhưng chúng ta cần đặt mình trong bối cảnh đất nước lúc đó, với cuộc chiến quốc cộng đang diễn ra khốc liệt, cộng sản nằm vùng hiện diện cùng khắp, họ cũng nhân danh tranh đấu cho tự do dân chủ nhưng thực chất là cố tạo một hậu phương mất ổn định, cả gây rối loạn làm suy yếu nền Cộng Hoà non trẻ của Miền Nam mới bước ra từ một chế độ phong kiến. Và đó cũng là lý do tồn tại một hệ thống kiểm duyệt nhằm ngăn chặn xâm nhập của cộng sản.

Rồi còn phải kể tới sự cần thiết của một mặt trận chống "gian thương văn hoá" từ giới Ba Tàu Chợ Lớn rất vô luân, nguỵ trang số kiểm duyệt in lậu và phát hành tràn lan các sách khiêu dâm đồi truỵ và nguy hại hơn nữa là in các sách báo nhi đồng nhảm nhí với hậu quả là đầu độc giới trẻ thanh thiếu niên. (5)

Hồi tưởng lại bối cảnh sinh hoạt ở hậu phương Miền Nam lúc đó, điển hình là hai thành phố lớn Sài Gòn và Huế. Trong lúc khắp chiến trường đang sôi động thì ngay tại các thành phố cũng không hề có yên tĩnh và đang diễn ra một cuộc chiến tranh khác. Riêng tại Sài Gòn, tôi muốn đề cập các vụ ám sát sinh viên, giáo sư và nhà báo do Thành đoàn Cộng sản chủ trương. Khi ấy tôi đang là sinh viên, trong ban biên tập rồi là Chủ bút Nguyệt san Tình Thương của sinh viên Y khoa Sài gòn (1964-1967), tôi có thể nói như là một trong những nhân chứng sống của giai đoạn sôi động này:

“Cũng nên ghi lại một số sự kiện nay đã thuộc về lịch sử: chỉ riêng với trường Y khoa, đã có hai giáo sư bị sát hại [Gs Trần Anh, Cơ Thể học và Gs Lê Minh Trí chuyên khoa Tai Mũi Họng], rồi đến sinh viên Y khoa II Trần Quốc Chương [con của Thẩm phán Trần Thúc Linh] có một giai đoạn vào bưng, sau trở về học lại thì bị trói tay bịt miệng ném từ lầu ba xuống đất ngay trong vòng thành trường Y khoa trên đường Hồng Bàng, một cái chết rất thảm khốc. Sinh viên Luật khoa Lê Khắc Sinh Nhật cũng bị bắn chết. Hai sinh viên khác bên Văn Khoa cũng bị nhóm Biệt Động Thành bắn trọng thương nhưng may mắn sống sót là Ngô Vương Toại, Bùi Hồng Sĩ, hai anh ấy hiện đang sống ở Mỹ. [Ngô Vương Toại đã mất ở Mỹ 03.04.2014]

Riêng tôi, khi ấy đang là sinh viên Y khoa, trong Ban Đại Diện trường Y khoa và cũng là chủ bút báo Sinh viên Tình Thương cùng các bạn đồng môn tranh đấu cho nền tự trị đại học, cả với nỗ lực ngăn chặn sự xâm nhập của cộng sản nên cũng đã bị Thành đoàn Cộng sản ghi vào “sổ bìa đen”của đội quyết tử cảnh cáo cùng với 17 sinh viên thuộc các phân khoa khác. (4)

Rõ ràng có một cái giá phải trả của giới làm báo kể cả làm báo sinh viên trong suốt giai đoạn đó [nói tới sinh hoạt báo chí của Miền Nam 1954-1975, không thể không nhắc tới sự hy sinh của các nhà báo như Từ Chung ký giả nhật báo Chính Luận [1965], một nạn nhân nổi tiếng khác bị ám sát nhưng thoát chết là nhà văn Chu Tử, chủ nhiệm nhật báo Sống [1966],” (3)

Sau khi ra trường, tôi tình nguyện về binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt, phục vụ tại Liên đoàn 81 Biệt cách Dù; với địa bàn hoạt động chủ yếu là Tây Nguyên, tôi vẫn tiếp tục viết như một người lính: Vòng Đai Xanh 1970 và Mặt Trận ở Sài Gòn 1972 được hoàn tất trong giai đoạn quân ngũ này.

Nay nếu nhìn lại, phải nói rằng hệ thống kiểm duyệt ở Miền Nam lúc đó khá cục bộ và cũng do trình độ yếu kém của bộ phận kiểm duyệt, nên dẫn tới cấm đoán một vài tác phẩm giá trị của những tác giả sáng tác trong tự do nhưng rồi mỗi tác giả ấy vẫn có cơ hội để đối thoại với sở phối hợp văn học nghệ thuật của Bộ Thông Tin.

Và khi làm báo Sinh viên Tình Thương, cho dù đôi lần phải đối đầu với tướng an ninh quân đội Nguyễn Ngọc Loan nhưng sau đó đã không có trù dập theo dõi của bộ phận cảnh sát hay an ninh quân đội chỉ vì tờ báo có quan điểm đối lập hay do các tác phẩm bị cấm kỵ. Tưởng cũng nên nhắc lại ở đây là trong giai đoạn 54-75, vẫn có những cây bút được biết là nằm vùng như Vũ Hạnh, Nguyễn Ngọc Lương vẫn được công khai hoạt động viết sách và cả ra báo.

clip_image027

Hình 14: từ phải: Phùng Nguyễn, Ngô Thế Vinh at Duke’s Huntington Beach 05.2015

Tôi cũng muốn ghi lại ở đây một số kinh nghiệm bản thân như một người viết ở Miền Nam trong giai đoạn đó: cuốn tiểu thuyết đầu tay Mây Bão 1963, ban đầu không được giấy phép của hội đồng kiểm duyệt. Tôi lên Bộ Thông tin để khiếu nại, năm ấy tôi đang là sinh viên Y khoa mới 22 tuổi. Tôi đã được ông Giám Đốc Thông Tin Phạm Xuân Thái tiếp, ông ấy rất trí tuệ và hoà nhã. Ông cho biết chưa đọc cuốn sách nhưng theo tường trình của ban kiểm duyệt thì cuốn sách có nội dung phản ánh quá nhiều nét tiêu cực của xã hội lúc bấy giờ. Ông trao đổi với tôi về quan niệm thiên chức của nhà văn: cần phản ánh cả phần chính diện của xã hội thay vì chỉ có phản diện; và rồi theo yêu cầu của tôi, ông đồng ý giao cho một nhân viên khác trong hội đồng kiểm duyệt đọc lại Mây Bão. Người đọc thứ hai ấy là Nguyễn Thanh Đàm, không ai khác lại chính là nhà thơ Song Hồ. Anh ấy rất thích Mây Bão và nói rằng tác phẩm đầu tay của tôi có nét của một tác phẩm lớn trong tương lai. Sách được giấy phép xuất bản, nhà thơ Song Hồ trở thành bạn văn của tôi những năm sau này cho đến ngày anh mất ở Mỹ năm 2009.

Rồi tới cuốn Vòng Đai Xanh 1970, một tiểu thuyết tư liệu viết về cuộc chiến tranh bị lãng quên trong cuộc Chiến tranh Việt Nam đang diễn ra lúc đó. Các sắc dân Thượng nổi dậy với phong trào FULRO/ Front Unifié de Lutte des Races Opprimées đòi quyền tư trị cho vùng Tây Nguyên. Vòng Đai Xanh cũng bị cấm đoán lúc ban đầu nhưng đã được nhà văn quân đội Thế Uyên, chủ trương Nhà xuất bản Thái Độ kiên trì đối thoại với Bộ Thông Tin, và sách được xuất bản và cả được trao giải văn học sau đó.

Hiện tượng "cũng tịch thu, cũng đục bỏ, cũng trừng phạt, thậm chí đưa người viết ra tòa" theo tôi đó chỉ là phản ứng theo hoàn cảnh, rất nhất thời, và cũng do trình độ nhận thức rất khác nhau của các thành phần nhân sự trong hội đồng kiểm duyệt. Các biện pháp chế tài trừng phạt, kể cả ra toà mang nặng tính hình thức của trò chơi dân chủ, và những tình huống xem có vẻ như cực đoan ấy kết cục có thể so sánh với những trận bão trong ly trà/ storm in a teacup, và để rồi sau đó mọi sự trở lại sinh hoạt gần như bình thường.

Thêm một ví dụ, năm 1972, khi ấy nhà văn Nguyễn-Xuân Hoàng đang ở Sài Gòn làm báo và dạy học, tôi thì theo đơn vị hành quân trên Tây nguyên; nhưng cả hai cùng trải qua một kinh nghiệm tưởng cũng nên ghi lại. Do truyện ngắn Mặt Trận ở Sài Gòn đăng trên tạp chí Trình Bầy tôi nhận được trát ra hầu toà với tội danh "dùng báo chí phổ biến luận điệu phương hại trật tự công cộng và làm suy giảm kỷ luật tinh thần chiến đấu của quân đội", mà chính tôi đang là một thành phần trong đó. Khi về Sài Gòn để ra hầu toà, gặp Nguyễn Xuân Hoàng tôi được biết anh cũng nhận được trát toà vì một truyện ngắn Cha và anh trên tờ báo Vấn Đề của nhà văn Vũ Khắc Khoan, trong đó Hoàng có nhắc tới bài hát Bà mẹ Gio Linh của Phạm Duy.

Tôi và Hoàng đều ra toà, đều có những luật sư bạn tình nguyện biện hộ. Kết thúc bằng hai bản án mang tính tượng trưng. Nguyễn Xuân Hoàng sau đó vẫn trở lại dạy học và làm báo, riêng tôi thì trở về với đơn vị hành quân và không lâu sau đó vẫn được đi tu nghiệp chuyên môn ngành Y khoa Phục hồi ở San Francisco, Hoa Kỳ. Tôi và Hoàng vẫn có sách xuất bản. Và đời sống thì vẫn không ngừng chảy, nói theo ngôn từ Nguyễn-Xuân Hoàng. Đây là điều không thể nào hiểu được đối với giới văn nghệ sĩ sống trong chế độ cộng sản ở Miền Bắc và rồi cả ở Miền Nam sau 1975.

Trong bối cảnh ngoài tiền tuyến thì đầy máu lửa, và một hậu phương cũng không kém sôi động nóng bỏng như thế, nhưng nói chung các văn nghệ sĩ Miền Nam trong một chừng mực nào đó vẫn có một không gian cho tự do sáng tác. Cứ nhìn lại số lượng đồ sộ và đa dạng của những tác phẩm của 20 năm Văn học Miền Nam 54-75 đã chứng minh điều đó.

Là người viết, chưa bao giờ lên tiếng bênh vực cho sự hiện hữu của một hệ thống kiểm duyệt nhưng rồi có khoảng cách thời gian để nhìn lại, có thể coi đây như những "tổn thất phụ/ collateral damages" trong cuộc đấu tranh quốc cộng mà văn hoá và truyền thông báo chí là một trận tuyến khác.

3. Phùng Nguyễn: Chân dung văn nghệ sĩ

Tháng 11 năm 2010, tạp chí Da Màu ấn hành bài viết “Một Cao Xuân Huy Khác” của Ngô Thế Vinh để tưởng nhớ tác giả “Tháng Ba Gãy Súng” trong một cách thế rất khác thường. Bài viết bắt đầu với phần giới thiệu và giải thích Melanoma, một căn bệnh ung thư hiếm hoi mà nhà văn Cao Xuân Huy đã bất hạnh vướng phải và đành chia tay với trần gian một cách vội vã. Tháng 6 năm 2014, cũng trên tạp chí Da Màu, nhà văn Ngô Thế Vinh gửi đến bạn đọc “Nguyễn-Xuân Hoàng trên con dốc Tử Sinh.” Không giống như bài viết về Cao Xuân Huy, “Nguyễn Xuân Hoàng trên con dốc Tử Sinh” là một cái nhìn khá cân bằng của tác giả dành cho nhà văn Nguyễn-Xuân Hoàng về các mặt con người, văn chương, và bệnh lý. Theo người viết, chính là ở thời điểm này, nhà văn Ngô Thế Vinh bắt đầu song hành với bác sĩ Ngô Thế Vinh, cựu y sĩ trưởng Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, trên cuộc hành trình tạo dựng [lại] diện mạo của các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ thân thuộc của ông. Sau Cao Xuân Huy, Nguyễn-Xuân Hoàng là Nghiêu Đề, Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền. Rồi Võ Phiến, Mặc Đỗ, Linh Bảo, Nguyễn Đình Toàn, Nhật Tiến. Và gần đây nhất, Đinh Cường. Người viết, đồng thời là người đọc trung thành, ước mong nhà văn Ngô Thế Vinh tiếp tục cuộc hành trình kỳ thú này.

Một nhận xét được nhiều người chia sẻ: Tuy thành phần văn nghệ sĩ được nhà văn Ngô Thế Vinh chọn để vẽ chân dung thì đa dạng, nhưng có một đặc điểm chung, họ hoặc đã qua đời, hoặc, trong vòng quay Sinh Lão Bệnh Tử, ở vào buổi chiều tà bóng xế của đời người. Bạn đọc băn khoăn: Liệu đây có phải là một trong những yếu tố quan trọng để nhà văn Ngô Thế Vinh chọn đưa vào loạt bài chân dung văn nghệ sĩ?

Quá [sinh tử] quan này gánh chân dung
Nửa bầu y sĩ, nửa thùng văn gia!

Có bao nhiều phần văn chương, bao nhiêu phần y học ở mỗi bức chân dung, thưa anh Ngô Thế Vinh?

3. Ngô Thế Vinh

Loạt bài chân dung văn nghệ sĩ đến với tôi như một sự "tình cờ". Khởi đi từ một bài viết "Nhớ về người bạn Tấm Cám Nghiêu Đề"; hoạ sĩ Nghiêu Đề là một cố tri từ tuổi rất thanh xuân, sau bài viết đó, tôi nhận được feedback từ mấy người bạn cũ của Nghiêu Đề; trong số đó có Đinh Cường, tỏ ra rất tâm đắc với bài viết và đã đưa ra nhận định: không thể viết về Nghiêu Đề hay hơn Ngô Thế Vinh nên Đinh Cường có đề nghị sẽ đưa vào cuốn sách Đi Vào Cõi Tạo Hình II sắp xuất bản viết về những hoạ sĩ cùng thời từ 1957 đến 1966, năm thành lập Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam. Với tôi, thì đề nghị của Đinh Cường là một niềm vui. Rồi phải kể tới những khích lệ của các bạn văn như anh Phạm Phú Minh Diễn Đàn Thế Kỷ, anh Phùng Nguyễn chủ biên Da Màu, nhà thơ Thành Tôn, mỗi khi đọc một bài mới chân dung văn nghệ sĩ.

Bác sĩ Hà Ngọc Thuần một bạn đồng môn, hiện sống ở Úc từng làm báo sinh viên Y khoa Tình Thương với tôi từ 1964 – 1967, được coi là một trong những cây bút academic của SVYK Sài Gòn lúc bấy giờ, trong một eMail mới đây anh viết: "Với những bài trên Web của Ngô Thế Vinh chúng ta đã đọc, anh thật-sự đã thành công trong loại essai biographique. Với những dòng ngắn gọn, những nét chấm phá, vài mẩu chuyện tâm tình, giới thiệu con người và tác phẩm của nghệ sĩ, với những chi tiết đặc biệt khiến cho người đọc làm quen và lập tức có cảm tình với người nghệ sĩ. Và muốn biết thêm nhiều hơn nữa. Với loại "web-essay" của thời đại tiến bộ kỹ thuật, chúng ta có những bài ngắn mà cô đọng hơn, nhiều hình ảnh hơn, và rất có thể, có những đoạn phim sống-động với tiếng nói và âm-nhạc. Như bài viết về Nguyễn Đình Toàn, chúng ta có thể nghe CD Nhạc Chủ Đề từ hơn nửa thế kỷ trước, về Hoàng Ngọc Biên, chúng ta có thể nghe bản nhạc Hồ Thu do ca sĩ Ngọc Mai hát và rất ít ai biết Hoàng Ngọc Biên còn là một nhạc sĩ. Với bài viết về các hoạ sĩ, chúng ta được thưởng thức nhiều những bức tranh full color mà với kỹ thuật ấn loát cổ điển rất khó mà có thể thực hiện được".

Anh Phạm Phú Minh, tác giả Hà Nội Trong Mắt Tôi, chủ bút Diễn Đàn Thế Kỷ, một hôm anh bất chợt nói với tôi: "Bây giờ thì tôi có một cái nhìn khác về anh Vinh," câu nói của anh khiến tôi hơi ngạc nhiên, anh Minh giải thích: "từ trước đến nay, tôi vẫn nghĩ anh là một người nghiên cứu về Sông Mekong, nhưng nay, anh Vinh là một ngòi bút viết về chân dung các văn nghệ sĩ Việt Nam ở hải ngoại."

Vẫn anh Phạm Phú Minh, trong một dịp phát biểu khác khi anh đọc bài viết Những Năm Ảo Vọng, GS Phạm Hoàng Hộ và bộ sách Cây Cỏ Việt Nam: "Nếu tôi nói bài của anh Vinh viết về Phạm Hoàng Hộ là rất hay, thì hình như tôi chưa nói gì cả. Chữ "hay" thông thường ấy quá tổng quát, không nói lên được gì về tính chất các bài viết của anh. Phải nói một bài như bài này nó có tính chất bác học, rộng khắp. Mà lãnh vực nào anh cũng đạt tới trình độ rộng khắp như vậy: những tình cảm sâu xa của một nhà văn, vấn đề chuyên môn của một nhà khoa học, sự đe dọa tương lai của một dòng sông… đề tài nào anh cũng đề cập tới với tất cả các khía cạnh cần biểu đạt của nó."

Nghiên cứu về Sông Mekong là một dự án tôi đã và đang theo đuổi hơn 20 năm qua, nhưng viết về chân dung các văn nghệ sĩ, thì tôi chưa hề có một dự án như vậy. Mỗi lần có dịp viết về một bạn văn nghệ, một khuôn mặt văn hoá, ghi lại một chặng đường, một đoạn đời của một thời kỳ từng sống và chia sẻ phải được kể là khoảnh khắc rất hạnh phúc.

Câu hỏi của anh Phùng Nguyễn, rằng yếu tố nào đã khiến tôi chọn nhân vật đưa vào loạt bài chân dung văn nghệ sĩ: rất tình cờ thôi. Không phải, như Anh nói là vì họ "đã qua đời, đã bước vào buổi chiều tà bóng xế của đời người hay đang lao đao trong vòng quay Sinh Lão Bệnh Tử", nhưng yếu tố quan trọng nhất là do tôi đã có mối liên hệ quen biết và thân thiết trước đó; và cũng từ đó tôi đã có thể dễ dàng tiếp cận với nguồn tư liệu cá nhân và cả những điều khá riêng tư.

Có lần tôi nói chuyện với Nguyễn Đình Toàn, khi ấy tôi chưa viết về anh, là như một nguyên tắc khi viết, trong đó có loạt bài chân dung văn học, tôi quan niệm là bài viết có thể thiếu nhưng phần tư liệu thì cần chính xác và không thể sai.

Và rồi với câu hỏi, có bao nhiều phần văn chương, bao nhiêu phần y học ở mỗi bức chân dung?

Không phải ở mỗi chân dung đương nhiên là có phần y học, phần y học chỉ là tình huống rất cá biệt, như trường hợp Cao Xuân Huy, Nguyễn-Xuân Hoàng, Đinh Cường. Làm sao không quan tâm tới phần y khoa khi chính bạn mình bị ngã bệnh và đang cheo leo trên con dốc tử sinh và cũng không phải người bệnh nào cũng dễ dàng chấp nhận thực trạng bệnh của mình. Và cũng không dễ dàng gì để mà đào sâu vào phần y học ấy khi niềm đau của bạn cũng như niềm đau của chính người viết.

Còn một khía cạnh nữa thuộc lãnh vực medical ethics / đạo đức y khoa, đó là quyền "riêng tư" của bệnh nhân mà người thầy thuốc phải tôn trọng. Do đó, không phải cứ sinh hoạt trong lãnh vực chuyên môn y khoa mà muốn viết gì thì viết và tôi đã rất tôn trọng nguyên tắc y đức ấy. Như với Cao Xuân Huy, người bạn văn đã mất, dù đã có tình bằng hữu nhiều năm với Huy, nhưng tôi chỉ có thể viết về khía cạnh y khoa căn bệnh của Huy khi có được sự đồng ý của chị Cao Xuân Huy và hai con gái đã trưởng thành của Anh.

Nếu là những người bạn còn sống, họ đều được đọc trước bản thảo và có toàn quyền chấp nhận hay không phần y khoa ấy. Nguyễn-Xuân Hoàng thì chấp nhận toàn bản thảo viết về tiến trình căn bệnh sarcoma mà anh vướng phải. Nguyễn Đình Toàn thì có bày tỏ: "Vinh ơi, sáng nay đọc bài của bạn, thấy lạ, hình như là chuyện của một người nào khác, dù mọi điều đều gần đúng như sự thật, tựa coi lại một cuốn phim. Cũng may, những cái thật ấy nay đã thành giả rồi, [đã qua rồi] nên đỡ sợ."

Riêng với Đinh Cường, ban đầu anh chấp nhận bản thảo bài viết nhưng sau đó cho biết: "Đọc bài Vinh thấy sợ" và yêu cầu tôi giản lược tối đa phần y khoa và cả thay thế tấm hình autoportrait 04.2015 mà Đinh Cường gửi tặng tôi sau đợt hoá trị / chemo để cho bài viết được nhẹ nhàng hơn và dĩ nhiên tiếng nói cuối cùng vẫn là bạn mình và tôi tuyệt đối tôn trọng.

Với 18 chân dung văn học nghệ thuật và văn hoá đã hoàn tất, tôi nhận được nhiều gợi ý nên cho xuất bản như một tuyển tập, nếu có một cuốn sách "tạo dựng [lại] diện mạo của các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ" như vậy, thì đây sẽ là trang sách riêng đề tặng cho Phùng Nguyễn.

THAY CHO KẾT TỪ

Chỉ với ba câu hỏi của Phùng Nguyễn gửi Nhã Thuyên, Trần Mộng Tú, Hoàng Hưng… chứng tỏ Anh đã đọc rất kỹ và thấu tâm can của mỗi người mà Anh tiếp cận. Với nội dung từng câu hỏi tới phần trả lời của mỗi đối tượng, tôi thấy như manh nha cho dự án một tác phẩm văn học rất lạ và rất mới của Phùng Nguyễn mà tôi chưa biết Anh sẽ đặt tên là gì. Có lẽ đây là một trong những công trình dở dang như chính cuộc đời dở dang "đứt gánh giữa đường" của Phùng Nguyễn.

Tôi sẽ rất phụ Anh nếu chỉ trả lời sơ sài các câu hỏi, với tôi mỗi câu hỏi của Phùng Nguyễn có tính thách đố như đề cương cho một bài luận văn. Cho dù Anh không còn nữa, nhưng với lòng quý mến Phùng Nguyễn và với tất cả tâm cảm, tôi vẫn hoàn tất phần trả lời cả ba câu hỏi để gửi tới Anh, đồng thời cũng là gửi tới lớp người trẻ, các thế hệ sinh sau 1975 sau cuộc chiến tranh Việt Nam, như bước tìm lại một khoảng thời gian đã mất.

 

California 03.2015 – 03.2017

Tham khảo:

(1) Phùng Nguyễn, Như Chưa hề Giã Biệt, Ngô Thế Vinh. Diễn Đàn Thế Kỷ

http://www.diendantheky.net/2015/12/ngo-vinh-phung-nguyen-nhu-chua-he-gia.html#more

(2) Lê Ngộ Châu. Tạp chí Bách Khoa đàm thoại với Ngô Thế Vinh: từ Vòng Đai Xanh tới Mặt trận ở Sài Gòn. http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=11606&rb=0102

(3) Ngô Thế Vinh. Nguyệt San Tình Thương 1963 – 1967; Một Thời Nhân Bản. Tập san Y Sĩ, số 184, 01.2010 . Diễn đàn Cựu Sinh viên Quân Y. http://www.svqy.org

(4) Nguyễn Văn Trung. Đôi điều trao đổi với nhà văn Mai Kim Ngọc. Văn Học số 124, Hoa Kỳ. trang 68; Gs. Nguyễn Văn Trung kể lại: “Tôi vẫn còn giữ một danh sách của đội quyết tử cảnh cáo một số sinh viên thuộc các phân khoa như Ngô Thế Vinh, Y khoa”.

Comments are closed.