Provenance: Vùng trống nguy hiểm trong nghệ thuật Việt Nam

Tobi Trần – Giám tuyển Độc lập

Trong nhiều năm qua, provenance tức là lịch sử sở hữu và lưu giữ tác phẩm vẫn gần như là một vùng đất bỏ ngỏ trong hệ thống nghệ thuật Việt Nam. Bản thân mình từ 3 năm trước khi trở về Sài Gòn để làm việc chính thức cũng đã đề cập đến vấn đề này và gần một năm nay mình cũng đã có khá nhiều bài viết về provenance để gào lên với các họa sĩ lẫn nhà sưu tập. Khái niệm này không chỉ là câu chuyện về một chuỗi tài liệu hành chính mà còn là cơ sở để bảo đảm quyền thừa kế, tính hợp pháp và ý nghĩa học thuật của di sản nghệ thuật.

Thế nhưng, trong nhiều bảo tàng mới mở thậm chí là bảo tàng công hay bộ sưu tập tư nhân và ngay cả các triển lãm tự nhận danh xưng cao đẹp về “di sản tương lai” thì provenance gần như không được nhắc đến như một điều kiện tối thiểu để bảo tồn. Điều đó đã tạo nên một lỗ hổng mênh mông và khiến các di sản nghệ thuật của Việt Nam luôn đứng trước nguy cơ mất đi giá trị trong mắt thế giới.

Sự nhầm lẫn thường thấy tại Việt Nam là đồng nhất provenance với authenticity (xác thực) trong khi provenance là lịch sử dòng chảy của một tác phẩm qua các chủ sở hữu, triển lãm, đấu giá và bộ sưu tập thì authenticity lại là việc xác thực tính nguyên bản bằng các phương pháp khoa học, chất liệu, giám định phong cách và bằng chứng thực nghiệm. Hai khái niệm này bổ trợ cho nhau nhưng không thể thay thế nhau.

Một tác phẩm có phân tích chất liệu đáng tin vẫn có thể rơi vào nghi vấn nếu không chứng minh được chuỗi lịch sử sở hữu và một chuỗi các hồ sơ provenance thiếu tính nhất quán có thể làm vô hiệu mọi tuyên bố xác thực khác.

– Ở các bảo tàng, lỗ hổng provenance sẽ khiến cho nhiều tác phẩm chỉ dừng lại ở mức trưng bày thị giác chứ không phải là tư liệu nghiên cứu. Khi không có chuỗi hồ sơ về nguồn gốc, các tác phẩm sẽ bị tước đi vai trò của một minh chứng lịch sử và chỉ còn giá trị như một hình ảnh trang trí có tính lịch sử là chính.

– Ở các bộ sưu tập tư nhân, việc cố tình giữ kín provenance thường xuất phát từ nhu cầu bảo mật nhưng lại vô tình nuôi dưỡng tình trạng mờ mịt, mở cửa cho thị trường tranh giả và làm suy yếu uy tín của toàn hệ thống.

– Với các triển lãm được tổ chức dưới khẩu hiệu mỹ miều về bảo tồn và di sản, việc thiếu ý thức công bố provenance chính là sự phản bội với chính thông điệp họ tuyên bố. Không có provenance, khái niệm “di sản tương lai” chỉ là một lớp son bóng bẩy, che đậy khoảng trống tư liệu mà thế hệ sau buộc phải gánh chịu.

Trên bình diện quốc tế, câu chuyện provenance đã trở thành một nền tảng về pháp lý và đạo đức khi công ước UNESCO năm 1970 về cấm buôn bán trái phép hiện vật văn hóa buộc các quốc gia thành viên phải bảo đảm tính minh bạch và nguồn gốc hợp pháp trước khi trao đổi hay trưng bày hiện vật. Các nhà đấu giá lớn như Christie’s hay Sotheby’s xây dựng những phòng ban chuyên trách để điều tra từng mắt xích trong chuỗi sở hữu và thậm chí đã từng dừng giao dịch khi xuất hiện lỗ hổng về provenance chưa được làm rõ.

Ngay ở tại Đông Nam Á của chúng ta cũng đã có những trường hợp hiện vật văn hóa buộc phải trả lại cho quốc gia gốc khi provenance không đứng vững. Điều đó cho thấy, provenance không chỉ là một thủ tục mà còn là một tấm hộ chiếu quyết định giá trị pháp lý và học thuật của mỗi tác phẩm.

Trong khi đó, tại Việt Nam thì thị trường vẫn chứng kiến những vụ việc tranh giả công khai nhưng không có cơ chế provenance đủ mạnh để xử lý tận gốc. Một số tác phẩm từng xuất hiện ở các cuộc đấu giá quốc tế đã bị rút lại vì không có hồ sơ provenance rõ ràng về quá khứ sở hữu. Những hiện tượng này được báo chí trong nước và các nhà nghiên cứu ghi nhận, song vẫn chưa tạo thành một hệ thống ứng xử có chuẩn mực. Vùng trống provenance này không chỉ làm suy yếu niềm tin trong nước mà còn khiến nghệ thuật Việt Nam khó bước ra quốc tế với tư thế ngang hàng.

Thời gian tới, mình mong sẽ thấy được một Art Intelligence Hub xuất hiện tại Việt Nam, một trung tâm kết nối tri thức và công nghệ để mở ra một khả năng giải quyết tận gốc vấn đề provenance cho nghệ thuật Việt Nam cũng như hỗ trợ các họa sĩ và nhà sưu tập về liên quan đến nghiên cứu xác thực nguồn gốc lịch sử tác phẩm nghệ thuật (provenance research).

Sự ra đời của trung tâm này sẽ là một hành động cụ thể thay vì lời kêu gọi suông nhằm mục đích đặt di sản nghệ thuật của Việt Nam trên cùng một nền tảng minh bạch, vững chắc và bền lâu với thế giới.

This entry was posted in Nghệ thuật and tagged . Bookmark the permalink.