Phan Thúy Hà
1.
Warsaw bị tàn phá, Wladyslaw Szpilman sống sót nhờ ẩn nấp trong tòa nhà của thành phố chết, một sĩ quan Đức đã phát hiện ra. Bộ phim The Pianist cho khán giả chứng kiến một cảnh bi tráng: Trong căn phòng đổ nát, một người Do Thái suy kiệt thể lực, quần áo rách rưới, râu tóc bờm xờm, đôi mắt sâu thẳm vì đói khát, run rẩy chạm các ngón tay lên phím đàn, giai điệu Chopin vang lên, bên cạnh là người sĩ quan Đức lặng đi trong xúc động.
Bộ phim dựa trên câu chuyện có thật của nghệ sĩ dương cầm Wladyslaw Szpilman.
Và sĩ quan Đức trong cảnh quay đó cũng là thật, không phải nhân vật tưởng tượng.
Một sĩ quan Đức trong cỗ máy diệt người Do Thái đã đứng im khi phát hiện ra một người Do Thái đang lẩn trốn. Người sĩ quan Đức đó đã không bắn, mà mang bánh mì, nước uống, chăn, áo khoác cho người Do Thái sống sót qua chiến tranh.
Trong nỗi xúc động và biết ơn, tôi vào internet tìm hiểu người sĩ quan Đức.
2.
Wilhelm Adalbert Hosenfeld, thường được gọi là Wilm, sinh năm 1895, trong một gia đình công giáo. Đang học tại chủng viện sư phạm công giáo thì chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Wilm phải tham gia cuộc chiến với tư cách là một lính bộ binh. Sau khi bị thương, hồi phục, Wilm về quê hương, bắt đầu làm giáo viên vào năm 1918. Wilm kết hôn với một người vợ theo đạo Tin lành, và có năm đứa con, sống một cuộc sống giản dị. Ông làm hiệu trưởng kiêm giáo viên một trường tiểu học ở Thailau, kiếm thêm thu nhập bằng chơi đàn organ trong nhà thờ, dạy bổ túc, điều hành dàn hợp xướng địa phương, quan tâm đến những tư tưởng cải cách giáo dục và phong trào trường học cộng đồng, thường xuyên tổ chức các chương trình học tập và văn hóa phong phú cho dân làng.
Năm 1935, như nhiều người Đức cùng thế hệ, Wilm gia nhập Đảng Quốc Xã với niềm tin Hitler sẽ giúp nước Đức gượng dậy sau chiến tranh. Tháng 8 năm 1939 Wilm phải nhập ngũ trở lại, khi Đức Quốc Xã chiếm đóng Ba Lan. Wilm được phái sang Pabianice chuyên trách công việc hành chính.
Wilhelm không theo chủ nghĩa bài Do Thái của Đức Quốc Xã. Ông không ngần ngại thể hiện sự thân thiện với người Do Thái. Gặp một cô gái đang mang bầu chạy dọc đường, ông dừng xe, hỏi cô đi đâu, cô sợ hãi trả lời rằng chồng cô đang bị giam giữ trong trại tù. Ông hỏi tên chồng cô và đến trại tù yêu cầu thả người tù đó ra và ba ngày sau chồng cô được thả.
Một lần khác, biết rằng cảnh sát mật đã tập hợp những người đàn ông, bao gồm anh rể của một linh mục Ba Lan, đưa lên xe tải chở đến một trại lao động cưỡng bức và anh ấy sẽ bị xử tử, Wilm nói với một sĩ quan SS rằng anh đang cần một người đàn ông cho một công việc và anh đã lên xe tải vờ như ngẫu nhiên chọn anh rể của vị linh mục.
Tháng 6/1940, Wilm được chuyển đến Warsaw phụ trách trường thể thao của quân đội. Đồng cảm với người Ba Lan, ông đã học tiếng Ba Lan, đi lễ trong nhà thờ Ba Lan.
Wilm là một sĩ quan hành chính, không tham gia đàn áp hay chiến đấu. Tại Warsaw, tận mắt chứng kiến cảnh binh lính Đức đàn áp, tàn sát người Ba Lan và người Do Thái ông đã quá thất vọng với guồng máy mà mình đang phục vụ.
Ông không công khai chống lại Đức Quốc Xã nhưng âm thầm làm khác đi, bằng những hành động nhân đạo:
Che giấu danh tính cho học sinh Do Thái bị truy nã.
Làm giấy tờ giả cho linh mục Antoni Cieciora, một thành viên của quân kháng chiến Ba Lan, nằm trong danh sách truy nã của Gestapo.
Bảo vệ Leon Warm, một người Do Thái đã trốn thoát khỏi trại hủy diệt Treblinka, sắp xếp công việc cho ông trong trường thể thao.
Ông giấu những người Do Thái trong nhà kho của trường thể thao Wehrmacht, làm giấy tờ giả cho họ và đưa họ lẫn vào trong số công nhân Ba Lan. Bằng chứng của việc này là ngày 29/3/1944, có 27 người Ba Lan đã viết và ký một tờ thư cảm ơn ông đã cứu giúp họ.
Wilm nhìn thấy trong từng tù nhân bị đánh, trong từng người Do Thái bị lùa vào trại tập trung là một khuôn mặt của Chúa. Ông không làm ngơ, mà cố gắng giúp từng người một, trong hoàn cảnh có thể giúp được. Đây là một việc rất rất mạo hiểm, ông có thể bị xử bắn nếu bị phát hiện ra. Niềm tin vào Chúa đã cho ông sức mạnh để tồn tại giữa nỗi kinh hoàng và cũng khuyến khích ông giúp đỡ những người bị bắt.
Trong suốt bốn năm ở Warsaw ông thường xuyên viết nhật ký, viết thư cho vợ, kể những hành động mà Đức Quốc Xã đã gây ra cho con người. Những tập thư, nhật ký được bí mật gửi về cho vợ qua các đồng nghiệp tin cậy.
Trích một số đoạn trong nhật ký, thư:
“Người ta nói rằng trong tuần này đã có 30.000 người Do Thái đã bị đưa ra khỏi khu Ghetto, tới “phía Đông”. Và giờ người ta biết họ bị làm gì.
Ở gần Lublin, có những tòa nhà với “phòng sưởi điện”, nơi con người bị dồn vào thiêu sống, mỗi ngày có thể giết hàng nghìn người.
Tại sao người Do Thái không chống lại? Phần lớn họ kiệt sức vì đói khổ, chỉ còn biết buông xuôi. Một số khác có lẽ thấy cái chết là giải thoát” – Nhật ký 25/7/1942.
“Hôm nay là lễ bế mạc “Tuần thi đấu quân đội”. Dù bề ngoài mọi thứ vui vẻ nhưng tâm trí tôi không ở đó. Những sĩ quan, nhất là Bộ chỉ huy, đều thờ ơ, mệt mỏi, chán nản. Họ biết những tội ác kinh hoàng đang diễn ra nhưng họ im lặng” – Nhật ký ngày 6/9/1942.
“Tại sao chúng ta im lặng mà không phản đối? Chúng ta quá hèn nhát, quá thoải mái, quá giả dối và mục ruỗng…” – Nhật ký ngày 26/9/1942.
“Chúng ta không chỉ chịu trách nhiệm vì những gì mình làm, mà còn vì những gì mình để mặc cho xảy ra”.
“Vô số người Do Thái đã bị giết, không cần lý do nào. Nó vượt quá sự hiểu biết. Một SS khoe khoang về cách họ giết người Do Thái khi họ chạy ra khỏi các tòa nhà đang cháy. Lửa thiêu rụi toàn bộ khu ổ chuột. Những kẻ tàn bạo này nghĩ rằng chúng ta sẽ giành chiến thắng trong cuộc chiến theo cách đó. Chúng ta đã thua trong cuộc chiến với những vụ giết người hàng loạt đáng ghê sợ này với người Do Thái. Chúng ta không xứng đáng được thương xót, tất cả chúng ta đều có tội.” – Nhật ký, ngày 16 tháng 6 năm 1943.
“Toàn bộ quốc gia của chúng ta sẽ phải trả giá cho tất cả những sai lầm này và sự bất hạnh này, tất cả những tội ác mà chúng ta đã phạm phải’. – Nhật ký ngày 4-12-1943.
“Tôi thấy người ta bị bắn giữa phố, chỉ vì là người Do Thái. Tôi thấy những đứa trẻ bị đánh đến chết. Chúng ta không còn là con người nữa, chúng ta là lũ quỷ trong bộ quân phục”.
“Chúng ta đã đánh mất linh hồn mình. Với cuộc tàn sát này, nước Đức đã tự kết án. Tôi xấu hổ khi đi trên đường phố Warsaw”.
“Nếu mỗi người chỉ cứu một mạng sống, thế giới này đã khác”.
Sau cuộc nổi dậy ở Warsaw, Wilm tạm thời được bổ nhiệm làm sĩ quan tình báo, với nhiệm vụ thẩm vấn các thành viên của quân kháng chiến Ba Lan và binh lính Liên Xô. Wilm yêu cầu đối xử với tù nhân theo quy tắc của công ước Geneva. Việc đó trái với người đứng đầu SS – coi những người này là những tên cướp và phiến quân. Trong quá trình thẩm vấn, Wilm đã cố gắng giúp các thành viên của phe kháng chiến, những người mà ông ngưỡng mộ lòng dũng cảm.
Ngày 17/11/ 1944, tại một tòa nhà bỏ hoang trên đại lộ 223 ở Warsaw, ông đã gặp Wladyslaw Szpiliman, giúp cho Szpiliman một chỗ ẩn náu, mang thức ăn nước uống cho anh. Ngày 12/12 là lần cuối cùng họ gặp nhau, vào tháng cuối cùng cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Khi Hồng quân tiến vào Ba Lan đầu năm 1945, Wilm bị bắt làm tù binh. Trong thời gian bị giam, từ năm 1945 đến 1949, Wilm đã viết thư về cho vợ, nhắc tên Szpiliman, Leon Warm và một số người ông đã cứu, nhắn vợ tìm cách liên hệ với họ để nhờ họ làm chứng minh oan cho ông không phải là tội phạm chiến tranh. Ông viết: “Có lẽ họ vẫn còn sống, nếu họ nhớ đến tôi, họ sẽ tìm cách nói lên điều đó”.
3.
Szpiliman không biết tên người sĩ quan Đức đã cứu sống mình. Anh chỉ biết đó là một sĩ quan Đức. Sau chiến tranh, Szpiliman tiếp tục làm công việc âm nhạc tại đài phát thanh Ba Lan, và mang trong lòng nỗi biết ơn với một sĩ quan Đức. Năm 1946, anh viết cuốn sách kể lại hành trình trốn chạy của mình trong nạn diệt chủng Do Thái, trong đó có những trang dành cho vị ân nhân của mình. “Một sĩ quan Đức phát hiện ra tôi, tôi nghĩ anh ta sẽ bắt tôi, bắn tôi nhưng không,…”. Danh từ “sĩ quan Đức” trong bản thảo bị biên tập viên đổi thành “một sĩ quan Áo”. Chính quyền Ba Lan lúc đó không chấp nhận được việc giới thiệu một người Đức có hành động nhân đạo. Đề tài người Đức tốt là nhạy cảm.
Lần theo những lá thư và nhật ký mà chồng gửi về trước đó, vợ Wilm liên hệ được với Leon Warm. Leon Warm đã đến tận Thailau thăm hỏi mẹ con họ và hứa sẽ liên hệ cho Szpiliman biết sự việc.
Szpiliman nhận được lá thư của Leon Warm, người đó đã kể cho Szpiliman biết số phận của người sĩ quan đã cứu họ.
Leon Warm, Szpiliman và một số người nữa đã viết thư, xin được làm chứng trong phiên tòa để Wilm được giảm án. Họ không có ảnh hưởng chính trị, không có quan hệ ngoại giao nào với Liên Xô, và những bức thư xin khoan hồng bị từ chối. Những lá thư viết cho Wilm không đến được với Wilm.
Trong bức thư cuối cùng gửi về nhà, năm 1949, Wilm viết: “Có thể ai đó đang cố gắng giúp chúng ta, ở đâu đó, trong im lặng. Tôi tin vào điều thiện mà tôi đã gieo. Không có gì mất đi, chỉ có những điều chưa kịp đến”.
Những người từng được ông cứu không được phép làm chứng cho ông. Wilm không trực tiếp chiến đấu, không ra lệnh tàn sát nhưng làm việc trong một hệ thống tàn sát, dù không có bằng chứng tội phạm, năm 1950 ông vẫn bị tòa án quân sự Liên Xô kết án 25 năm tù khổ sai. Wilm bị tra tấn nhiều lần và kiệt sức, tới năm 1952, vợ con ông nhận được một thông báo mơ hồ là ông đã chết trong khi thụ án.
Ông đã cứu nhiều người (có con số là 60 người) nhưng họ không cứu được ông.
Chiến tranh kết thúc, bạo lực thì không. Bạo lực ở một hình thức khác, một nhân danh khác.
4.
Trước khi chết, Wilm để lại hàng trăm lá thư và nhiều cuốn nhật ký đã kịp gửi về nhà. Vợ ông giữ gìn tất cả chứng từ đó trong im lặng. Sau tất cả đã xảy ra, như bao gia đình có chồng, cha là sĩ quan Đức, họ sống trong cô lập, mặc cảm. Biết chồng, cha mình đã cứu người Do Thái nhưng họ không dám công khai. Nếu công khai nhật ký, thư của Wilm trong hoàn cảnh đó thì người ta sẽ không đọc như một chứng từ đạo đức mà như là bào chữa cho tội ác phát xít. Con trai ông chia sẻ: “Tôi lớn lên với nỗi sợ nói ra rằng cha mình là sĩ quan Wehrmacht. Không ai muốn nghe thêm về người tốt trong chiến tranh. Ai nói ra, người ta nghĩ là ngụy biện”.
Tới thập kỷ 90, Ba Lan dân chủ hóa, nước Đức thống nhất. Cuốn sách bị lãng quên của nghệ sĩ dương cầm được dịch ra tiếng Anh và phát hành trên nhiều nước. Gia đình Wilm liên hệ với Wladyslaw Szpiliman. Năm 1998, cuốn sách được tái bản ở Đức, tên Wilhelm Adalbert Hosenfeld được đưa vào sách. “Tôi không thể để ông ấy vô danh mãi được. Ông ấy là người Đức, và chính ông ấy đã dạy tôi rằng không phải mọi người Đức đều kẻ giết người”, Szpiliman trả lời với báo chí.
Năm 2002, đạo diễn Roma Polanski đã dựa vào cuốn sách dựng thành bộ phim The Pianist và đoạt giải Oscar – năm 2003. Khi đó thế giới mới bắt đầu hỏi, vị sĩ quan Đức đó là ai.
Sau hơn nửa thế kỷ im lặng, các con của Wilm đã để cha của mình được nói lên bằng chính lời của mình. Họ biên soạn và cho in cuốn sách tập hợp các thư từ nhật ký và các lời ghi chú của Wilm, với tên sách “Tôi cố gắng cứu bất cứ ai có thể”. Trang đầu cuốn sách in bài viết viết của vợ ông: Tôi đã giữ những trang này suốt đời, vì tôi sợ người ta sẽ hiểu sai. Nhưng giờ đây, tôi tin rằng ông ấy có quyền được lắng nghe, và con cháu chúng ta có quyền biết rằng vẫn có người Đức đã không quên làm người”.
Sau quá trình điều tra hồ sơ của Wilhelm Adalbert Hosenfeld, năm 2007 ông được Ba Lan truy tặng Huân chương Polonia Restituta, một trong những huân chương cao quý của Ba Lan. Sau khi nghệ sĩ dương cầm mất, con trai ông tiếp tục tác động lên báo chí, truyền hình đề nghị Viện Yad Vasheem (Israel) công nhận Wilhelm Adalbert Hosenfeld là “Người công chính giữa các dân tộc” năm 2009, ông được trao danh hiệu cao quý dành cho những ai đã liều mạng cứu người Do Thái trong Holocaust. Năm 2011, tấm bảng tưởng niệm được gắn tại tòa nhà nơi người sĩ quan Đức và nghệ sĩ dương cầm gặp nhau ngày 17/11/1944, với sự chứng kiến của hai người con của họ.
Câu chuyện của Wilhelm Adalbert Hosenfeld cho ta thấy không hệ thống nào đủ mạnh để tước đi nhân tính nếu ai đó vẫn còn muốn làm người. Đạo đức là trong thời khắc tàn bạo nhất vẫn không biến mình thành công cụ của bạo lực, dám hành động theo đúng lương tâm.

Bìa cuốn sách gia đình làm cho Wilm.
5.
Câu chuyện vị sĩ quan Đức làm tôi nhớ đến một câu chuyện khác, gần hơn, ở ngay đất nước mình. (Tôi đã ghi trong cuốn sách Những trích đoạn của các anh, với tựa bài “Trường hợp của bác Nguyễn Văn Hùng”)
Năm 1965, anh lính trẻ Nguyễn Văn Hùng bị bắt làm tù binh. Người thẩm vấn anh là Trung úy Trần Khắc Thiện. Trái với hình dung về một “kẻ thù”, ông Thiện lại tỏ ra một người hiền hậu, ân cần, gọi là thẩm vấn nhưng ông chỉ hỏi mấy câu về gia đình, cuộc sống từ nhỏ tới nay. Sau buổi thẩm vấn, ông Thiện xin được bảo lãnh Hùng về làm con nuôi, cho đi học, nhưng không được cấp trên đồng ý. Dù vậy, ông Thiện vẫn tìm cách giúp đỡ Hùng: cho tiền, dặn dò cách để tồn tại trong nhà tù. Bảy năm Hùng ở nhà tù Phú Quốc ông Thiện nhờ người trong hệ thống trại giam che chở cho Hùng, nhiều lần kết nối để gọi điện được cho Hùng, dặn dò tỉ mỉ như người cha với con mình.
Sau chiến tranh, ông Thiện phải vào trại cải tạo, đã nhiều lần Hùng lần các địa chỉ để tìm ông nhưng không tìm được, không ai biết về ông nữa. Suốt mấy chục năm, anh lính trẻ Hùng năm xưa đã thành cụ già, vẫn đau đáu trong lòng chưa tìm được người suốt đời ông coi như là người cha tinh thần của mình. Tám mươi tuổi, ông lại lên tàu xe đi vào Sài Gòn, lên Ban Mê Thuột tìm ông trung úy Thiện trong vô vọng. “Nếu ông Thiện còn sống, các con tôi muốn đón ông về ở cùng, chăm sóc ông. Nếu ông đã mất, tôi chỉ muốn ngồi bên mộ ông, chụp một bức ảnh mang về”.
Hai cuộc chiến hoàn toàn khác, hai hoàn cảnh khác, mức độ khác nhau, nhưng hai người đàn ông trong hai cuộc chiến đó cùng có chung một lựa chọn.
Một người tốt, một việc làm tử tế trong chiến tranh không thể thay đổi được lịch sử. Wilm không thể ngăn hàng triệu người Do Thái bị giết, cũng như trung úy Thiện không cứu được một đất nước khỏi giết chóc bom đạn. Nhưng hành động nhân đạo của họ làm cho con người không tuyệt vọng.
Dù muộn màng thì Wilm cũng được nhìn nhận lại, bởi vì ông đã kịp để lại dấu vết trước khi rời khỏi thế gian, để hậu thế mở ra. Ông Thiện không có gì để lại, chỉ còn trong trí nhớ của một người già cô độc. Bác Hùng mất đi, hình ảnh về một trung uý Thiện cũng không còn tồn tại. Điều đó làm tôi thấy buồn.

Ảnh sĩ quan Wilhelm Adalbert Hoseèneld và ảnh sĩ quan Trần Khắc Thiện trong bộ hồ sơ của sĩ quan Trần Khắc Thiện. Bác Hùng phóng to, treo trong nhà.