Truyện ngắn Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Cô bé Lò Thị Chăng đã sống ở chỗ cao nhất trên mái nhà sàn của một gia đình Thái đen gồm năm người suốt ba ngày đêm. Nước lũ ngập vào bản em từ hôm ấy đến tối nay chỉ rút được chút ít, rồi như trêu ngươi, làm lộ rõ hơn các mái nhà sàn và các ngọn cây cao đang chơi vơi tô điểm cho những xác trâu bò, gà lợn nổi lềnh phềnh – tựa cuộc “trình diễn” chưa bao giờ có của bản em giữa đất trời xám xịt…
Đã ba hôm, Chăng chịu đói, khát và rét. Có lúc, Chăng rón rén lần mò xuống tận cùng mái sàn mấp mé nước đục ngầu dập dềnh, cởi áo cóm ra dúng cánh tay áo xuống mặt nước để lấy lên mút từng giọt cho đỡ khát, rồi lại lò dò leo lên đỉnh nóc mái nhà, ôm chặt lấy Khau cút(1) và căng mắt nhìn về các hướng ngóng người đến cứu mình… Hôm đầu, khi nước ngập tới Quản(2) và gian bếp, Chăng trượt chân bị ngã, em đã ướt như chuột lột, rồi cứ thế vội tìm cách leo lên mái nhà sàn từ cửa sổ, theo tốc độ nước lũ dâng lên và theo bản năng sinh tồn, lúc đó em đã thấy lạnh cóng, dù mới vào thu. Nhưng cái lạnh ấy đã bị lấn át bởi cái đói, cái khát và nỗi lo lắng cho ải êm [bố mẹ] và hai em; Chăng quên cái lạnh khi quần áo tự khô để gió rừng quẩn vào người em từ sáng sớm tới qua đêm, thời gian như vô tận… Không biết lúc này ải, êm và em gái em trai đang ở đâu giữa biển nước mịt mùng? Em gái học lớp 5, em trai học lớp 3, còn Chăng học lớp 7 – ba chị em cùng trường Phổ thông Cơ sở xã, ngôi trường lúc này chắc cũng đang ngập trong nước và bùn sau trận lũ ống lũ quét chưa từng thấy ở vùng sâu vùng xa quê em. Vào hôm bão lũ ập về bản, Chăng bị cảm sốt nặng nên nhờ em gái đến trường gặp cô giáo Chủ nhiệm lớp mình xin phép nghỉ học. Chỉ sau độ hai tiết học sáng, biển lũ đã ào ạt đổ về nhấn chìm bản em trong đất bùn đỏ khé và nước tận đầu nguồn giận dữ, cùng nước mưa dỗi dằn than khóc – như ý nghĩ của em bắt đầu được tích lũy từ năm trước bây giờ chợt lóe lên cùng ánh chớp rạch trời…
Năm ngoái, cũng đận này, sau một trận lũ ống, nước cũng đã ngập khắp bản, Chăng nghe người lớn nói chuyện thầm thì bên bếp lửa: “Mấy trăm năm nay, chắc còn hơn thế, có lẽ từ thời Mưa máu vùng Thập châu Thái đến giờ mới có một trận lũ lụt làm ngập hết các vườn rau, ngập tới “dinh cơ” của trâu bò lợn dưới chân sàn”. Còn năm nay, kinh khủng quá, lụt ngập đến tận mái nhà sàn! Tới các năm sau, chẳng biết còn ngập tới đâu nữa! Đã ba ngày ba đêm, nhất là trong đêm thứ ba này, Chăng có dịp ngẫm về một câu cửa miệng của ông cha người Thái: “Con gái không biết mệt, trẻ con không biết đói biết khát”. Chăng còn lâu mới thành “con gái” trưởng thành, nhưng cũng đang thoát khỏi giới “trẻ con”, thế nhưng cái tâm lý chung an ủi hai giới này hóa ra trật khấc đối với cảnh ngộ của em: Mệt, Đói, Khát, Lạnh đã hành hạ cô bé vốn đang bị cảm sốt, khiến em có lúc bủn rủn tay chân suýt thì tuột tay khỏi Khau cút mà lăn tự do xuống biển nước mênh mông…
Đêm nay, đêm thứ ba, Chăng cảm thấy sức lực của mình gần cạn kiệt. Em chỉ còn chút hơi tàn để ôm lấy chiếc Khau cút nhà mình như vật cứu tinh duy nhất và chập chờn nhớ lại bao kỷ niệm của đời học trò phổ thông cơ sở… Một trong những kỷ niệm không thể quên là câu chuyện đau lòng về người bạn gái em mới quen hai năm trước, trong một lần được bố mẹ đưa đi thăm Thị xã – cô bạn mà bố người Thái mẹ người Kinh, đều là cán bộ ngân hàng. Liên – cô bạn mới lứa tuổi Chăng – cũng lớp 5. Bố Liên và bố Chăng người cùng quê, có quan hệ làm ăn buôn bán gì đó trước đây. Bố Liên sa đà rượu, cờ bạc, buôn lậu, bạn xấu, khiến mẹ Liên chán ghét, hai người hay cãi cọ nhau và thường bỏ Liên ở nhà một mình… Hôm đó, cô bé Liên 11 tuổi thơ thẩn chơi ở nhà, vô tình rơi xuống hố nước vừa lộ thiên sau một trận lũ quét vào Thị xã. Hố này thông ra con suối Nặm Lung tận đầu Thị xã. Chăng đã nhắm mắt rùng mình khi được nghe bố kể lại, hình dung ra cô bạn quý đã co mình như một con dúi bị săn ra sao để lũ cuốn trôi trong hố ngầm suốt bốn cây số ra tận dòng Nặm Lung, vài ngày sau bố mẹ Liên mới tìm thấy xác con, để mẹ Liên chết ngất và bố Liên lại có dịp chìm trong men rượu quên đau buồn… Hóa ra, Chăng may mắn hơn cô bạn bất hạnh. Em vẫn còn sống, còn hy vọng có người cứu mình để thực hiện những ước mơ mà hai đứa đã say sưa bàn bạc, giao ước, hẹn hò, và giờ em sẽ thực hiện thay cho cả bạn…
Và giữa lúc miên man trong bao cảm nghĩ hỗn độn, bao cảm giác mơ hồ chẳng rõ hình thù hay gốc gác gì nữa, tâm trí của cô bé mới chỉ được ra Thị xã một lần chợt được ru trong những câu chuyện của bố và các ông bà lớn tuổi bên mâm rượu cùng lời “khắp” [hát] Thái: “À… í… ời…”. Những câu chuyện về mường Thái, sau những chuyện làm ăn kiếm bữa hàng ngày của bố mẹ và hàng xóm hầu như lại quay về những chuyện buồn muôn thuở… Chuyện in hằn trong tuổi thơ của ba chị em Chăng là chuyện bố kể bên bếp lửa sàn: Ngày ấy, ở bản nọ, có một gia đình đông con. Vào mùa đói, bọn trẻ chỉ được ăn củ mài và rễ cây rừng. Người mẹ kiệt sức, bị ốm nặng. Ông chồng sang nhà tạo bản, nì nèo mãi mới vay được một nắm gạo nấu cháo cho vợ ăn hồi sức. Chẳng ngờ, khi chạn bát kêu lách cách, cháo chưa kịp múc ra, bọn trẻ đã vùng dậy, nhào đến nồi cháo chầu chực. Hai vợ chồng đành nhường cả nồi cháo cho các con. Sau đó, hai vợ chồng gạt nước mắt bí mật đưa lũ con vào rừng sâu để chúng tự kiếm sống… Năm sau, may mắn được mùa, hai vợ chồng lại vào rừng tìm các con. Nhưng… Thơ ca dân gian vùng Thái cổ này đã khóc cho số phận dành cho chúng: Cô chị cả đã hoá thành khỉ kêu/ Cô chị hai thành vượn hót mặt đỏ/ Còn thằng ba thằng tư thành con dím, con dũi đào đất làm ổ sâu…
Rồi chuyện này nữa, khiến Chăng thao thức suốt cả tuần, hồi em vào lớp Một: có người mẹ trẻ đi đào củ mài, vì quá mệt và đói nên cắm đầu chết trong hố củ. Đứa con nhỏ ngồi chờ không thấy mẹ dậy cứ gọi mãi, giục mãi mẹ về cho em bú, rồi nó biến thành con chim đêm… Còn người mẹ hóa thành củ mài, hai chân chĩa lên trời thành dây leo cho mọi người nhìn thấy… Và lúc này, khi cơn đói quặn trở lại theo chu kỳ mới lập, liên quan tới củ mài, Chăng chợt nghĩ tới nắm xôi em từng gỡ vụn ra rồi ném vãi lên trời, kêu thật to, như người lớn từng làm xưa nay: “Ơi!… Nộc phay ơi! Chim lửa ơi! Về đây mà ăn cơm nếp nương”, đúng vào hôm lần đầu tiên Chăng nhìn thấy bầu trời như sẫm lại màu tro, xuất hiện một đàn chim nhỏ xíu như cái trứng gà màu đỏ rực đang bay liệng cất tiếng kêu thảm thiết… Khi cô em gái hỏi, Chăng đã ra vẻ đàn chị hiểu biết giải thích cho em: Những con Nộc phay đấy, tức Chim lửa, đó là linh hồn của những người chết đói tháng ba, những người đi tìm gạo ở mường xa bị lửa cháy rừng thiêu chết, họ bay trở về tìm người thân vào mùa lúa chín… Em chưa tới lúc nói thêm cho nó, theo lời bố kể: cụ nội rồi đến ông nội của chúng mình cũng đã biến thành Chim lửa, vì lúc chết không đủ tiền cúng ma làm hỏa táng nên phải chôn ở rừng ma… Chưa bao giờ Chăng cảm thấy ngon lành đến thế nắm xôi gói lá chuối rừng, kèm theo một miếng cá nướng và gói chéo mà mẹ dúi vào cặp em ngày trường tổ chức tham quan Rừng đầu nguồn. Nhưng Rừng đầu nguồn tới nay đã bị phá tan hoang mất rồi! Ngày đầu tiên trên mái sàn, Chăng còn nhiều nước mắt hòa nước mưa khóc thương cho mường bản, cho mình, còn đêm nay, em chẳng còn giọt nước mắt nào nữa thì mới thấy trái tim non nớt của mình thật sự khóc nhớ thương cho Rừng…
Không gian sao vắng lặng. Không một tiếng cá quẫy. Không tiếng một chim đêm quen thuộc. Tiếng trâu bò rống thảm thiết trước khi cạn sức để chìm nghỉm trong nước giờ đã thành qúa khứ xa lắc sau mấy ngày đêm! Chăng bồn chồn mong xuất hiện dù chỉ một tiếng Pí tam lay(3) dẫu buồn thương nẫu ruột để cầu mưa khi mưa đã làm ủng cả trời đất, để chứng tỏ sự sống của mường bản chưa nỡ rời bỏ em. Hiển hiện trước mắt em chỉ là nước mênh mông nhập nhòa trong màn sương đêm, màn sương dường cũng mệt mỏi đến lả đi sau những ngày phải chứng kiến những trận lũ ống lũ quét dữ tợn đột ngột khiến những con vật nhanh nhẹn nhất vùng rừng sâu như hươu, nai cũng không thoát nạn khi đang ở giữa lòng suối cạn! Chăng bỗng nhớ lại mồn một ngày cùng em gái tới thăm ông Mo của bản để hỏi về lai lịch mường Thái, theo yêu cầu của cô giáo trước buổi ngoại khóa về lịch sử địa phương cuối học kỳ. Ông Mo có bộ mặt nhăn nhúm như một quả quýt thối, mái tóc không mọc ở đỉnh đầu mà mọc ở quanh đầu, ông luôn mặc một bộ quần áo chàm bạch phếch, chiếc vòng đồng to được chạm nổi những hình thù kỳ quặc thường xuyên đeo ở cổ chân, khiến ông như một nhân vật phù thủy trong truyện cổ Thái. Nhưng ông lại hiền hoà dễ gần, và đặc biệt yêu quý bọn trẻ con – nhất là những đứa ham hiểu biết. Lúc đó ông đang ngồi dưới sàn, cầm một sợi lạt khô bằng cật giang bé xíu để xâu những con nhặng chết và khô xác bởi gió Lào và bồ hóng, bên cạnh mấy xâu các con cánh cam, con sâu đo, con bọ ngựa chết. Chăng tò mò chưa kịp hỏi thì được ông cho biết: Chúng là những cuốn Lịch do ông cha nhiều đời tạo ra, từ đây, ông sẽ xem xét tính toán trên sách, xem ngày để đoán sự xuất hiện của con rồng, con vật tạo ra mưa. Năm nào rồng ít và lẻ thì mưa nhiều, và năm nào rồng ra nhiều và chẵn thì mưa ít, nạn hạn hán sẽ đe doạ đất mường. Vì rồng ít, chúng chỉ lo làm ra mưa chứ không có thời giờ để chơi bời, và nếu lẻ, chúng không có đôi có lứa nên siêng năng tạo ra mưa. Còn rồng ra nhiều, chúng chỉ mải miết chơi bời, và lại chẵn nữa thì chúng sẽ thoả mãn tình cảm lứa đôi nên chẳng đoái hoài đến việc làm mưa nữa… Ông chỉ tay vào xâu nhặng xanh và thầm thào: “Năm nay năm lẻ, vào tháng nhặng xanh sẽ lại có lũ muộn cháu à! Lũ muộn thì kinh khủng lắm!”. Lúc ấy Chăng rối hết cả đầu óc, bây giờ lại càng thấy rối hơn khi nhớ về các “cuốn Lịch” kỳ lạ của người nắm giữ Hồn vía của mường bản. Nhưng cũng chính ông Mo là người hé ra một bí mật hệ trọng cho bọn trẻ con, như ông nói hộ Thần linh của vùng này: Các cuốn Lịch bằng sâu bọ chỉ là Sứ giả của Núi Rừng, còn các cơn lũ ống, lũ cuốn, lũ muộn chính là sự nổi giận, là sự trừng phạt của Mẹ Thiên nhiên khi Rừng đầu nguồn hay Rừng Thiêng, Rừng nguyên sinh, Rừng phòng hộ đã bị tàn phá nặng nề, khi các Luật tục Thái ngàn đời bảo vệ Rừng và muông thú bị sự ngu dốt và tham lam giết chết thê thảm chẳng khác gì cuộc chọc tiết nai tơ vô tội đáng yêu lúc chúng còn rúc vú mẹ! Sự ngu dốt và tham lam đó, trong tâm tưởng Chăng vào lúc này, đã nguy hiểm hơn mọi thứ Ma trên quê hương em, như Phi luông (Ma lớn), Phi nọi (Ma bé), Phi bá (Ma rừng), Phi nà (Ma ruộng), Phi phống (Ma cà rồng)… Ông Mo từng kể: Lúc gian nan của mường Thái thì Ma cà rồng xuất hiện càng nhiều để hút máu người sống lẫn người chết, chúng thường biến thành con đom đóm xanh lè to bằng nắm tay trẻ em bay lập lòe ngoài cửa sổ… Nhưng đợt lũ dữ dằn này hình như đã đánh bạt mọi loại Ma, kể cả Ma cà rồng! Lũ đã trở thành thứ Ma khủng khiếp nhất đe dọa sự làm ăn, sự yên bình và sự sống của mọi người trong mường bản…
Trong ánh trăng mờ cuối tháng phủ sương, Chăng thấy nước đã rút xuống qua khỏi sàn nhà tự bao giờ, nước chỉ còn ngập cột sàn hơn một mét. Em run lên vì mừng. Ngôi nhà của em nằm lẻ loi, xa nhất bản, nên chắc các đoàn cứu hộ sẽ tới sau cùng. Em muốn hét to lên kêu cứu, nhưng không đủ sức nữa. Khi run rẩy hy vọng vì thấy cảnh ngộ của bản, của ngôi nhà thân yêu và của bản thân mình đã sáng sủa hơn, thì đồng thời Chăng bắt đầu thấm cái đói, cái rét tận xương tủy… Em cảm thấy mình đang rời cõi sống, đang biến thành “phi” [hồn ma] tội nghiệp mà chưa kịp làm được gì cho bố mẹ và các em – với tư cách là cô chị cả; và như thế, dù không bị Then Xội cõi Âm trừng trị, em đâu có đủ tư cách để lên Mường Trời nữa!… Ông Mo từng nói cho bọn trẻ háo hức hiểu biết trong bản rằng: Chỉ có phi hồn Tổ tiên và phi hồn chủ cõi Trời thì mới tồn tại mãi mãi, còn các “phi” khác thì có sống có chết. Khi chết, “phi” biến thành “phí”, “phí” chết biến thành loài ve sầu kêu bên rừng. Ve sầu chết lại biến thành rong rêu mọc trên đá suối… Sao lúc này Chăng lại nhớ như in mấy câu trong bài “khắp hảy phi tai” [hát khóc người chết] của thầy Mo mà em được dự đám tang bác gái em, bị chết oan vì không có tiền đi bệnh viện tỉnh, theo bố em kể, vào hồi đầu năm ngoái: “Hết đời người mình mới lên trời/ Mình yêu mường trời hơn mường người/ Con côi ngấn mắt đau thương/ Giương mắt ngóng!” Và mấy lời cúng tiễn thê lương chân thành của ông Mo: “Ô hô! Mười đắng mới có một ngọt, mười cay mới có một bùi! Mười bản không bằng bản rụng rốn, mười mường chẳng bằng mường chôn nhau… Đất người dù gạo chất đống, chớ cắp đòn gánh đến lân la… Con gái ra suối múc nước đứng ngóng, con trai ra đồng mót lúa ngồi mong! Đi đường nước được cá chép cá trắm, đi đường cạn được con hoẵng con nai. Đi không vấp, về không vướng, ngủ ngon ở lành…”. Nếu mình chết, và đúng là chết oan, thì liệu có được khóc bằng bài “khắp hảy phi tai” không, khi mà sẽ có biết bao người lớn, trẻ con phải chết oan sau trận lũ kinh hoàng này? Và ông Mo duy nhất của bản liệu có thoát khỏi lũ cuốn, lũ ống, dù ông là phù thủy tốt hiểu được toàn bộ lẽ tự nhiên của mường Thái? Những bài học nằm lòng về se sợi, dệt thổ cẩm được mẹ chỉ tay truyền dạy cho từ lúc còn học mẫu giáo lớn đến nay, thế là phí phạm mất rồi. Và ý tưởng đang trở thành hiện thực của cô giáo Chủ nhiệm lớp 7 về làng nghề thổ cẩm cần phục hồi tại xã nhằm cung cấp sản phẩm cho một Công ty Du lịch trên tỉnh, huy động tất cả mấy đứa trò gái khéo tay làm nòng cốt, nhưng thế là sẽ không có mình nữa… Chăng chợt ứa nước mắt thương thân, thương cô giáo, thương các bạn gái được cô giáo chọn đưa vào nhóm sản xuất thí điểm. Nỗi xót thương sâu nặng tới độ rút cạn chút sức lực cuối cùng khiến Chăng mê man đi, trời đất quay cuồng đảo lộn, em buông tay rời chiếc Khau cut rồi cả thân hình nhỏ nhắn sắp thành thiếu nữ cứ thế lăn trượt mấy vòng trên mái phibrô ximăng ẩm ướt…
***
Tờ mờ sáng hôm sau, các chiến sĩ Biên phòng và các nhóm công tác cứu hộ sau mấy ngày giúp dân bản vật lộn với Tử thần cuối cùng đã tìm thấy Chăng nằm trong đống bùn nhão sát chân cột sàn, bên cầu thang gỗ dẫn lên Chan(4). Em rơi từ nóc nhà sàn xuống lúc nước vừa rút gần cạn sân nhà, mặt bùn lẫn cây cỏ đã vô tình làm nệm đỡ tự nhiên ở đằng lưng. Bởi thế khắp người phủ đầy bùn, tóc tai nhơ nhớp bùn, nhưng khuôn mặt em là khoảng duy nhất dường như bùn né tránh, để mọi người có thể nhận ra rằng: em đã về Mường Trời với đôi má tuổi thơ ửng hồng trong bất kỳ cảnh ngộ nào, cùng nụ cười dịu êm sau những mơ ước và tình thương cuối đời. Em không bao giờ được biết bố mẹ mình đã bị lũ cuốn mất tích khi ở trên nương, cậu em út cùng cả lớp bị đất sụt lở vùi lấp cho tới lúc đó chưa tìm thấy xác em nào, còn cô em gái kế vừa được moi ra khỏi bùn, đang cấp cứu ở trạm xá liên bản… Thế là em sẽ khỏi mang theo nỗi đau lòng buổi phi biến thành ve sầu khiến tiếng kêu của nó bớt bi thương. Và điều an ủi lớn nhất của linh hồn em đang vất vưởng, là cô em gái thân thiết cùng hơn chục trẻ mồ côi khác chắc chắn sẽ trở thành con nuôi của cả bản. Và cô bé chính là người duy nhất hiểu được nụ cười chợt dừng lại của em, là người đang hy vọng được chị gái giới thiệu vào nhóm sản xuất thổ cẩm thí điểm, để vùng quê em dần dà nhất định sẽ có truyền thuyết mới về loài Chim lửa – Nộc phay như biểu tượng của Tình yêu và Khát vọng sống của người Thái hôm nay, chứ không còn là hiện thân của những người chết đói tháng ba, những người đi tìm gạo ở mường xa bị lửa cháy rừng thiêu chết bay trở về tìm người thân vào mùa lúa chín suốt bao đời…
Hà Nội, tháng 11- 2025
1. Khau cút là vật trang trí mang biểu tượng văn hóa trên nóc nhà sàn của đồng bào Thái đen vùng Tây Bắc, được làm từ hai thanh gỗ hoặc tre dựng chéo nhau ở hai đầu hồi. Các loại Khau cút mang hình dạng khác nhau thể hiện những ước vọng của người Thái, ngoài ra còn có chức năng chống gió lật mái.
2, 4. Chan, Quản: hai mặt sàn bên phải và bên trái trên nhà sàn người Thái, làm bằng tre nứa gỗ; nhưng chỉ có Chan là lộ thiên, còn Quản là phần sàn nhô ra được che bởi mái của chái nhà.
3. Pí tam lay là nhạc cụ bằng nứa của dân tộc Thái dành riêng cho trẻ em chǎn trâu và cho nam giới sử dụng khi canh lúa ở ngoài ruộng, nương, hoặc dùng để cầu mưa; nhạc cụ này kiêng không dùng trong mường bản.