Tác giả: Richard Seymur
Việt dịch: Nguyễn Quang A
Nhà xuất bản Dân Khí-2025
4. Các Máy Chiến tranh: Chiến tranh Mạng, Những con Sói Đơn độc và Những kẻ Xả Súng Hàng loạt
Bóng ma của chủ đề thuộc địa trước kia ám ảnh các quan hệ (mà họ không biết về) giữa những người da trắng chưa bao giờ rời châu Âu.
– Octave Mannoni, ‘The Decolonization of Myself’1
Người là một con sói với người.
– Sigmund Freud, Civilization and Its Discontents2
Trong việc điều tra chiến tranh mạng, thuyết âm mưu là bắt buộc về mặt phương pháp luận.
– Nick Dyer-Witheford and Svitlana Matviyenko, Cyberwar and Revolution3
I.
‘Không phải là về việc phá hủy các ý tưởng,’ Olavo de Carvalho, trí thức công cộng hàng đầu của Jair Bolsonaro một lần đã giải thích về các chiến lược chiến tranh mạng của cực hữu, ‘mà là phá hủy các sự nghiệp và quyền lực của của mọi người. Bạn phải trực tiếp, và không có sự tôn trọng – điều đó rất quan trọng.’ Steve Bannon đã không ít trực tiếp hơn. Nếu ‘gã nào đó đi theo khán giả của chúng ta’, ông giải thích về các troll Breitbart của ông, ‘chúng ta sẽ để lại một dấu. Chúng ta không ngại về nó chút nào. Chúng ta có một số cậu con trai thích gây gổ.’4
Các phương pháp của chiến tranh mạng được hoàn thiện bởi chủ nghĩa dân tộc tai họa triển khai một chiến lược trả thù. Trong phân tích-giấc mơ của tưởng tượng dân tộc chủ nghĩa, những sự oán giận ngầm của đời sống hàng ngày đã được chuyển rồi sang một loạt vật thể có thể thay thế được (những kẻ phản bội, những kẻ chống-công dân, các nhà Marxist văn hóa, và vân vân), những người mà có thể là vui để chửi rủa, đe dọa hay giết. Chiến tranh mạng vũ khí hóa việc này, khuyến khích tính tàn bạo tham gia. Điều này là đúng về việc troll ‘black ops (hoạt động mật)’ được Duterte dùng như về ‘Cabinete do Ódio’ (‘Sở Căm ghét’) làm việc ngoài nội các của Bolsonaro để hăm dọa Tòa án Tối cao và các chính trị gia đối lập, hay các troll Israeli hoạt động để hăm dọa các nhà báo phê bình Netanyahu (các phóng viên thú nhận làm mềm ngôn ngữ của họ, thậm chí tránh nhắc đến việc Israel chiếm đóng Bờ Tây và Gaza, bởi vì nó là tốt hơn bị cánh tả phê bình, vì cánh tả ‘bị xem là những kẻ phản bội dù sao đi nữa’). Mục tiêu là để tận dụng bạo lực tu từ thành sự thiệt hại thật, đôi khi cái chết. Trong các giới cực-hữu Brazilia nó được biết đến như ‘linchamento’ (lynching-hành hình). Ở Hoa Kỳ, không hoạt động tập trung nào như vậy được tiết lộ, nhưng Donald Trump rốt cuộc đã là một trang trại troll một-người. Khi, chẳng hạn, ông tố giác ‘đội’ bốn phụ nữ tiến bộ da màu trong Quốc hội như ‘ủng hộ-Al Qaida’, cho rằng Dân biểu Ilhan Omar đã nói về ‘Al Qaida tuyệt vời đến thế nào’ và gợi ý rằng bốn bà nên ‘quay về các chỗ hoàn toàn đổ vỡ và tràn ngập tội phạm mà từ đó họ đến (Mỹ)’, rất có thể ông đã đặt một khoản tiền thưởng lên đầu họ.5
Nhưng không nhất thiết rằng các lãnh đạo nên làm bẩn tay họ. Hãy xét một trong những chiến thuật tinh vi nhất của Narendra Modi trong việc giải quyết đối lập. Modi, như nhà báo Swati Chaturvedi đã lập tư liệu, vận hành một đội quân troll tập trung, từ trên xuống, như một bổ sung cho cuộc tấn công rộng hơn của ông chống lại sự bày tỏ nhà báo và để kiểm soát đầu ra văn hóa ở Ấn Độ. Các troll này, cùng với một ‘chiến dịch song song mờ ảo’ của các troll phân biệt chủng tộc ăn tiền được Washington Post mô tả, truyền đạt kỷ luật thông điệp cho một sự theo dõi online rộng hơn.6
Tuy vậy, Modi, nhận ra giá trị của sự cảnh giác ad hoc, dùng một chiến thuật ‘thù lao (thưởng) theo sau’ cho các công dân-troll hiểm ác nhất. Mặc dù ông chỉ theo (dõi) vài ngàn người trên Twitter, hàng trăm người trong số họ được nhận diện như các công dân ngẫu nhiên tình cờ là những người ủng hộ kiên định của Modi và BJP, hung dữ chống-Muslim và thường tham gia một cách có hệ thống vào việc quấy rối hay xúi giục bạo lực chống lại đối lập. Ngay khi các từ ‘Thật sung sướng được @narendramodi theo dõi’ xuất hiện trong dòng lý lịch của họ, các tài khoản nhỏ này với ít người theo dõi trải nghiệm một sự dấy lên của sự chú ý và sự tự tin. Đi xa hơn, Modi đã mời 150 trong số các troll này tới dự tiệc trà tại dinh chính thức của thủ tướng. Một trong những người tham dự, Tajinder Singh Bagga, người dẫn đầu một hoạt động trolling chống lại luât sư chống-tham nhũng Prashant Bhushan mà đã lên đỉnh điểm trong một cuộc xâm nhập vào văn phòng của luật sư trong đó Bagga được cho là đã tấn công ông, muộn hơn được bổ nhiệm làm người phát ngôn của đơn vị Delhi của BJP. Những khoản thù lao (thưởng) như vậy là một cách thông minh, chi phí thấp để kích thích lòng trung thành kiên quyết giữa những người đã sẵn sàng làm bất cứ thứ gì rồi để bảo vệ Modi.7 Các chiến thuật này sắp thẳng hàng chính thức với sự xúi giục phi chính thức, việc troll được trả tiền và tình nguyện, theo một cách mà có thể được phủ nhận với sự nửa-hợp lý.
Ví dụ, trong tháng Chín 2017, một nhà báo kỳ cựu và nhà phê bình BJP, Gauri Lankesh, bị ba người có vũ trang giết tại nhà bà. Lankesh đã là một mục tiêu của vô số vụ kiện phỉ báng của các gangster, các chính trị gia và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp khác nhau thử đặt bà và ấn phẩm của bà, Gauri Lankesh Patrike, ra khỏi sự hoạt động. Bà đã nhận được những sự đe dọa giết từ các cán bộ BJP và RSS và rõ ràng cũng trên danh sách mục tiêu của người tổ chức media xã hội quốc gia của BJP, Amit Malviya, mà đã dùng sự kết tội gần đây của bà vì lời phỉ báng chống lại hai đảng viên BJP như một lời cảnh cáo các nhà báo khác. Đối với các troll BJP, bà đã là một ‘presstitute (con điếm báo chí)’, ‘naxalite’, và ‘kẻ ghét Hindu’. Một trong những phương pháp xúi giục chính là một video được chia sẻ rộng rãi có tiêu để ‘Real Face of SECULARISM (Bộ Mặt Thật của CHỦ NGHĨA THẾ TỤC)’. Video gốc chứa một phiên bản được biên tập của một bài phát biểu của Lankesh phê phán chủ nghĩa dân tộc Hindu và được 250.000 lượt người xem trước khi bị hạ xuống (nó đã được đăng lại từ đó). Video, mà thu hút những comment giận dữ từ những người xem (‘hãy treo cổ chúng’), được một trang BJP chính thức chia sẻ ở bang Karnataka nơi Lankesh sống. Nó cũng được tải về và chứng kiến bởi một số kẻ ám sát, một trong số đó đã giải thích rằng động cơ của hắn ta là để ‘cứu tôn giáo của tôi’.
Vụ giết người đã là kết quả của một quá trình tập thể của sự sự làm mất tính người, sự xúi giục và sự hăm dọa, với một sự phân công lao động lỏng lẻo giữa các lực lượng chính thức nhận diện các mục tiêu và vạch ra đường lối tư tưởng chung của cuộc tấn công, và những lực lượng phi-chính thức hay phủ nhận mà tấn công bằng sự quấy rầy và bạo lực chết người. Ngay sau vụ giết người, đã đạt được một sự phân công lao động lỏng lẻo tương tự giữa sự đánh lệch hướng nửa-chính thức và sự tán dương phi-chính thức. Arnab Goswami, một con chó tấn công cho Modi tại Republic TV nơi ông là chủ sở hữu đa số và người dẫn chương trình tin tức chính, đã suy đoán rằng các Naxal bị đổ lỗi cho vụ giết người. Nhưng giữa các troll được quý mến của Modi, niềm vui sướng đã thành thật: ‘Một con chó cái đã toi đời với cái chết của một con chó,’ như một trong số họ đã viết.8 Tuy vậy, Narendra Modi đã không cất lên một lời nào.
Nhưng ngược lại chiến lược của Modi ủy thác một cách tinh tế sự tàn ác cực đoan nhất trong khi ông khéo léo im lặng, Rodrigo Duterte lên nắm quyền với một chương trình tàn bạo nổi tiếng công khai. Ông khoe khoang về nhiều vụ giết người mà ông được cho là đã phạm. Ông nói với các tội phạm, ‘Nếu tao phải giết bọn mày, tao sẽ giết. Đích thân tao.’ Ông cảnh cáo rằng các nhà báo ‘không được miễn ám sát nếu bọn bay là bọn khốn nạn’. Trong việc làm vậy, ông không chỉ giữ gìn nhãn hiệu cá nhân ‘Duterte Harry’ của ông, mà ông đã giải phóng, kính trọng và thưởng các xung lực hung hăng của khán giả của ông, tôn họ lên như những người chống-giới quyền thế.9
Như trong thế giới thực, cũng thế trong chiến tranh mạng. Không lâu sau chiến thắng của Duterte trong cuộc tổng tuyển cử Philippines 2016, các học giả tại Đại học Oxford công bố một nghiên cứu cho thấy rằng chiến dịch của Duterte đã tiêu 200.000 $ cho các hoạt động trang trại troll của CEO media Nic Gabunada. Thị trường trolling cho thuê là lớn, và toàn cầu, nhưng Philippines đã luôn có một ‘cấu trúc tung thông tin sai lệch’ đặc biệt tiên tiến. Điều này đảm bảo rằng Duterte có thể tiếp tục dùng một chiến lược troll được tư nhân hóa hoàn toàn sau khi lên nắm quyền. Tiền của ông đã mua cho ông tổng cộng năm trăm troll cá nhân hoạt động từ một call centre, mỗi người vận hành hàng tá tài khoản, tất cả đều được quản lý-vi mô và được tổ chức tập trung theo một hệ thứ bậc chức năng. Bên dưới là những người đăng các comment theo kịch bản dưới các bài báo tin tức (của các tài khoản đó). Bên trên là những người gieo hạt các cộng đồng online hoặc bố trí, điều phối các chiến dịch bôi bẩn và hăm dọa chống lại các đối thủ.10
Theo Peter Pomerantsev, các troll đã không đơn giản bắt đầu làm nổ tung sự tuyên truyền. Thay vào đó, họ đã làm việc để thiết lập một nhịp điệu. Những người gieo hạt các nhóm Facebook trong các cộng đồng địa phương, chẳng hạn, sẽ bắt đầu bằng việc đăng tư liệu thường xuyên bằng tiếng địa phương mà không có một thiên hướng chính trị rõ ràng. Mỗi trong số họ xây dựng số thành viên đạt khoảng 100.000. Khi cuộc bầu cử đến gần, bởi vì vấn đề của Duterte là tội phạm, họ bắt đầu đăng một tin về tội phạm bạo lực mỗi ngày. Và bởi vì sức lôi cuốn cụ thể của Duterte là chiến tranh chống ma túy, họ thường để một comment trách móc những người buôn bán ma túy. Rồi, khi bầu cử đến gần hơn nữa, tý lệ đăng tăng lên hai tin tức mỗi ngày. Rồi ba. Rồi nhiều hơn. Chúng tạo ra một nhịp điệu của ‘nỗi lo’ phi chính trị có vẻ tự phát, có gốc rễ địa phương.11
Một vài ngàn tài khoản được phối hợp tốt với các khán giả được xây dựng một cách chuyên nghiệp là đủ để thao túng các thuật toán bằng việc ép các hashtag và ‘các chủ đề trending’ lên chương trình nghị sự, làm thay đổi những gì các nền tảng mạng xã hội trương ra (qua các newsfeed) cho những người dùng và ép sự đưa tin báo chí. Việc khai thác logic homophilous (đồng âm, thích có quan hệ với những người giống mình) của các nền tảng mạng xã hội, nó cũng cho phép sự khám phá khán giả. Các troll được trả tiền thường xuyên trở thành các tài khoản ‘đáng tin cậy’: giống ‘Q’, chúng càng nặc danh, chúng càng dễ trở thành các thuyền cho sự phóng chiếu tích cực của các khán giả của chúng. Đội quân troll nhỏ được trả tiền của Duterte tự tập quanh nó một hệ sinh thái kích động khai thác lao động miễn phí của hàng trăm ngàn người đam mê. Điều này là đủ để đẩy rating của ông lên vài điểm, sinh ra các chu kỳ mới của sự quan tâm truyền thông đại chúng, làm tăng thêm nữa uy tín online của ông. Một chiến thuật tương tự được dùng muộn hơn trong các cuộc bầu cử giữa kỳ 2019, trong đó [các nhóm] Facebook ‘Trái đất Phẳng’ đột nghiên tràn ngập với các trang và những người có ảnh hưởng chắc do các troll được trả tiền vận hành, những người tạo ra một nhịp điệu om sòm không ngơi ngớt của sự tuyên truyền ủng hộ-Duterte.12
Như với các tổng thống chiến tranh văn hóa khác, phương thức cai trị của Duterte đã phụ thuộc vào việc tiến hành chiến dịch thuật toán thường trực. Ông đã không thể cho phép mình để làm buồn khán giả của ông. Thay vào đó, ông đưa ra sự mời tham gia quan hệ một chiều, sự huy động và bạo dâm tham gia. Trong ‘chiến tranh chống ma túy’ của ông, chẳng hạn, ông thúc các thành viên thất nghiệp của công chúng giết những người nghiện. Tương tự, khi ông nhắm vào cái gọi là ‘presstitutes (các con điếm báo chí)’, hay lên án một nhà báo phê phán như một ‘kẻ phản bội’ và không phải một ‘người Filipino thật sự’, đội quân troll của Gabunada đã ở đó để cung cấp cho các chiến binh tình nguyện đường lối cho một chiến dịch hủy hoại danh tiếng, quấy rầy, và các lời đe dọa hiếp và giết chết. Sự tàn ác ngông cuồng được phối hợp trong toàn bộ chiến dịch, và nó đã tiếp tục trong khi Duterte tại chức. Thật quan trọng là ông tiếp tục để biến tấu các hình mẫu hiện có của khoa nghiên cứu ma quỷ, tìm thấy những cuộc chiến tranh văn hóa mới để chiến đấu và cung cấp cho những người theo ông các mục tiêu bội tín mới để tấn công.13
Để nêu một ví dụ nổi bật, bên trong một năm ông nhậm chức, chiến lược chiến tranh mạng của Duterte được tháo xích tấn công Maria Ressa, chủ báo tạp chí phê phán Rappler [và được giải Nobel hòa bình trong năm 2021]. Dưới hashtag #ArrestMariaRessa, các troll đã gọi Ressa là một mối đe dọa an ninh quốc gia, một tuyên truyền viên ISIS, một Nazi và một kẻ tung tin giả để lấy tiền và nhận định hướng biên tập từ những người nước ngoài. ‘Tôi muốn Maria Ressa bị hiếp lặp đi lặp lại cho đến chết,’ một comment điển hình viết. ‘Tôi sẽ rất hạnh phúc nếu điều đó xảy ra khi quân luật được tuyên bố, nó sẽ mang lại niềm vui cho trái tim của tôi.’ Những người ủng hộ Duterte, mà khác đi có thể không cảm thấy đủ am hiểu hay được trao quyền để bác các chỉ trích về ông ta, đã không cần một sự bác bỏ: họ đã cần tấn công. Họ đã tạo ra một nhịp điệu vui thích tập thể trong việc làm nhục và bắt nạt, cung cấp một cảm giác về quyền thế được che đậy mỏng manh như sự lăng nhục được biện minh, và làm các nhà báo mất phương hướng dưới hỏa lực. Nhịp điệu này đóng góp cho một loạt các vụ truy tố gây phiền toái được chính phủ theo đuổi, lên đỉnh điểm trong sự kết án gần đây của Ressa vì ‘cyberlibel- tội phỉ báng trên mạng’. Đối với những người khác, nó có nghĩa là cái chết: hai mươi hai nhà báo giữa những người bị các đội viên dân phòng sát hại trong triều đại Duterte, và các vụ giết người tiếp tục dưới người kế nhiệm ông, Bongbong Marcos.14
II.
Trong thời kỳ non trẻ của internet, nhà hậu-cấu trúc chủ nghĩa Pháp Félix Guattari đã mong chờ một thời đại ‘hậu-media’. ‘Yếu tố gợi ý, thậm chí sự thôi miên’ hiện diện trong media cũ sẽ biến mất.15
Có thể, yếu tố gợi ý đã bị cực đoan hóa. Các mối quan hệ một chiều với những người nổi tiếng online, lòng trung thành được nuôi dưỡng hướng tới các nguồn thông tin xác nhận các nhu cầu vô thức, sự sẵn sàng để bị các chuyên gia bấm nút kích động vào việc đăng siêu hiếu động và vigilantism online (thói tự hành động được cho là để ngăn chặn tội phạm một cách phi chính thức, tức là tự hành động như mình là nhà chức trách bảo vệ luật) và khuynh hướng thổi phồng sự bất đồng thành mối đe dọa, tất cả đều cho thấy chúng ta thực sự dễ bị gợi ý đến thế nào. Các chiến thuật của chiến tranh mạng dân tộc chủ nghĩa, rốt cuộc, tận dụng các xu hướng phổ quát của hành vi trên các nền tảng mạng xã hội. Người ta không cần là khờ dại rõ ràng để sự chú ý của mình bị thao túng, để tham gia môn ma quỷ học online hay để bị một câu chuyện bịa đặt chơi xỏ. Bất kể ai cũng có thể được tuyển mộ, được tổ chức theo nhịp điệu và bị đưa vào làm việc cho những người mà họ chẳng bao giờ thấy hay nghe về cho đến khi họ nhận được những gì họ muốn và bước tiếp. Để chống-sự dễ bị gợi ý trong khung cảnh này, chúng ta sẽ phải hiểu chúng ta đúng là dễ bị lừa gạt và bị lệ thuộc đến thế nào.
‘Thứ đầu tiên mà quyền lực áp đặt’, Roland Barthes viết, ‘là một nhịp điệu.’ Đấy chính xác là cách công nghiệp mạng xã hội hoạt động. Trong khi dường như cho phép chúng ta theo đuổi lịch trình và ưu tiên của riêng chúng ta, Dominic Pettman giải thích, nó đã thấy trước rồi ‘tốc độ và mạch khác nhau’ sẵn có cho chúng ta trong các mạng được phép mà chúng ta bước vào. Chúng ta, Matthew Flisfeder viết, là các nô lệ của ‘nhịp điệu-thuật toán’. Bất cứ ai muốn tuyển mộ một quân đội đông đầu tiên phải hiểu làm thế nào để dùng các nhịp điệu này chống lại những người dùng.16
Các nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa thảm họa đã làm việc này giỏi hơn bất cứ ai khác. Họ hiểu rằng sự xúi giục hoạt động tốt nhất khi hợp nhất với giải trí và người nổi danh, như trong các nghề thủ công tung thông tin giải trí giả (disinfotainment) online cực-hữu. Hình ảnh sáo rỗng của tuyên truyền phát xít là một dòng thông điệp tẩy não không ngừng được phát với quân nhạc, các bước diễu hành rầm rập và các bài phát biểu của một kẻ điên có sức thuyết phục. Điều đó đã chẳng bao giờ chính xác. Ngành văn hóa phát xít cũng đã cố ý chống-chính trị như nó là chống-trí thức. Joseph Goebbels, với tư cách bộ trưởng tuyên truyền của Reich (Đế chế), đã hô hào các đài phát thanh: ‘Đừng nhàm chán!’ Dưới sự quản lý của ông, cả radio và cinema (điện ảnh) đã giảm đầu ra chính trị của chúng, với nhiều nhạc bình dân, hài kịch và phim cổ trang hơn nhiều. Các Nazi đã khai thác các yếu tố bảo thủ, tuân thủ sẵn có rồi như sự giải trí. Sự phát nội dung chính trị chính trên các radio rẻ tiền, mà họ gọi là Máy thu của Nhân dân, đã là các bài phát biểu của Hitler, nhưng ngay cả điều này được tổ chức quanh mối quan hệ một chiều, người nổi danh giữa quần chúng và Führer (thủ lĩnh). Chiến tranh văn hóa, hệt như chiến tranh mạng, là hiệu quả nhất khi nó làm chính trị bằng các phương tiện khác.17
Nếu công nghiệp (mạng) xã hội có khuynh hướng thúc đẩy sự tung thông tin giải trí giả cực-hữu, như Zeynep Tufecki và những người khác đã chứng minh bằng tư liệu, có thể cho rằng nó đang chỉ nhặt, phóng đại và phản chiếu lại các tín hiệu được tích lũy bởi thời gian xem và click-kết nối của người dùng.18 Mạng xã hội chỉ cho những người dùng cái họ thậm chí không biết họ muốn. Phải có sự thật nào đó trong điều này. Thế nhưng tất nhiên hệ thống cũng được thiết kế để thịnh vượng trên các chiến tranh văn hóa dễ thay đổi, mà trong đó danh tính người dùng được hình thành qua sự trào lên của sự chú ý, sự đau đớn của sự phẫn nộ và kẻ thù bị nhiếc móc gần nhất. Qua những shitstorm (tình huống tranh cãi kịch liệt) online này, các cộng đồng hình thành dọc theo các tuyến bộ lạc, và những sự khác biệt văn hóa trở nên cứng nhắc, trở nên giống các biên giới hơn là các front thời tiết (ranh giới tách hai khối không khí có tính chất khác nhau). Những sự phẫn nộ như vậy cũng tạo thành dịp cho việc chiêu mộ khán giả cho sự khiêu dâm gây phẫn nộ cực-hữu. Chính qua Sturm und Drang (Bão táp và Xung Kích-trào lưu văn học Đức 1965-1785) như vậy, mà có #gamergate (chiến dịch quấy rối online chống nữ quyền) và #birthergate (chiến dịch cho là Obama không sinh ra ở Mỹ) chẳng hạn, mà một số cử tri cực hữu hiện đại kết đông lại trước tiên.
Chiến lược cực-hữu ‘flooding the zone with shit (làm tràn ngập khu vực bằng cứt)’, như Steve Bannon diễn đạt, được cho là có ý định để đánh lạc hướng và cản trở media. Whitney Phillips gọi điều này là ‘trolling màn khói’ bởi vì nó đóng đinh sự chú ý bất cứ nơi nào nhưng vào cuộc tấn công thật chống lại các quyền tự do dân chủ. Nhưng nó là nhiều hơn thế. Trong những chấn động hình thành bản sắc kỹ nghệ, chẳng bao giờ thất bại để gọi tên kẻ thù, và nó giữ các troll sôi nổi và được huy động.19 Sự phân biệt bạn/thù là bản chất của chiến lược trả thù. Sự biểu hiện cương lĩnh của nó là sự săn phù thủy được nối mạng, kết hợp các cố gắng của các chính trị gia, các nhà báo, các troll được trả tiền và các chiến binh tự nguyện trong một sự phân công lao động lỏng lẻo. Tất cả những người được bao gồm trong quốc gia có thể tham gia: những kẻ phản động luôn luôn được hòa hợp với thú vui bình dân của sự gia nhập.
Thật cám dỗ để so sánh loại tấn công này với ‘máy chiến tranh’ du cư mà về nó Deleuze và Guattari đã viết. Họ nhắc đến văn hóa của các chiến binh du cư cổ xưa mà, họ lập luận, đã đánh các cuộc chiến theo cách tập trung trước khi nhà nước chiếm đoạt chiến tranh. Nhưng họ cũng định dùng thuật ngữ để mô tả các nhà cách mạng đương thời có thể đánh vào sườn nhà nước như thế nào. Hình ảnh này cho biết một cách nhìn bình dân, không tưởng mạng (cyberutopian) về chủ nghĩa hoạt động online trong những ngày đầu của nó: internet, sự tăng tốc nhịp độ của hàng hóa hóa, sẽ phân hủy quyền lực chính trị thành một ‘vùng nomoid (nửa nhóm) của các cụm điên rồ’, ‘các web không thể hiểu được của swarmachinery (đám đông máy móc)’. Hoàn toàn ngược lại, trong thực tế: như Jen Schradie đã chứng minh bằng tư liệu, những kẻ thắng chiến tranh mạng có khuynh hướng là các tổ chức từ trên-xuống, tập trung, được tài trợ tốt về mặt truyền thống.20
Tuy vậy, Nick Dyer-Witheford và Svitlana Matviyenko chỉ ra, chiến tranh số đã bị nhà nước chiếm đoạt rồi: thực ra, nó đã chẳng bao giờ không là một chiến lược nhà nước. Từ Hoa Kỳ đến Nga, nhà nước đã vận hành các trang trại troll, các tài khoản giả và các chiến thuật chiến tranh mạng khác, chiêu mộ hàng triệu binh lính-công dân, đôi khi họ không biết về nó, trong một levée en masse (tổng động viên) mới. Khía cạnh từ trên-xuống này là thiết yếu cho chiến tranh mạng: hiện tượng về ‘chủ nghĩa khủng bố ngẫu nhiên’, nơi các sự xúi giục chính thức ước định về mặt xác suất khả năng của một cuộc tấn công khủng bố bên trong một dân cư cho trước, sẽ không có nghĩa gì mà không có nó. Sự dính líu dân chúng vào chiến tranh mạng dân tộc chủ nghĩa, những sự bùng nổ của nó thành bạo lực thế giới thực, giống sát hơn với quá trình ‘tự-kích hoạt’ của việc tự nguyện làm gián điệp và sự tố cáo mà sử gia Alf Lüdtke mô tả trong cuộc sống hàng ngày của các chế độ phát xít hơn là bất cứ thứ gì ‘du mục’. Sự săn phù thủ được nối mạng, tuy vậy được phân tán, là phần rồi của, và lấy manh mối của nó từ, nhà nước.21
Và vật phun tóe từ vạc hâm nóng của chiến tranh văn hóa, như các tia lửa từ một lò lửa, dường như là các hành động ngẫu nhiên của bạo lực vô nghĩa mà trong đó ‘các anon’ phát xít trolling từ các bảng tin game thủ và các diễn đàn alt-tech (nền tảng mạng xã hội) huấn luyện sự tàn bạo bị meme, bị châm biếm trên người trần mắt thịt.
III.
Chiến lược trả thù lan vào các cộng đồng online của sói đơn độc, sinh ra một sự lây lan mới. Những sói đơn độc giết người có tính meme tự giác. Họ học và bắt chước nhau hệt như những kẻ xả súng hàng loạt học và bắt chước. Họ cố gắng hết sức, từ tuyên ngôn đến livestream, đến sự bắt chước tòa án. Sói đơn độc là một kẻ man rợ có tinh thần kinh doanh, một kẻ tàn sát-một người, mà muốn được sao chép.
Số các cuộc tấn công sói-đơn độc đã tăng lên trong những năm gần đây, nhưng cũng thế là tốc độ tăng. Theo cơ sở dữ liệu do Mark Hamm và Ramon Spaaij duy trì, sử dụng một định nghĩa rất hẹp về cái gì tạo thành một cuộc tấn công sói đơn độc, số các cuộc tấn công như vậy ở Hoa Kỳ trong các năm 1980 là 31; trong các năm 1990, là 27; trong các năm 2000, là 54; vào năm 2016, khi Trump nhậm chức, đã là 115 rồi cho các năm 2010. Giữa các năm 1970 và các năm 2000, số vụ đã tăng 143 phần trăm. Nếu giả như các năm 2010 đã ngừng trong năm 2016, tốc độ tăng giữa hai thập niên lẽ ra đã là 213 phần trăm. Thực ra, gia tốc đã tiếp tục, với 300 đến 350 vụ về ‘các tội do ý thức hệ cực đoan truyền cảm hứng’ một năm sau 2016, và 47 đến 78 ‘vụ giết người liên quan đến cực đoan’ mỗi năm giữa 2015 và 2019. Các vụ giết người trong các năm 2010 cũng đã đẫm máu nhất cho đến nay, với số cao hơn nhiều về ‘các vụ giết người hàng loạt’ so với trong bất kể thập niên trước nào.22
Phần của cái lây về meme sói đơn độc có thể là sự muốn chết mà nó trình bày. Các sói đơn độc giết người có khuynh hướng sống sót qua việc làm của họ, nhưng trong tưởng tượng của mình họ thường chết. ‘Hãy giết tôi đi,’ incel giết người Alek Minassian đã hét vào cảnh sát vũ trang sau khi cuộc tấn công bằng xe của hắn lên những người đi bộ ở Toronto. ‘Tao có súng trong túi tao. Hãy bắn vào đầu tao.’ ‘Tao đã làm xong công việc của tao,’ Darren Osborne nói với cảnh sát sau khi lao một xe tải vào một đám đông tại Nhà thờ Hồi giáo Finsbury Park, ‘bây giờ mày có thể giết tao.’ Anders Behring Breivik, trước khi bị cảnh sát bắt vì các cuộc tàn sắt của hắn ở Oslo và Utøya, đã ngẫm nghĩ liệu có tự bắn vào đầu hắn không. Dylann Roof, trước khi bắt đầu cuộc tàn sát của hắn tại một nhà thờ da đen ở Charleston, Nam Carolina, đã để lại các ghi chú tự sát cho cha mẹ hắn. Alexandre Bissonnette, kẻ giết người ở nhà thờ Hồi giáo Quebec, đã tốn hàng tháng để lên kế hoạch tự tử của mình và nghiên cứu các vụ nổ súng hàng loạt và các cuộc tấn công tự sát. ‘Hãy giết tôi đi,’ Nikolas Cruz kẻ xả súng hàng loạt Florida cầu xin cảnh sát. ‘Đồ chết tiệt hãy giết tao đi.’ Payton Gendron, tên neo-Nazi xả súng, đã tưởng tượng, trong năm trước hành động của hắn ở Buffalo, về việc tiến hành một vụ ‘tự sát-giết người’. Tuyên ngôn của hắn đã lượng trước cái chết của mình và, tiếp sau các vụ giết người của hắn, cảnh sát đã thuyết phục hắn hạ súng xuống khi hắn nhắm súng của của hắn vào cổ hắn. Sau khi tiến hành một vụ tàn sát phân biệt chủng tộc ở Jacksonville, Ryan Palmeter đã tự bắn mình. Umberto Eco viết về ‘anh hùng Phát xít-Bất diệt (Ur-Fascist hero)’ mà khao khát ‘cái chết quả cảm’. Kẻ phát xít sói đơn độc, hầu hết là đàn ông, muốn kết liễu cuộc đời: ‘tuyên ngôn’ của hắn là một lá thư tuyệt mệnh. Như Pankaj Mishra diễn đạt, tôn giáo của tính da trắng đã trở thành một tôn giáo tự sát.23
Tuyên ngôn sói đơn độc gốc, truyền cảm hứng cho bệnh dịch bắt chước, là 2083 của Breivik: một tác phẩn cóp nhặt của trò chuyện game thủ, fantasy kiểu-Marvel, và những lời chửi thề cắt-và-dán từ các website cánh-hữu Anglo-Mỹ khác nhau. Trong kịch bản thời kỳ dẫn đến Ngày Phán xét cuối cùng của nó, ‘những người yêu nước’ sẽ triển khai anthrax, các mầm bệnh chết người, vũ khí hủy diệt hàng loạt, thậm chí vũ khí nguyên tử chống lại ‘các nhà Marxist văn hóa’. Sẽ có ‘những vụ hành quyết có tổ chức đối với bọn phản bội đa văn hóa’. Breivik, tuyên bố các chính phủ dưới sự kiểm soát rồi của ‘các nhà Marxist văn hóa’, hy vọng rằng những sự tới đỉnh cao như vậy sẽ được châm ngòi bởi ‘các cuộc tấn công quân sự gây sốc’ như cuộc của riêng hắn. Ông đã không kỳ vọng sống để thấy cuộc chiến tranh chủng tộc toàn lục địa này, lên đỉnh tới sự hủy diệt hạt nhân. Các cơ hội chết của ông trong cuộc tấn công được lên kế hoạch của mình, ông ước lượng, là trên 80 phần trăm. Cơ hội của ông về sự sống sót của mình để hoàn tất ‘ba mục tiêu chính và sứ mệnh tiền thưởng của ông là ít hơn 5%’. Tuy nhiên, ông cổ vũ những người theo tiềm năng: ‘Đây là ngày trọng đại bạn đã hân hoan chờ đợi rất lâu rồi … hôm nay bạn sẽ trở nên bất tử.’24
Tuy nhiên có một sự mong ước chết không hoàn toàn là cùng thứ như là tự tử. Hầu hết ‘sói đơn độc’ giết người sống sót qua hành động của họ. Một nghiên cứu của FBI về 160 vụ giết người hàng loạt ở Hoa Kỳ giữa 2000 và 2014 đã tìm thấy rằng 64 kẻ tấn công đã kết thúc cuộc tấn công của họ bởi việc tự tử. (‘Mass killings (các vụ giết người hàng loạt)’ là một sự phân loại rộng hơn ‘các vụ sói đơn độc giết người’ rất nhiều, nhưng như chúng ta sẽ thấy sự phân biệt giữa các loại này là xốp, có nhiều kẽ hở.) Trong số những người tự tử, sự tồn tại được giả định của một ước mong chết sẽ không giải thích vì sao họ chọn thứ lối ra này. Câu trả lời của Breivik là: để lan truyền lời nói. Như ông gợi ý, những vụ giết người của ông là ‘kế hoạch marketing’ cho tuyên ngôn của ông. Ông đã không chỉ ra ngoài để khủng bố nền dân chủ xã hội Na uy, mà để châm ngòi cho một bệnh dịch tuyên ngôn phát xít. Và điều này cần xảy ra, không phải qua tổ chức dọc, mà qua sự trao đổi ngang hàng, ngang. Nó đã có kết quả. Kẻ tân-Nazi mà đã sát hại đại biểu quốc hội đảng Lao động Jo Cox trong 2016 là một kẻ bắt chước bị mê hoặc và cũng thế, là kẻ giết người ở thành phố Christchurch mà đã tìm cách biến mình thành một meme linh cảm chiến tranh chủng tộc toàn cầu bằng việc livestreaming việc hắn tàn sát 50 người Muslim. Tuyên ngôn của người sau đã là một tài liệu có tính meme, được đóng gói với trứng Phục sinh cho những người hâm mộ khao khát cười to (lulz-hungry) giữa các cộng đồng chơi game trên 8chan. Hắn đã tìm cái chết ‘anh hùng’ trong ‘sự phục vụ cho cuộc thập tự chinh’ giết người ‘vĩ đại nào đó’. Trong vòng vài tuần, một kẻ phát xít giết người khác nữa bị 8chan-nhúng đã tấn công, lần này một nhà thờ Do thái ở San Diego, để lại một tuyên ngôn đầy-meme nữa. Vài tháng sau, một tay súng đã vào một cửa hàng Walmart ở El Paso và bắt đầu bắn. Trước khi làm việc này, hắn đã đăng một tuyên ngôn trên 8chan, với một thông điệp nói, ‘có lẽ tôi sẽ chết hôm nay’.25
Các tuyên ngôn hầu như hệt nhau trong sự biện minh của chúng, đơn giản hăm hở trong việc bày tỏ các phương pháp của họ cho những người bắt chước và ủy mị sặc sỡ trong việc tự-tôn vinh. Tuy vậy, cái quan trọng hơn nội dung của họ là việc họ cố tình nô đùa với một cộng đồng sói đơn độc online. Trong các bảng tin nơi các cộng đồng này phát đạt, các anon (những người nặc danh) cần mẫn chia sẻ các tuyên ngôn này trong hy vọng khuyến khích sự bắt chước. Họ nói một cách ngưỡng mộ về kẻ giết người ở Christchurch và về mong muốn của họ để ‘đánh bại số điểm cao của hắn ta’. Một anon đã mô tả vụ thảm sát được livestream của hắn như ‘có lẽ là meme mạnh mẽ nhất chúng ta đã từng có: video bắn súng’. Khi các sói đơn độc bắn súng đăng ngay trước khi bắt đầu các cuộc bạo loạn của họ, các anon cầu xin họ ‘đạt được số điểm cao hơn’.26
Sự tách rời lạnh lẽo, sự rối loạn nhân cách chống xã hội của các anon nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta ở trong vương quốc siêu thực, nơi game thủ đeo HUD-(Head-Up Display-màn hình hiển thị trực tiếp) tương tác với một vật thay thế giả tạo được mô hình hóa số. Và các sói đơn độc giết người biết sâu sắc sự thực mà, cũng như việc tạo ra sự chém giết, họ đang tạo ra một hình ảnh về sự chém giết. Trong cuộc tàn sát kỳ thị người đồng tính của hắn tại Pulse nightclub ở Orlando, Omar Mateen đã không thể cưỡng lại việc kiểm tra điện thoại của hắn, lướt các nguồn tin của hắn để xem nếu hắn có thể tìm thấy sự nhắc đến những gì đang xảy ra. Mise en abyme (hiệu ứngmà một hình ảnh xuất hiện trong chính nó [đến vô tận] cũng được gọi là hiệu ứng Droste) này, Hoa Thủy tiên-trong-âm bản, giống kỳ quái một thời khắc trong chiến tranh vùng vịnh (1991) trong đó CNN chuyển sang các phóng viên ‘trực tiếp’ ở vùng vịnh để tìm ra cái gì đang xảy ra, chỉ để thấy rằng họ đang xem CNN để tìm ra cái gì đang xảy ra. Cứ như cái đang ‘xảy ra’ là ảnh số. Cứ như những hành động tàn ác của Mateen chỉ được xác minh thật sự một khi chúng trở thành các hình ảnh số.27
IV.
Đây là sự lây xã hội loại gì? ‘Bệnh dịch nâu’ gốc, như lịch sử của Dylan Riley về chủ nghĩa phát xít Âu châu chứng minh, sự lan truyền qua một văn hóa sống động của các hội cựu binh, các câu lạc bộ quân đội, các đảng cánh hữu và các tổ chức bán-quân sự trong các năm 1920 và 1930. Từ Stahlhelm (Mũ Sắt) của Đức đến Union nationale des combattants (Liên hiệp quốc gia của các chiến binh) của Pháp, các tổ chức cựu binh đã là xương sống của một phong trào xã hội hung dữ chống lại chủ nghĩa cộng hòa, nền dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Chúng đã có các liên kết mật thiết với các đảng chính trị bảo thủ và chúng đã bị vướng mắc trong một mạng lưới công dân dày đặc của các nhà thờ và các tổ chức tình nguyện.28 Bệnh dịch sói đơn độc cất cánh trong một môi trường rất khác.
Sự bắt đầu của khái niệm sói đơn độc có thể truy nguyên về các hoạt động của các cựu chiến binh Việt Nam cực-hữu mà quay về một Hoa Kỳ đã thay đổi căn bản. Trong hầu hết lịch sử của nó, thượng đẳng da trắng đã là một chính sách được tôn trọng công khai ở Hoa Kỳ. Ku Klux Klan, vào đỉnh điểm của nó trong các năm 1920, đã là một phong trào dân phòng thượng đẳng da trắng với sự ủng hộ dòng chính, gần với các sở cảnh sát địa phương, thường hoạt động như một cánh tay của quyền lực nhà nước. Quang cảnh Klan, mà đã nổi lên sau phong trào các quyền dân sự và chiến tranh Việt Nam, đã thay đổi. Các liên minh, mà những người thượng đẳng da trắng trước kia có được với các chính trị gia, cảnh sát và tư pháp, đã yếu đi. Cho dù họ vẫn có thể dựa vào quan hệ thân thiện của cảnh sát địa phương, chính phủ liên bang bây giờ đã là kẻ thù của họ.29
Tuy nhiên, như lịch sử về phong trào ‘quyền lực gia trắng’ của Kathleen Belew cho thấy, những gì phong trào các quyền dân sự đã phá hủy, [chiến tranh] Việt Nam đã có thể giúp xây dựng lại. Các cựu chiến binh đã có kinh nghiệm chiến đấu giết những người cộng sản, và nhiều trong số họ quay về Hoa Kỳ dự định sử dụng nó. Ví dụ, trong vụ Tàn sát Greensboro năm 1979, các thành viên của Ku Klux Klan và Đảng Nazi đã giết các đảng viên của Đảng Công nhân cộng sản trên đường phố Greensboro, Bắc Carolina, với sự thông đồng của cảnh sát địa phương. Tuy nhiên. Muộn hơn, ngày càng bị tước mất bạo lực được tha thứ chính thức, một liên minh của các neo-Nazi, các Christian Identitarian (những người theo phong trào cực hữu Kitô giáo), các nhà hoạt động chống-thuế và các thành viên Klan đã hình thành một tiểu văn hóa nổi loạn thù địch với chính phủ liên bang mà họ tin là đã phản bội họ.30
Trong khi thuật ngữ ‘sói đơn độc’ được FBI tạo ra với một dấu vết rõ ràng của sự ngưỡng mộ lãng mạn, nó đã là từ bên trong các Hiệp sĩ của Ku Klux Klan, tổ chức được thành lập bởi cựu Nazi kích động sinh viên David Duke và chủ của Stormfront tương lai Don Black, mà ý tưởng được trình bày rõ ràng. Louis Beam, con Rồng Lớn của Klan texas, đã giết người với sự xuất sắc [được DFC-huân chương Chữ thấp Bay Xuât sắc] trong chiến tranh Việt Nam. Khi về nước, ông tổ chức các dân quân để tấn công những người Việt Nam nhập cư, và ông bị buộc tội hai lần với sự tấn công bom vào các trụ sở cánh tả. Nhưng ông lo rằng bất kể hệ thứ bậc vũ trang chính thức nào có thể quá dễ bị thâm nhập và bị triệt phá. Trong các bài viết của một cựu-đặc vụ–CIA, Đại tá Louis Amoss, ông tìm thấy khái niệm về ‘sự kháng cự không có nhà lãnh đạo’. Amoss đã nghĩ ra ý tưởng về phân tán lực lượng vũ trang thành các tổ ma bé tẹo gồm một và hai người, mà có thể hành động mà không có chỉ dẫn từ ban lãnh đạo. Thật mỉa mai, Việt Minh đã dùng ý tưởng này để đánh bại Hoa Kỳ hùng mạnh hơn rất nhiều. Beam, một người nhiệt liệt chống-cộng sản, đã thấy trước một đêm đen tối của ‘sự chuyên chế’ liên bang đối với chủng tộc da trắng so sánh được với chế độ độc tài cộng sản. Ông gợi ý rằng ‘những người yêu nước’ có vũ trang sẽ phải tiến hành sự kháng chiến không có nhà lãnh đạo, còn cánh cực hữu có tổ chức hạn chế mình ở hoạt động tuyên truyền.31
Đấy là một chiến thuật sinh ra từ sự cô lập chính trị và sự thiếu kiên nhẫn thiên niên kỷ (tận thế). Một trong những người chủ trương lớn tiếng nhất của nó sau Beam là tân-Nazi Tom Metzger, mà đã khai trương tổ chức có thương hiệu White Aryan Resistance (WAR-Kháng chiến Aryan da Trắng) trong cùng năm mà bài báo của Beam được công bố. Chấp nhận lý do căn bản của Beam, chiến tranh tự giác tránh tư cách thành viên chính thức, kêu gọi những người ủng hộ đồng nhất với các quy tắc của nó và hành động theo chúng. Đối với Metzger, lý tưởng sẽ là để có đông các lực lượng bán quân sự đảm nhận chính phủ: ‘Lực lượng SS đã làm ở Đức … chúng ta có thể làm nó ngay ở đây trên đường phố nước Mỹ.’ Sự tất yếu của ‘sói đơn độc’ phát sinh từ sự thực rằng hầu hết những người da trắng bị ‘chết não’, là một ‘bầy’. Từ các năm 1990, ông đã bị ấn tượng sâu sắc với hỏa lực được tổ chức của các mạng lưới jihadist (thánh chiến) tấn công trên đất Hoa Kỳ, và khả năng của họ để kích động xung đột leo thang. Như với Breivik, hy vọng của Metzger là bạo lực bày tỏ của các cá nhân sẽ kích động một cuộc chiến tranh chủng tộc tận thế, một cuộc đấu tranh cuối cùng trong đó những người da trắng sẽ buộc phải chọn bên. Tuy nhiên khi khái niệm sói đơn độc cất cánh, nó không phải vì bất cứ lý do nào mà Beam hay Metzger có thể hình dung.32
Hiện tượng sói đơn độc hiện đại đã bùng lên trong một môi trường dân sự bị bần cùng, giữa sự tan vỡ của các mối quan hệ xã hội, bất bình đẳng thu nhập tăng lên, sự tin cậy xã hội sụp đổ và khủng hoảng quá độ của các chuẩn mực xã hội được kế thừa. Các quy tắc đạo đức thiêng liêng và chính trị trong thời đại của sói đơn độc lên cao đã là sự cạnh tranh phổ quát và hoang tưởng tổng quát. Các vụ tàn sát sói đơn độc, theo từ ngữ của nhà xã hội học Émile Durkheim, đã là các tội ác ‘anomie (vô luật lệ)’ thượng hạng, sinh ra từ chủ nghĩa hư vô tiếp sau những sự gián đoạn nghiêm trọng của cơ cấu xã hội.33 Sự lây lan cũng đã chẳng lan truyền chủ yếu qua các tổ chức bên lề hay các báo đài online truyền thống của cực hữu, như Stormfront của Don Black, không hơn cuộc bạo loạn đồi Capitol đã tập hợp các lực lượng của nó qua các dân quân chút nào. Các tuyên ngôn và meme sói đơn độc đã là đồng tiền của các diễn đàn game thủ, Reddit channels và các nền tảng công nghiệp (mạng) xã hội khác với không sự liên kết phát xít công khai nào.
Sự lan truyền của ý tưởng sói đơn độc thách thức logic bình thường của sự lây xã hội. Nhà xã hội học Damon Centola phân biệt một cách hữu ích giữa sự lây đơn giản và phức tạp. Các sự lây đơn giản có một ngưỡng thấp cho sự thu hút, như thế chúng lan truyền nhanh qua các mối liên kết ngẫu nhiên nhất. Môi trường lý tưởng cho sự truyền bá của chúng là một mạng ‘thế giới nhỏ’ với nhiều ‘mối quan hệ yếu’, như internet, hay các thị trường toàn cầu. Một thế giới của các cộng đồng đan chặt, mặt khác, sẽ là rất bất lợi. Mỗi cộng đồng sẽ là một mạng dư thừa hoạt động như một sự ngáng trở khuếch tán. Một sự lây lan phức tạp có hành vi khác. Các ngưỡng cho sự thu hút là cao hơn bởi vì bất cứ ai xem xét một ý tưởng mà là rủi ro, hay lợi ích của nó là không chắc chắn, cần rất nhiều sự thuyết phục và sự xác nhận xã hội. Kết quả là một sự lây như vậy lan truyền hiệu quả nhất qua các cộng đồng đóng kín với rất nhiều sự tin cậy xã hội.34 Đây là cách các phong trào xã hội, từ Công xã Paris đến các quyền dân sự, truyền bá. Hiện tượng sói đơn độc không nghi ngờ gì là một sự lây phức tạp. Tuy nhiên nó có vẻ ứng xử như một sự lây đơn giản. Nó lan truyền, không qua các cộng đồng đan chặt, mà qua sự chống-các cộng đồng của ‘các anon’: những kẻ không biết nhau và, như tiểu văn hóa troll của họ ủy thác, thường tỏ ra tàn ác hung bạo với nhau. Sự lây sói đơn độc hành xử, tức là, như một phong trào xã hội chống-xã hội.
Việc các diễn đàn chơi game hóa ra là chống-cộng đồng lựa chọn có hiệu quả đáng chú ý. Trong khung cảnh giảm của tương tác xã hội, hẹn hò và tình dục – đặc biệt trong thế hệ trẻ hơn – chat online là thỏa mãn hơn tương tác mặt-đối-mặt. Một người cô đơn có thể là một ‘huyền thoại’ trong các cộng đồng online: hãy xét Breivik, người đã dùng hàng năm trước cuộc thảm sát của hắn để chơi trò chơi Call of Duty ở nhà của mẹ hắn. Tuy vậy, chơi game không chỉ là hội nhập xã hội. Như Alfie Bown diễn đạt trong The Playstation Dreamworld, các trò chơi là ‘các dụng cụ vận hành chúng ta’. Interface HUD đưa chúng ta vào một thế giới cõi mơ mà không phải là thế giới của riêng chúng ta và cho chúng ta một cơ hội để khát khao những thứ mà chúng ta không mong muốn. Như giáo phái Qanon chứng minh, cực hữu đã học được rồi cách để đưa điều này vào hoạt động. Cánh sói đơn độc của các diễn đàn game thủ đã tìm được cách để trò chơi hóa các cuộc tàn sát phân biệt chủng tộc và giới tính, như thế giúp truyền bá meme.35
Tuy nhiên phân tích-giấc mơ về trò chơi hóa chỉ là một nhân tố hỗ trợ sự truyền bá. Giỏi nhất nó duy trì một fantasy (sự tưởng tượng) nhóm, đủ cho vài người để làm theo. Nó không giải thích sự hấp dẫn của fantasy, cũng chẳng giải thích cái gì có thể được bắt chước vậy của ý tưởng về việc trang bị và tấn công các nhà thờ hồi giáo, nhà thờ Do thái, nhà thờ của người da đen, phòng khám phá thai và trung tâm mua sắm, hay việc tông một chiếc xe tải vào các đám đông người, hoặc xông vào những người đi bộ với dao. Nó cũng chẳng đủ để nhắc đến khái niệm về ‘chủ nghĩa khủng bố ngẫu nhiên’. Trong khi nó có lẽ chứa sự thật nào đó – tuyên truyền sói đơn độc hoạt động, như Ernst Simmel viết về chủ nghĩa chống semitism (Do thái), như một ‘quả bom robot tâm lý’ nổ trước khi một phát đạn duy nhất được bắn ra – một loạt ngưỡng hẳn đã được vượt qua rồi cho đủ số người để là dễ tiếp thu tuyên truyền. Càng gây bối rối hơn là bệnh dịch này lan truyền theo cùng hình mẫu như các vụ xả súng hàng loạt, khi tội bạo lực tổng thể đã giảm.36
Một manh mối có thể nằm trong sự thực rằng, như được lưu ý, rất nhiều sói đơn độc chuẩn bị cho sự phẫn nộ giết người của họ bằng việc trở thành những người viết tồi trong thể loại tuyên ngôn chính trị. Mark Hamm và Ramon Spaaij chứng minh bằng tư liệu cho một xu hướng cho các sói đơn độc tấn công liên kết các sự oán giận cá nhân và chính trị lại với nhau, tạo ra ‘các ý thức hệ kết hợp các mối thù truyền kiếp với những lời than phiền chính trị hay tôn giáo rộng hơn’. Đấy chính xác là cái người ta tìm thấy trong tuyên ngôn sói đơn độc. Ví dụ, Elliot Rodger, nhà hoạt động quyền đàn ông ban đầu, kẻ giết người – và ‘quý ông tối cao’ theo những người hâm mộ online của hắn – đã kết hợp sự khốn khổ cá nhân của hắn và cảm giác bị mất đối với tính ghét kết hôn hung dữ và chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc. Các video tự-thần thoại hóa dài dòng của hắn, tự truyện và sự tới đỉnh cao tận thế kiểu truyện tranh thêu dệt lịch sử của hắn về chấn thương tự ái, sự bắt nạt, sự cô lập, tự ghét chủng tộc, cảm giác về sự suy sụp giai cấp và cảm giác bị lừa về khoái cảm tình dục và sự thoái mái lãng mạn thành một tờ quảng cáo hoang tưởng cho các phụ nữ ‘cách ly’ giống như ‘bệnh dịch họ là’, buộc họ vào ‘các trại tập trung’ và bỏ đói họ đến chết.37
Các tác phẩm tuyên ngôn của các sói đơn độc bày tỏ cái mà chuyên gia chống chủ nghĩa khủng bố Florian Hartleb gọi là một ‘ý thức hệ phàn nàn cá nhân’. Hoặc, để diễn đạt theo cách khác, một thuyết âm mưu cá nhân. Nó pha trộn một chương trình báo thù được cách điệu với một cố gắng tuyệt vọng để tạo-ý nghĩa. Vì cri de coeur (tiếng thét của trái tim) của thuyết âm mưu không chỉ là ‘họ đều muốn bắt tôi’, mà cả là ‘chẳng gì có ý nghĩa cả’. Trong một khủng hoảng ý nghĩa, thuyết âm mưu không phải là một con đường đến sự điên rồ cá nhân mà là sự tự-chữa lành cho nó. Ernst Simmel viết về chủ nghĩa chống semit (do thái) Nazi mà nó là một ‘sự bay vào chứng rối loạn tâm thần đám đông’ như một cố gắng để chữa ‘sự điên rồ cá nhân’. Borges mô tả nó như một ‘ảo giác học được’. Sự bay này vào ảo giác, sự điên rồ được nối mạng chữa cho bệnh gì?38
V.
Có mối nguy hiểm trong việc phán bệnh học về bệnh lý ‘sói đơn độc’. Nó có thể bị phi chính trị một cách nguy hiểm, và nó có nguy cơ để bọn giết người khỏi chịu trách nhiệm vì các hành động của chúng. Khi Breivik trải qua những đánh giá bệnh tâm thần đầu tiên của hắn trước vụ xử, chẳng hạn, những người đánh giá đã quyết định rằng các niềm tin kỳ quái cửa hắn là ảo tưởng tâm thần và chẩn đoán hắn mắc bệnh tâm thần phân liệt hoang tưởng. Điều này lặp lại một sự đánh giá bệnh tâm thần trước của một tên đánh bom đinh và cựu đảng viên Đảng Dân tộc Anh (BNP) David Copeland trước vụ xử vì một loạt vụ tấn công chống lại những người Anh da đen và đồng tính trong cuối các năm 1990. Trong khi có vẻ không có nghi ngờ nào giữa các chuyên gia về bệnh tật của Copeland, Breivik cuối cùng được coi là tỉnh táo và bị kết án hai mươi mốt năm tù giam.39
Thế lưỡng nan là hiển nhiên. Một mặt, các niềm tin mà các chuyên gia tâm thần dễ có thể xem như hoang tưởng, trong thức tế, là hoàn toàn bình thường giữa những người cực hữu. Mặt khác, điều này liệu có nghĩa rằng các niềm tin phát xít là tương đương về chức năng với các sự hoang tưởng? Ngay cả nếu chúng là, chỉ vì một cá nhân là hoang tưởng không có nghĩa rằng các hành động của họ không có tính chính trị. Trong Tâm trí đáng ngờ (Suspicious Minds), Joel và Ian Gold lập tư liệu việc văn hóa định hình các sự hoang tưởng của những người rối loạn tâm thần, lưu ý chẳng hạn sự phổ biến của các sự hoang tưởng Truman Show theo tiêu đề phim cùng tên. Các bệnh nhân có thể bắt đầu cảm nhận rằng có cái gì đó sai trong thực tế của họ. Họ có thể trải nghiệm apophenia (ảo giác liên hệ), cảm giác bối rối rằng các sự kiện ngẫu nhiên trong đời họ được kết nối. Họ có thể cảm nhận các thứ xảy ra xung quanh họ như, theo cách hiển nhiên nào đó nhưng vẫn khó hiểu, ‘bị cố định’, ‘bị lừa’, ‘bị phối hợp’. Họ có thể hình thành một sự hoang tưởng trong đó họ là đối tượng của một ‘trò chơi rộng lớn’ với các quy tắc không dò được, trong đó họ liên tục bị theo dõi và bị thao túng, và trong đó những người trong cuộc sống của họ là các diễn viên. Nếu có thể có một ‘hội chứng Truman’, sao lại không thể có một ‘hội chứng chiến tranh thông tin’, hay một ‘hội chứng QAnon’, trong đó kinh nghiệm loạn thần kinh bị chính trị hóa?40
Tuy nhiên không có bằng chứng nào rằng, nói chung, chủ nghĩa phát xít sói đơn độc là một sản phẩm của sự hoang tưởng rối loạn tâm thần. Cố gắng của các Freudian (những người theo thuyết của Freud) chính trị như Simmel để diễn giải chủ nghĩa phát xít như ‘sự rối loạn tâm thần tập thể’ phụ thuộc vào các lời xác nhận bị bác bỏ của ‘các nhà tâm lý học đám đông’ như Gustave Le Bon rằng quần chúng thoái bộ, trở nên phi lý và mất năng lực hành động cá nhân trong một đám đông. Thật cũng khó để hiểu các phạm trù về bệnh tâm thần được dự định cho bệnh khoa cá nhân lại có tể áp dụng cho một ‘khối đông người’ hay ‘nhóm’ mà không có một số bước trung gian. Và ở mức cá nhân, chỉ bởi vì một niềm tin giống một sự hoang tưởng không có nghĩa nó có chức năng của một sự hoang tưởng cho cá nhân giữ nó. Thực ra, một niềm tin và một sự hoang tưởng là hai hiện tượng hoàn toàn đối lập: các sự hoang tưởng không được xem như các niềm tin chút nào, mà như những sự chắc chắn tuyệt đối. Trong khi bệnh tâm thần là một bộ tiên đoán về hành động sói đơn độc, một bộ tiên đoán lớn hơn nhiều là kinh nghiệm quân sự. Theo cơ sở dữ liệu sói đơn độc Mỹ được Hamm và Spaaij tạo ra, chỉ 40 phần trăm các sói đơn độc giết người bị bệnh tâm thần. Những người mắc, bị lo, trầm cảm, bệnh tâm thần phân liệt khác nhau và, giữa các binh lính, bị rối loạn stress sau-sang chấn. Một nghiên cứu về ‘các tác nhân cô đơn’ Âu châu tìm thấy rằng khoảng 35 phần trăm bị loại rối loạn sức khỏe tâm thần nào đó, so với 27 phần trăm dân cư nói chung.41
Thuyết (nghiên cứu) nguyên nhân của ‘sói đơn độc’ giết người sẽ không chuyển thành tâm lý học ‘tập thể’ hoặc tiết lộ một ‘kiểu’ tính cách đặc biệt. Có cái gì đó sai nghiêm trọng về bất cứ cố gắng nào để chuyển các cuộc đấu tranh chính trị thành các cuộc đấu tranh vô thức của nhà trẻ. Những phân tích như vậy, như Daniel Pick kể lại về các nhà phân tâm học thời chiến tranh trong The Pursuit of Nazi Mind, tạo ra một bức tranh bị đơn giản hóa và giả hoàn toàn về những đầu óc vô thức bị điều khiển bởi các phạm trù vĩnh cửu như phức cảm Oedipus. Một phê phán tương tự áp dụng cho những cố gắng của Theodor Adorno và các đồng nghiệp của ông để vẽ chân dung kẻ sắp-là phát xít trong những nét phác họa của một ‘nhân cách độc đoán’. Bằng chứng kinh nghiệm cho một tính cách như vậy, và quan hệ của nó với thành viên phát xít mới thực sự, là yếu. Nhưng chúng ta cũng chẳng thể bỏ qua lĩnh vực tâm lý, vì đó là nơi sự đau khổ bị gây ra về mặt chính trị đến lượt bị chính trị hóa và được chuyển thành hành động bạo lực. Chúng ta cần một cách tiếp cận mà không chưng cất hiện tượng này thành các loại bệnh tâm thần giả hoàn toàn cũng chẳng che đạy nó trong sự phân tích chính trị khái quát. Loại ‘chẩn đoán-xã hội’ có tính gợi ý của Frantz Fanon có thể hữu ích ở đây. Nó có thể cho phép chúng ta thấy tình hình lịch sử có thể, như nhà phân tâm học Derek Hook diễn đạt, ‘được nối dây qua’ cuộc sống tâm lý tình dục của các cá nhân như thế nào.42
Ví dụ, Thomas Mair sói đơn độc của ‘nước Anh Trên hết’, mà đã sát hại dân biểu Lao động Jo Cox trong tuần trước khi Vương quốc Anh bỏ phiếu trong cuộc trưng cầu dân ý để rời EU, đã là một tân-Nazi. Hắn đã bị ám ảnh với các câu hỏi về chiến tranh chủng tộc, chủ quyền quốc gia và sự sa sút hậu-đế quốc. Nhưng các niềm tin của hắn đã cực đoan, chúng đáp lại cùng câu hỏi đã làm cánh hữu Anh bận tâm trong hàng thập niên: từ lời cảnh cáo của Enoch Powell rằng ‘người da đen sẽ cầm roi trong tay đối với những người da trắng’ cho nỗi sợ của sử gia David Starkey, được bày tỏ trong sự hoảng loạn đạo đức giữa các cuộc nổi loạn thanh niên năm 2011 của nước Anh, về ‘những người da trắng đang quay lại’.43
Cuộc biểu tình chống lại sự nhầm lẫn và sự trộn lẫn chủng tộc này đã là cri de coeur của những người phân biệt chủng tộc thế kỷ thứ hai mươi, mà với nó Mair cũng đã bị ám ảnh. Geoffrey Cronjé, nhà lý thuyết của apartheid Nam Phi, gắn bó với các ý tưởng về sự làm ô uế và sự tinh khiết, sự trộn lẫn và ‘hôn nhân khác chủng tộc’. Ông đã lo rằng, không có apartheid, thì những người da trắng thu nhập-thấp và những người da đen sẽ trở nên quá giống nhau về hoàn cảnh xã hội của họ. Họ sẽ trộn lẫn và cảm thấy giống nhau. Ông bị quấy rầy bởi ý tưởng về một ‘sự hỗn độn’ hay ‘mengelmoes (từ Hà Lan)’ của các chủng tộc, một khối đông chó con không thể hiểu được: những người da trắng sẽ trở thành da đen, và xã hội sẽ trở thành cứt.44
Sự khiếp sợ này, như nhà văn Nam Phi J. M. Coetzee quan sát trong tiểu luận của ông về Cronjé, giống quan niệm của Freud về bệnh thần kinh ám ảnh. Sự ám ảnh, khiếp sợ về sự bẩn thỉu, sự ô uế, sự nhiễm bệnh và cái chết, phát triển các nghi lễ và các sự cấm đoán tinh vi để vẫn sạch sẽ. Tuy nhiên hình ảnh về cái chết trong tâm trí ông thực ra là hình ảnh về khát vọng không được thừa nhận của chính ông ta. Các sự cấm đoán của ông rung động với niềm khát khao những thứ bị cấm. Các nghi lễ của ông, Coetzee gợi ý, là một ‘cuộc phản công chống lại khát vọng’. Sự ám ảnh này với sự sạch sẽ và nỗi sợ sự ô uế xuất hiện liên tục trong ý thức hệ phân biệt chủng tộc. Vì sao phức cảm thuộc địa này, có xuất xứ từ sự chia tách bị các nhà cai trị Anh của Nam Phi áp đặt vào cuối thế kỷ thứ mười chín, lại xuất hiện trong đời sống tâm thần của nước Anh thế kỷ thứ hai mươi mốt? Có phải nó cứ như là ‘ma của thần dân thuộc địa trước kia’, như Octave Mannoni diễn đạt, vẫn săn đuổi ‘những người da trắng mà đã chẳng bao giờ rời châu Âu’. Cứ như chủ nghĩa thuộc địa có một kiếp sau.45
Trong thời đại sợ xã hội của chủ nghĩa tân tự do đang phân hủy, các loại tổ chức công dân, mà về truyền thống đã duy trì sự phân biệt và sự chia tách xã hội – thường qua bạo lực dân phòng – hầu như không tồn tại. Sói đơn độc giết người xuất hiện trong lỗ hổng. Mair được cảnh sát mô tả như một người cô đơn, không có bạn nào, không có việc làm và không có đối tác lãng mạn nào. Hắn bị thất nghiệp dài hạn và bị làm khổ sở bởi cái hắn mô tả như ‘cảm giác về sự vô dụng’, điển hình của sự chấn thương giai cấp. Hắn đã nhận được sự điều trị vì hành vi ám ảnh cưỡng chế, và những người hàng xóm mô tả hắn đã cọ mình bằng miếng đệm Brillo cho đến khi chảy máu. Báo chí mô tả nơi cư trú của hắn như cực kỳ ngăn nắp. Bên trong tủ bếp của hắn, tờ Guardian tường thuật, ‘thực phẩm đóng hộp được sắp đặt cẩn thận trong các hàng chính xác, với mỗi nhãn chỉ chính xác theo cùng hướng’. Sát cạnh các đống xuất bản phẩm gọn gàng về Hitler, bọn Nazi và chủng tộc da trắng, hắn giữ các đống giấy vệ sinh ngay ngắn, cứ như để tiến hành chiến tranh với cứt.46
Sự khốn khổ của Mair theo cách nào đó về mặt tình cảm được gắn với, được nối dây với, nỗi sợ của hắn cho ‘chủng tộc da trắng’. Một chi tiết kỳ lạ về điều này là, khi Mair còn là một đứa trẻ, che mẹ hắn chia tay nhau, và hắn đã sống với mẹ mà chồng mới của bà, mà với ông bà đã có một đứa con trai lai-chủng tộc. Mair đã sống trong gia đình đó qua nhiều năm trong đó hắn được biết vì các nhận xét phân biệt chủng tộc thường xuyên của hắn, và trong đó hắn đã thu thập các xuất bản phẩm tân-Nazi, cho đến tận lúc hắn phạm tội giết người. Hàng thập kỷ trước khi hắn lên kế hoạch và thực hiện vụ tấn công của mình, hắn đã là một người say mê theo cực hữu Nam Phi và phong trào quyền lực người da trắng Mỹ, một thuê bao và người viết thư với các ấn phẩm phân biệt chủng tộc. Với biên tập viên của SA Patriot, một tạp chí quyền lực da trắng Nam Phi, hắn viết rằng cả ở Anh và Nam phi, ‘Chủng tộc da Trắng’ bị nguy hiểm trong bàn tay của ‘các đám đông của bọn Đỏ và bọn Đen’. Với sự che khuất của apartheid, hắn viết, ‘chủng tộc da trắng’ đang vật lộn vì sự tồn tại của nó. Lỗi nằm chủ yếu ở ‘những người cộng tác’, ‘những người tự do da trắng’ và ‘những kẻ phản bội’. Trong những ngày cuối của mình, một ‘kẻ phản bội’ sẽ chết.47
Mair rõ ràng đã ngẫm nghĩ việc này trong thời gian nào đó, bị mê hoặc với các vụ đánh bom của David Copeland trong 1999. Nhưng đã cần đến tận tháng Sáu 2016 cho hắn để chuyển từ fantasy sang hành động. Cái gì xảy ra giữa chừng? Mair sống ở Birstall, một thị trấn gần thành phố Bradford ở West Yorkshire. Trong mười bảy năm giữa quan niệm và hành động, West Yorkshire đã là một trung tâm của sự cực đoan hóa cánh-hữu. Điểm bùng phát đầu tiên đã là một loạt cuộc náo loạn xới tung ba thị trấn dệt may trước kia bị tước đoạt ở miền tây bắc công nghiệp vào mùa hè 2001, lên đỉnh điểm trong bạo lực ở Bradford.
Tia lửa được gây ra bởi các đảng phát xít, Mặt trận Dân tộc và BNP, diễu hành trên các thị trấn và tấn công những người Á châu địa phương. Tuy nhiên các thị trấn này đã sẵn sàng bùng nổ. Vì sự giảm sút của các ngành có công đoàn, thị trường việc làm bị chia tách và lương thấp. Các hội đồng địa phương trên thực tế đã chia tách nhà ở và chia tách trường học. Cảnh sát đã hình sự hóa những đàn ông Á châu trẻ, đặc biệt những người Muslim, coi họ như một mối đe dọa cho các cộng đồng da trắng. Cùng cảnh sát đó lại tỏ ra thờ ơ với các cuộc tấn công chống lại các lái xe taxi Á châu, và khi thanh niên địa phương thử chiến đấu chống lại những kẻ khiêu khích cực-hữu, phản ứng của cảnh sát đã tàn ác. Tiếp theo là một chuỗi cuộc tấn công đám đông phân biệt chủng tộc chống lại những người và tài sản Á châu. Báo cáo Cantle chính thức, điều tra các cuộc náo loạn, đã nhấn mạnh sự có tội của các cộng đồng Á châu, ‘tự-chia tách’ về bạo lực. Sự đáp lại này đã bỏ qua chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc mang tính thể chế, sự tước đoạt và các chính sách chia tách chính thức, và nó hạ thấp vai trò xúi giục của chủ nghĩa phát xít. Báo cáo đã đặt nền tảng cho việc chính phủ Lao động Mới quay lưng lại với sự đa dạng và các đòi hỏi của các thiểu số để ‘hội nhập’ vào các giá trị Anh.48
Trong những năm tiếp sau, BNP tích cóp phiếu bàu và chiêu mộ thành viên ở West Yorkshire bằng việc kích động chống lại những người Anh gốc Á, và đặc biệt những người Muslim. Trong thời đại ‘chiến tranh chống khủng bố’, họ điều chỉnh tuyên truyền của họ bằng việc cho rằng Islam đang thử chinh phục nước Anh và biến xã hội da trắng thành một ‘hố địa ngục đa chủng tộc’. Sau 2010, khi BNP bị chia rẽ nội bộ, vai trò của nó được thực hiện với sự thích thú bởi đảng cực-hữu nghi ngờ Âu châu, Đảng UK Độc lập (UKIP), mà đã bùng phát từ các vị trí cố thủ miền nam Anh quý phái của nó qua bạo lực của thuật hùng biện của nó chống lại các thiểu số Muslim. Khai thác tin tức về các bè đảng ăn mặc chỉnh tề dính líu đến một nhóm phần lớn gồm các đàn ông gốc Nam Á, UKIP cho rằng ‘sự trong trắng’ của trẻ em da trắng đã bị ‘hiến tế trên bàn thờ của chủ nghĩa đa văn hóa’. Lãnh tụ của nó Nigel Farage phản ứng với các cuộc tấn công khủng bố như cuộc tấn công vào tòa soạn Charlie Hebdo ở Paris bằng việc cho rằng các cuộc tấn công như vậy là một kết quả có thể tiên đoán được của ‘sự nhập cư hàng loạt’ và sự thất bại của ‘chủ nghĩa đa văn hóa’. Những người Muslim, ông khăng khăng, sẽ phải ‘chia tách lòng trung thành’ của họ giữa nước Anh và Nhà nước Islamic. Sự nhập cư thêm, ông lập luận trong chiến dịch brexit, sẽ dẫn đến một sự dấy lên về sự tấn công tình dục trên đường phố Anh.49
Những luận điệu như vậy không được sáng chế ra bởi các đảng cực-hữu bên rìa. Chính các tờ báo mà sự đưa tin của chúng về chủ nghĩa khủng bố đã ma quỷ hóa Islam. Chính các chính trị gia, kể cả các đại biểu quốc hội cấp cao của Lao động Mới, đã cổ vũ điều này. Chính chính phủ Bảo thủ tiếp sau mà cho rằng ‘chủ nghĩa đa văn hóa nhà nước’ đã thất bại, và mà thúc đẩy thuyết âm mưu cực kỳ phân biệt chủng tộc, dựa vào một sự giả mạo, rằng các jihadist đang âm mưu tiếp quản các trường học Birmingham. Lần nữa, chính báo chí mà đưa tin về các băng đảng ăn mặc chỉnh tề đã chọn ra ra những người đàn ông Anh gốc Pakistani, trong khi nâng cao sự báo động công khai về các mối đe dọa như vậy như thịt ‘halal’ trong quán Pizza Hut. Chính một dân biểu Lao động đã viết về các băng đảng ăn mặc chỉnh tề: ‘nước Anh có một vấn đề với những người đàn ông Anh gốc Pakistani hãm hiếp và khai thác các cô gái da trắng.’ Các phù thủy và ma quỷ ở mọi nơi.50
Thành công của UKIP đã là việc liên kết bầu không khí hoảng loạn này với chương trình nghị sự của nó về rời khỏi EU. Như Farage diễn đạt khi ông nghe rằng dân biểu duy nhất của UKIP Douglas Carswell phản đối việc làm cho ‘sự nhập cư đồng nghĩa với với tư cách thành viên EU’: ‘Chết tiệt. Tôi đã tốn mười năm cố gắng làm việc đó!’ Điển hình của chiến lược này là lời xác nhận của Farage rằng EU có thể sớm cấp hộ chiếu cho những kiểu đàn ông mà đã tấn công tình dục ở Cologne, Đức, vào Đêm Giao Thừa 2015. Vì những người này được cho chủ yếu là những đàn ông gốc Bắc Phi, lời xác nhận là vô nghĩa ngay cả theo các điều khoản phân biệt chúng tộc của chính nó. Tuy vậy, sự tuyên truyền Brexit, được chiến dịch ‘hãy Bỏ phiếu Rời khỏi’ Bảo thủ dòng chính thúc đẩy, đã khẳng định rằng Thổ Nhĩ Kỳ sắp trở thành nhà nước thành viên của EU. Các hình ảnh của chiến dịch gợi ý rằng điều đó bằng cách nào đó sẽ đưa cả Syria và Iraq tới biên giới EU. Như thế, theo logic hoán dụ của sự phân tích-giấc mơ phân biệt chủng tộc, những người Á châu, Muslim, Pakistani, những người tị nạn, những người Thổ Nhĩ kỳ, Syria, Iraqi và những người Bắc Phi đều là như nhau: một sự đổi chỗ là tốt như sự đổi chỗ khác. Việc liên kết châu Âu với ‘sự nhập cư hàng loạt’, với sự bất lực để ‘kiểm soát biên giới của chúng ta’, và với ‘các dòng lũ’ của những người nhập cư đem lại sự khủng bố, tội ác và hiếp dâm đã trao cho vấn đề một sức thuyết phục mạnh mẽ mà thiếu khi sự đối lập với EU là về các quy tắc cạnh tranh, các nhóm vận dộng ‘metric martyrs’ hay ‘bendy bananas’. ‘Lấy lại sự kiểm soát’, giống ‘xây dựng bức tường’, sẽ chặn những người da trắng trở thành những người da đen.51
Vào tối 15 tháng Sáu 2016, chỉ hơn một tuần trước cuộc bỏ phiếu để rời khỏi EU, Thomas Mair tìm kiếm sự giúp đỡ cho sự trầm cảm của mình. Hắn đang đạt một điểm đột phá. Hắn rõ ràng đã nghĩ về giải pháp sói đơn độc lần nữa, vì hắn đã thu thập các mẩu báo về việc Breivik sát hại bảy mươi bảy người trong năm 2011. Hắn đã dùng buổi chiều 15 tháng Sáu trong thư viện Birstall, tìm kiếm ‘sự quàn (thi hài) ở nơi trang trọng’, ‘quàn để cho mọi người viếng’, ‘đám tang của người nghèo’ và ‘quan tài’ trên máy tính thư viện. Một quan chức chết sẽ ‘được quàn ở nơi sang trọng’, còn một người chết với không xu nào, gia đình hay bạn bè sẽ có một ‘tang lễ của người nghèo’. Cứ như thể hắn cân nhắc hai loại cái chết. Hắn cũng đã tìm kiếm tội giết mẹ, cứ như bà mẹ là kẻ phản bội chủng tộc. Mair đã không may mắn để phải dựa vào một cơ sở hạ tầng sức khỏe tâm thần bị tan nát, mà thậm chí còn bị các chính sách khắc khổ của chính phủ tàn phá nhiều hơn. Sự điều trị chính cho trầm cảm do NHS (Cơ quan Y tế Anh) cung cấp là liệu pháp hành vi nhận thức, rẻ nhưng chỉ giải quyết các thái độ và hành vi bề mặt. Mair đã đến trung tâm trị liệu thay thế chuyên về những cách tiếp cận tâm linh và toàn diện. Hắn được bảo để đăng ký một cuộc hẹn ngày hôm sau. Thay vào đó, bắt tay vào một cuộc phản công cuối cùng theo mong muốn, chiều hôm sau hắn bắt đầu với khẩu súng săn được sửa đổi và con dao của mình và đợi dân biểu Lao động địa phương, Jo Cox, bên ngoài thư viện Birstall.52
Mair đã mang súng cho việc giết người hiệu quả và con dao để đến gần và trực tiếp làm. Hắn bắn Cox, rồi tấn công bà và đâm vào ngực bà nhiều lần bằng một con dao găm, rồi lại bắn bà hai lần. Nó đã là một hành động quá mức gợi tình. Như Jacqueline Rose đã viết về kẻ tấn công tự sát, mỗi cuộc tấn công là ‘một hành động đồng nhất đam mê – bạn mang kẻ thù của bạn với bạn’. Khi hắn tiến hành cuộc tấn công này, hắn hét lên: ‘Nước Anh trên hết, hãy giữ nước Anh độc lập, nước Anh sẽ luôn luôn đến đầu tiên.’ Trong tòa án, hắn đặt tên mình như ‘cái chết cho những kẻ phản bội, tự do cho nước Anh!’ Theo cảnh sát, cuộc bỏ phiếu Brexit sắp tới là một ‘nhân tố thúc đẩy’ trong quyết định của hắn để giết. Có thể chính xác hơn để gọi nó là một cò súng. Hàng giờ trước cuộc tấn công, UKIP đã tiết lộ poster Brexit của nó, miêu tả một lũ mặt nâu đổ vào châu Âu với tiêu đề, ‘Điểm đột phá’. Vào tối thông báo kết quả, lãnh đạo UKIP Nigel Farage đã ăn mừng bằng việc nói rằng nó đã đạt được ‘mà không có một phát súng duy nhất nào được bắn ra’.53
Chú thích:
- CÁC MÁY CHIẾN TRANH: CHIẾN TRANH MẠNG, NHỮNG SÓI ĐƠN ĐỘC VÀ NHỮNG KẺ XẢ SÚNG HÀNG LOẠT
- 1. Octave Mannoni, ‘The Decolonisation of Myself’, Race 7: 4, p. 330.
- 2. Sigmund Freud, Civilization and Its Discontents, Penguin, London and New York, 2002, p. 43.
- 3. Nick Dyer-Witheford and Svitlana Matviyenko, Cyberwar and Revolution: Digital Subterfuge in Global Capitalism, University of Minnesota Press, Minneapolis and London, 2019, p. 7.
- 4. Letícia Duarte, ‘Meet the Intellectual Founder of Brazil’s Far Right’, Atlantic, 28 December 2019; Lloyd Grove, ‘How Breitbart Unleashes Hate Mobs to Threaten, Dox, and Troll Trump Critics’, Daily Beast, 13 April 2017.
- 5. Jonathan Corpus Ong and Jason Cabanes, ‘In the Philippines, political trolling is an industry – this is how it works’, Open Democracy, 20 February 2018; A. de Albuquerque and M. Alves, ‘Bolsonaro’s hate network: From the fringes to the presidency’, trong C. Strippel, S. Paasch-Colberg, M. Emmer and J. Trebbe, eds, Challenges and perspectives of hate speech research, Digital Communications Research, Vol 12, 2023, pp. 27–42; Max Fisher and Amanda Taub, ‘How YouTube Radicalized Brazil’, New York Times, 11 August 2019; Salvador Rizzo, ‘President Trump accuses Rep. Omar of supporting al-Qaeda’, Washington Post, 17 July 2019; Katie Rogers and Nicholas Fandos, ‘Trump Tells Congresswomen to “Go Back” to the Countries They Came From’, New York Times, 14 July 2019; Ayala Panievsky, ‘Strategic Rituals of Loyalty: When Israeli Journalists Face Digital Hate’, Digital Journalism 11: 10 (2023), pp. 1940–61; Ayala Panievsky, ‘The Strategic Bias: How Journalists Respond to Antimedia Populism’, The International Journal of Press/Politics 27: 4 (2022), pp. 808–26; Sue Surkes, ‘Fake news hits new high as bots, trolls continue to bat for Netanyahu – report’, Times of Israel, 20 March 2019. Israel’s official trolling operations, deployed to combat Boycott, Divestment and Sanctions campaigns and support military goals, are much more efficacious. See Itamar Benzaquen, ‘The Israeli government is paying for anti-BDS journalism’, +972 Magazine, 20 December 2017; ‘Israel launches “Iron Dome of Truth” website at Celebrate Israel Parade’, Times of Israel, 5 June 2017; Reuven Weiss, ‘A lesson in hasbara’, Yedioth Ahronoth, 27 June 2017; ‘Upgrade your Israel Activism – Intro to the New Act-IL App’, Act-IL, com, 17 April 2019.
- 6. Swati Chaturvedi, I Am a Troll: Inside the Secret World of the BJP’s Digital Army, Juggernaut, Chiki Sarkar, 2016, pp. 15–43; Swati Chaturvedi, ‘General Narendra Modi and His Troll Army’, Wire, 8 September 2017; Gerry Shih, ‘Inside the vast digital campaign by Hindu nationalists to inflame India’, Washington Post, 26 September 2023.
- 7. Sanjana Rajgarhia, ‘Media Manipulation in the Indian Context: An Analysis of Kashmir-Related Discourse on Twitter’, M-RCBG Associate Working Paper Series | No. 147, Harvard Kennedy School, June 2020; Aria Thaker, ‘How Modi’s Twitter strategy of following his supporters – even trolls – worked in his favour’, QZ, 3 June 2019; Swati Chaturvedi, ‘BJP’s troll army bullies, abuses and fights dirty with Narendra Modi as the general’, Gulf News, 12 November 2018; ‘In a surprise move, Delhi BJP appoints Prashant Bhushan attacker Tajinder Pal Singh Bagga as spokesperson’, Financial Express, 15 March 2017; ‘Prashant Bhushan attack: Tejinder Pal Singh Bagga and Vishnu Verma held’, Economic Times, 13 October 2011; Aria Shaker, ‘This is probably why Narendra Modi even follows trolls on Twitter’, in, 5 June 2019.
- 8. Michael Shafi, ‘Narendra Modi criticised over Twitter links to abuse of shot journalist’, Guardian, 8 September 2017; Surya Mattu and Micha Gorelick, ‘A video helped incite the murder of a prominent Bangalore journalist, we investigated its spread on social media’, Digital Witness Lab, 14 February 2023; Bidisha Saha, ‘Gauri Lankesh murder: Video was weaponised, journalist a casualty of disinformation, claims report’, India Today, 16 February 2023; Phineas Rueckert, ‘In the Age of False News: A Journalist, A Murder, and the Pursuit of an Unfinished Investigation in India’, Forbidden Stories, 14 February 2023; Jency Jacob, ‘How Gauri Lankesh’s Last Tweets Helped in Building the Naxal Conspiracy Narrative’, Boom, 6 September 2017.
- 9. Terry Gross, ‘Philippine Journalist Says Rodrigo Duterte’s Presidency Is Based on “Fear, Violence”’, NPR, 6 January 2021; ‘Duterte: If I have to kill you, I’ll kill you’, Rappler, 26 October 2015, com; ‘Media groups condemn Rodrigo Duterte comments on corrupt journalists’, Guardian, 1 June 2016.
- 10. Samantha Bradshaw and Philip N. Howard, ‘Troops, Trolls and Troublemakers: A Global Inventory of Organized Social Media Manipulation’, Computational Propaganda Research Unity, University of Oxford, Working Paper 2017; Jonathan Corpus Ong and Jason Vincent A. Cabañes, ‘Architects of Networked Disinformation: Behind the Scenes of Troll Accounts and Fake News Production in the Philippines’, Computer Department Faculty Publication Series 74, University of Massachussetts Amherst, 2018.
- 11. Shashank Bengali, ‘Troll armies, a growth industry in the Philippines, may soon be coming to an election near you’, Los Angeles Times, 19 November 2019; Richard Bernstein, ‘The Paradox of Rodrigo Duterte’, Atlantic, 22 February 2020; Ong and Cabañes, ‘Architects of Networked Disinformation’; Peter Pomerantsev, This Is Not Propaganda: Adventures in the War Against Reality, Faber and Faber, London, 2019, pp. 16–31.
- 12. J. M. Lanzua and Jonathan Corpus Ong, ‘Beyond Conspiracy: the ties that bind Filipino Flat Earthers and populist supporters’, LSE blogs, 28 August 2019.
- 13. Shawn W. Crispin, ‘Mission Journal: Duterte leads tri-pronged attack on press amid condemnation of controversial policies’, Committee to Protect Journalists, 5 July 2018; John Reed, ‘Facebook probes surge in false Philippines accounts’, Financial Times, 7 June 2020; Krissy Aguilar, ‘Twitter suspends accounts defending Duterte’s COVID-19 response – report’, Inquirer, 10 April 2022; ‘Duterte’s troll armies drown out COVID-19 dissent in the Philippines’, Rappler, 22 July 2020; Sebastian Strangio, ‘Facebook Shuts Down Fake China-Based Accounts Backing Duterte’, Diplomat, 23 September 2020.
- 14. Julie Posetti, ‘Lessons from the Philippines on Cyber-Misogyny’, in Glenda Daniels and Nyamweda Tarisai, Glass Ceilings: Women in South African media houses 2018, GenderLinks, Johannesburg, 2018, p. 72; Rebecca Ratcliffe, ‘Journalist Maria Ressa found guilty of “cyberlibel” in Philippines’, Guardian, 15 June 2020; ‘A bloody trail: People we lost under Duterte’, Rappler, 21 December 2021; Carlos H. Conde, ‘Killing of Radio Journalist in Philippines Adds to Grim Toll’, Human Rights Watch, 5 October 2022.
- 15. Félix Guattari, ‘Towards a Post-Media Era’, Mute Magazine, 1 February 2012.
- 16. Roland Barthes, How to Live Together: Novelistic Simulations of Some Everyday Spaces, Columbia University Press, New York, p. 35; Dominic Pettman, Infinite Distraction, Polity Press, Cambridge and Malden, MA, 2016, p. 98; Matthe Flisfeder, Algorithmic Desire: Towards a New Structuralist Theory of Social Media, Northwestern University, Evanston, IL, 2021, p. 13.
- 17. Nicholas O’Shaughnessy, Selling Hitler Propaganda and the Nazi Brand, Hurst and Company, London, 2016, p. 124; Richard J. Evans, The Third Reich in Power, 1933–1939: How the Nazis Won Over the Hearts and Minds of a Nation, Penguin, 2005, pp. 127–40.
- 18. Paul Lewis, ‘“Fiction is outperforming reality”: How YouTube’s algorithm distorts truth’, Guardian, 2 February 2018; Zeynep Tufekci, ‘YouTube, the Great Radicalizer’, New York Times, 10 March 2018.
- 19. Michael Lewis, ‘Has Anyone Seen the President?’, Bloomberg, 9 February 2018; Whitney Phillips, ‘Beware “Smokescreen Trolling”,’ Trump Followers’ Favorite Tactic’, Wired, 18 June 2021.
- 20. Gilles Deleuze and Félix Guattari, Nomadology: The War Machine, Semiotexte, New York, 1986; ‘Swarmachines’, Cybernetic culture research unit, net; Jen Schradie, The Revolution That Wasn’t: How Digital Activism Favors Conservatives, Harvard University Press, Cambridge, MA, 2019.
- 21. Dyer-Witheford and Matviyenko, Cyberwar and Revolution, pp. 75–84; Hamm and Spaaij, Age of Lone Wolf Terrorism, pp. 84–5; Alf Lüdtke, ‘Ordinary People, Self-Energising, and Room for Manoeuvering: Examples from 20th Century Europe’, trong Alf Lüdtke, ed., Everyday Life in Mass Dictatorship: Collusion and Evasion, Palgrave Macmillan, New York, 2016, pp. 22–5.
- 22. Ramon Spaaij, Understanding Lone Wolf Terrorism Global Patterns, Motivations and Prevention, Springer, 2011, p. 32; Katie Worth, ‘Lone Wolf Attacks Are Becoming More Common — And More Deadly’, PBS, 14 July 2016; ‘Murder and Extremism in the United States in 2022: Including an In-Depth Analysis of Extremist Mass Killings’, Anti-Defamation League, 2022; Adam Gabbatt, ‘Experts warn of increased risk of US terror attacks by rightwing “lone wolf” actors’, Guardian, 28 March 2023.
- 23. Andrew Buncombe, ‘Toronto collision: Video shows suspected driver telling police “Kill me” after van ploughs into crowd killing nine people’, Independent, 23 April 2018; Vikram Dodd and Kevin Rawlinson, ‘Finsbury Park attacker “wanted to kill as many Muslims as possible”’, Guardian, 22 January 2018; Karen Kissane, ‘Breivik considered suicide before arrest’, Sydney Morning Herald, 21 April 2012; Jeffrey Collins, ‘Dylann Roof cold to victims, but apologized to his parents’, Seattle Times, 6 January 2017; Julia Page, ‘Mosque shooter sat outside mall 2 months before attack, “juggling with idea” of killing those inside’, CBC, 23 April 2018; Christiana Silva, ‘“Just fucking kill me”: Parkland shooter gives chilling video confession’, Vice, 9 August 2018; Ashley Southall, Chelsia Rose Marcius and Andy Newman, ‘Before the Massacre, Erratic Behavior and a Chilling Threat’, New York Times, 15 May 2022; Nichole Manna, Anna Betts and Patricia Mazzei, ‘11 Fatal Minutes That Have Jacksonville Confronting Racism Yet Again’, New York Times, 27 August 2023; Umberto Eco, ‘Ur-Fascism’, New York Review of Books, 22 June 1995; Pankaj Mishra, ‘The Religion of Whiteness Becomes a Suicide Cult’, New York Times, 30 August 2018.
- 24. Anders Behring Breivik, ‘2083 – A European Declaration of Independence’, 2011. Vì các lý do hiển nhiên, tuyên ngôn này không còn sẵn có công khai nữa. Hầu hết các trích dẫn kể trên có thể được thấy trong chương của tôi trong Tad Tietze, Guy Rundle and Elizabeth Humphreys, eds, On Utøya: Anders Breivik, Right Terror, Racism and Europe, Elguta Press, London, 2011; và trong Unni Turrettini, The Mystery of the Lone Wolf Killer: Anders Behring Breivik and the Threat of Terror in Plain Sight, Pegasus Crime, New York, 2015, pp. 1 và 5.
- 25. Michael S. Schmidt, ‘F.B.I. Confirms a Sharp Rise in Mass Shootings Since 2000’, New York Times, 24 September 2014; Turrettini, Mystery of the Lone Wolf Killer, p. 7; Ian Cobain, Nazia Parveen and Matthew Taylor, ‘The slow-burning hatred that led Thomas Mair to murder Jo Cox’, Guardian, 23 November 2016; Adam Taylor, ‘New Zealand suspect allegedly claimed “brief contact” with Norwegian mass murderer Anders Breivik’, Washington Post, 15 March 2019; Brenton Tarrant, ‘The Great Replacement’, 2019; Ian Bogost, ‘The Meme Terrorists’, Atlantic, 30 April 2019; Brian Todd, Christina Maxouris and Amir Vera, ‘The El Paso shooting suspect showed no remorse or regret, police say’, CNN, 6 August 2019.
- 26. Robert Evans, ‘The El Paso Shooting and the Gamification of Terror’, Bellingcat, 4 August 2019; Richard Seymour, ‘The Buffalo shooting and the rise of the lone wolfterrorist’, New Statesman, 20 May 2022; Graham Macklin, ‘The Christchurch Attacks: Livestream Terror in the Viral Video Age’, CTC Sentinel 12: 6 (July 2019).
- 27. Richard J. Lane, Jean Baudrillard (Routledge Critical Thinkers), Routledge, London, 2000, p. 95; Alan Blinder, Frances Robles and Richard Pérez-Peña, ‘Omar Mateen Posted to Facebook amid Orlando Attack, Lawmaker Says’, New York Times, 16 June 2016.
- 28. Dylan Riley, The Civic Foundations of Fascism in Europe, Verso, London and New York, 2019; Chris Millington, A History of Fascism in France: From the First World War to the National Front, Bloomsbury Academic, London, 2019, Kindle loc. 614; Arthur Rosenberg, ‘Fascism as a Mass-Movement (1934)’, Historical Materialism 20: 1 (2012), pp. 144–89.
- 29. Nancy MacLean, Behind the Mask of Chivalry: The Making of the Second Ku Klux Klan, Oxford University Press, Oxford and New York, 1994; Robin McVeigh, The Rise of the Ku Klux Klan: Right-Wing Movements and National Politics: Social Movements, Protest, and Contention. Volume 32, University of Minnesota Press, Minneapolis and London, 2009; Michael Newton, White Robes and Burning Crosses: A History of the Ku Klux Klan from 1866, McFarland and Company, Inc, Jefferson, NC, 2014.
- 30. Kathleen Belew, Bring the War Home: The White Power Movement and Paramilitary America, Harvard University Press, Cambridge, MA, 2018.
- 31. Spaaij, Understanding Lone Wolf Terrorism, pp. 45–6; Darren Mulloy, American Extremism History, Politics and the Militia Movement (Routledge Studies in Extremism and Democracy), Routledge, London and New York, 2008, p. 2; Louis Beam, ‘Leaderless Resistance’, The Seditionist 12 (February 1992); Belew, Bring the War Home, pp. 35–88.
- 32. Spaaij, Understanding Lone Wolf Terrorism, p. 24; Steven E. Atkins, Encyclopedia of Right-Wing Extremism in Modern American History, ABC-CLIO, Santa Barbara, CA, 2011, pp. 55–8.
- 33. Émile Durkheim, John A. Spaulding and George Simpson, translators, Suicide: A Study in Sociology, Routledge Classics, London and New York, 2002.
- 34. Damon Centola, How Behavior Spreads: The Science of Complex Contagions, Princeton University Press, Princeton, NJ, 2018; xem cả Sune Lehmann and Yong-Yeol Ahn, eds, Complex Spreading Phenomena in Social Systems: Influence and Contagion in Real-World Social Networks, Springer, 2018.
- 35. Turrettini, Mystery of the Lone Wolf Killer, p. 4; Alfie Bown, The PlayStation Dreamworld, Polity, London, 2017, p. 63.
- 36. Ernst Simmel, Anti-Semitism: A Social Disease, International University Press, New York, 1946, p. 73.
- 37. Hamm and Spaaij, Age of Lone Wolf Terrorism, pp. ix, 9, 18; Peter Langman, ‘Elliot Rodger: An Analysis’, The Journal of Campus Behavioral Intervention (J-BIT) 2 (2014), pp. 5–19.
- 38. Florian Hartleb, Lone Wolves: The New Terrorism of Right-Wing Single Actors, Springer, Switzerland AG, 2020, p. 47; Simmel, Anti-Semitism, p. 49; Borges được trích trong Federico Finchelstein, ‘Truth, Mythology and the Fascist Unconscious’, Constellations 23: 2 (2016).
- 39. Lisa Bortolotti, ‘Lessons from the Breivik case’, Perspectives, University of Birmingham; John Gunn, ‘No excuses’, Journal of the Royal Society of Medicine 95: 2 (February 2002), pp. 61–3.
- 40. Joel Gold and Ian Gold, Suspicious Minds: How Culture Shapes Madness, Simon and Schuster, New York, 2014.
- 41. Về các huyền thoại của tâm lý học đám đông, xem Clark McPhail, The Myth of the Madding Crowd, Routledge, London and New York, 2017; về rối loạn tâm thần như cấu trúc tâm thần hơn là các hiện tượng bề mặt, xem Jacques Miller (editor) and Russell Grigg (translator), The Seminar of Jacques Lacan Book III: Psychoses 1955-1956, W. W. Norton and Company, New York and London, 1993; Hamm and Spaaij, Age of Lone Wolf Terrorism, pp. ix, 18 and 47; Michael Jensen, Sheehan Kane and Elena Akers, ‘Profiles of Individual Radicalization in the United States (PIRUS) Mass Casualty Extremist Offenders with U.S. Military Backgrounds’, University of Maryland, June 2023; nghiên cứu RUSI được trích trong Paul Jackson, ‘The Murder of Jo Cox MP: a Case Study in Lone Actor Terrorism’, trong Alan Waring, ed., The New Authoritarianism: Vol. 2: A Risk Analysis of the European Alt-Right Phenomenon, ibidem Press, Stuttgart, 2019, p. 156.
- 42. Daniel Pick, The Pursuit of the Nazi Mind: Hitler, Hess and the Analysts, Oxford University Press, 2012; Theodor Adorno, Else Frenkel-Brunswik, Daniel J. Levinson, et al., The Authoritarian Personality, Verso, London and New York, 2019; Michael Billig, Fascists: A Social Psychological View of the National Front, Harcourt Brace Jovanovich, London and New York, 1978, pp. 36–48; Frantz Fanon, Black Skin, White Masks, Penguin, 2008, p. x; Derek Hook and Ross Truscott, ‘Fanonian ambivalence: on psychoanalysis and postcolonial critique’, Journal of Theoretical and Philosophical Psychology 33: 3 (2013), pp. 155–69.
- 43. Enoch Powell, Freedom and Reality, Elliot Right Way Books, Kingswood, 1969, p. 282; Ben Quinn, ‘David Starkey claims “the whites have become black”’, Guardian, 13 August 2011.
- 44. Được trích trong M. Coetzee ‘The mind of apartheid: Geoffrey Cronjé (1907–)’, Social Dynamics, 17: 1 (1991), pp. 1–35; về sự ám ảnh của Mair với apartheid và sự tách riêng, xem Kester Aspden, ‘The making of a bedsit Nazi: who was the man who killed Jo Cox?’, Guardian, 6 December 2019.
- 45. Coetzee, ‘The mind of apartheid’, pp. 1–35; Derek Hook, ‘Fantasmatic transactions: on the persistence of apartheid ideology’, Subjectivity 24: 1 (2008); Octave Mannoni, ‘The Decolonisation of Myself’, Race 7: 4, p. 330.
- 46. Ian Cobain, Nazia Parveen and Matthew Taylor, ‘The slow-burning hatred that led Thomas Mair to murder Jo Cox’, Guardian, 23 November 2016; Elizabeth O’Leary, ‘Suspect in murder of British MP described as loner who liked gardening’, Reuters, 17 June 2016; Paul Jackson, ‘The Murder of Jo Cox MP: A Case Study in Lone Actor Terrorism’, trong Alan Waring, ed., The New Authoritarianism: Vol. 2: A Risk Analysis of the European Alt-Right Phenomenon, ibidem Press, Stuttgart, 2019, p. 157; Kester Aspden, ‘The making of a bedsit Nazi: who was the man who killed Jo Cox?’, Guardian, 6 December 2019.
- 47. Tom Burgis, ‘Thomas Mair: The making of a neo-Nazi killer’, Financial Times, 23 November 2016.
- 48. Arun Kundnani, The End of Tolerance: Racism in Twenty-First-Century Britain, Pluto Press, London, 2007; ‘The Cantle Report – Community Cohesion: a report of the Independent Review Team’, Home Office, January 2001; Gaby Hinsliff, ‘Speak English at home, Blunkett tells British Asians’, Guardian, 15 September 2002; ‘Blunkett names “Britishness” chief’, BBC News, 10 September 2002; ‘New UK citizenship testing starts’, BBC News, 1 November 2005.
- 49. ‘BNP head called UK “multi-racial hellhole” court told’, Irish Times, 17 June 2016; Oliver Wright, ‘Ukip party conference: Labour accused of “sacrificing the innocence of children” in Rotherham’, Independent, 26 September 2014; Rowena Mason and Frances Perraudin, ‘Nigel Farage accuses Muslims in UK of “split loyalties”’, Guardian, 16 November 2015; Heather Saul, ‘Nigel Farage urges the West to admit some ‘“culpability” in the Charlie Hebdo attacks’, Independent, 13 January 2015; Jessica Elgot and Rowena Mason, ‘Nigel Farage: migrant sex attacks to be “nuclear bomb” of EU referendum’, Guardian, 5 June 2016.
- 50. L. Moosavi, ‘Orientalism at home: Islamophobia in the representations of Islam and Muslims by the New Labour Government’, Ethnicities 15: 5 (2015), pp. 652–74; Katy Sian, Ian Law, S. Sayyid, ‘The Media and Muslims in the UK’, Centre for Ethnicity and Racism Studies, University of Leeds, March 2012; Y. Hussain and P. Bagguley, ‘Securitised citizens: Islamophobia, racism and the 7/7 London bombings’, The Sociological Review 60: 4 (2012), pp. 715–34; ‘State multiculturalism has failed, says David Cameron’, BBC, 5 February 2011; Brian Reed and Hamza Syed, ‘The Trojan Horse Affair’, New York Times, 3 February 2022; E. Cockbain and W. Tufail, ‘Failing victims, fuelling hate: challenging the harms of the “Muslim grooming gangs” narrative’, Race and Class 61: 3 (2020), pp. 3–32; Daniel Jones, ‘Halal Secret of Pizza Express’, Sun, 7 May 2014; Sarah Champion, ‘British Pakistani men ARE raping and exploiting white girls … and it’s time we faced up to it’, Sun, 11 August 2017.
- 51. Owen Bennett, The Brexit Club: The Inside Story of the Leave Campaign’s Shock Victory, Biteback Publishing, London, 2016, p. 43; Tim Ross, ‘Nigel Farage: Migrants could pose sex attack threat to Britain’, Telegraph, 4 June 2016; Ashley Cowburn, ‘EU referendum: Brexit campaign accused of “fanning flames of division” with controversial map’, Independent, 6 June 2016.
- 52. ‘Thomas Mair: Extremist loner who targeted Jo Cox’, BBC News, 23 November 2016; Becky Kelly, ‘Thomas Mair sought help for mental health the day before he murdered MP Jo Cox’, ITV News, 23 November 2016.
- 53. Jacqueline Rose, ‘Deadly Embrace’, London Review of Books 26: 21 (4 November 2004); Ian Cobain, Nazia Parveen and Matthew Taylor, ‘The slow-burning hatred that led Thomas Mair to murder Jo Cox’, Guardian, 23 November 2016; Kester Aspden, ‘The making of a bedsit Nazi: who was the man who killed Jo Cox?’, Guardian, 6 December 2019; Heather Stewart and Rowena Mason, ‘Nigel Farage’s anti-migrant poster reported to police’, Guardian, 16 June 2016; Heather Saul, ‘Brexit: Nigel Farage branded “shameful” for claiming victory “without a single bullet being fired”’, Independent, 24 June 2016.