Tú Xương là một dịch giả rất độc đáo

Nguyn Xuân Din

Tú Xương, tên thật là Trần Tế Xương (sau đi thi đổi là Trần Cao Xương), tự Tử Thịnh, sinh năm 1870 mất năm 1907. Ông người làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Trần Tế Xương là nhà thơ trào phúng Việt Nam.

Lâu nay, chúng ta biết Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu là một dịch giả có nhiều bản dịch thơ Đường nhất tính suốt thời trung đại và cận đại. Trong cuốn Thơ Đường, do ông dịch, được Nguyễn Quảng Tuân tập hợp, có 84 bài dịch thơ Đường. Nhưng xin được nêu ở đây về điểm khác giữa việc dịch của Tản Đà và Tú Xương là trong khi Tản Đà dịch Đường thi sang chữ quốc ngữ để in đăng báo, thì Tú Xương chuyển sang chữ Nôm, thể hiện bằng chữ Nôm.

Tôi khảo sát phát hiện Tú Xương, một nhà thơ trào phúng nổi tiếng cũng là một dịch giả có số lượng bài dịch là 81 bài, trong đó có 71 bài được dịch ra thể thơ thất ngôn bát cú, 10 bài dịch ra thể ngũ ngôn cổ phong với một phong cách rất riêng của ông. Tất cả được chép trong Đường thi hp tuyn ngũ ngôn lut gii âm 唐诗合选五言律解音 (AB.194, lưu trữ tại Viện Hán Nôm); sách viết tay, đóng chung trong tập thơ V thành giai cú tp biên dày 410 trang, khổ 29x20cm. Tài liệu ghi rõ “Đường thi hp tuyn ngũ ngôn lut gii âm bát thập tam thủ[*]; Vị Thành Tú tài Trần Cao Xương Tử Thịnh diễn tập”. Phần dịch thơ gồm 81 bài được trình bày từ trang 29a đến trang 60a: tên bài thơ, tác giả, nguyên tác chữ Hán, bài dịch (không dịch tên bài).

Dưới đây là các bài dịch của Tú Xương:

1. Dịch các bài thơ của Đỗ Phủ gồm: B chư quý công t Trượng Bát câu hu k hương vãn tế ng vũ, Tn Châu tp vnh, Đăng Duyn châu thành lâu, Xuân nht hoài Lý Bch, Nguyệt, Sơ nguyt, Bát nguyt thp ngũ d nguyt, Thp lc d ngon nguyt, Thp tht d đối nguyt, Đảo y, Lc nht, Hiu vng, Dã vng, Đăng Nhc Dương lâu, Chu trung d tuyết hu hoài Lô T, Đối tuyết, Vãn tình, Xuân d h vũ, Hunh ha, Động phòng, Cm đài (cộng 21 bài).

2. Dịch thơ của Lý Bạch: T Công đình, Cung trung hành lc (3 bài), Thu t, Kim Lăng, Khu hiu tng Trưng quân Lư Hng công thì b triu, Tng tin trưng quân Thiếu Dương, Tng Mnh Ho Nhiên, Giang h bit Tng Chi đễ, Độ Kinh Môn tng bit, Tng hu nhân, Tm Ung Tôn sư n cư, Phng đái thiên tiên đạo sĩ bt ng, Quá thôi Bát Trượng thy đình (cộng 13 bài).

3. Dịch thơ của Mạnh Hạo Nhiên: Động Đình, D chư công t đăng Nghin Sơn, Quy Chung Nam sơn, Chu trung hiu vng, Đề nghĩa công thin phòng, D độ Tương thy (cộng 6 bài).

4. Dịch thơ của Vương Duy: Đề Chung Nam Sơn, Sơn cư thu minh, Quy Tung Sơn tác, Chung Sơn bit nghip, Quá Hương Tích t (cộng 5 bài)

5. Dịch thơ của Đỗ Thẩm Ngôn: Bng Lai tam đin th yến phng sc vnh Chung Nam sơn, Thu d yến lâm tân Trnh Minh ph trch, H nht quá Tht Sơn tri, Ha Tn Lăng Lc Tha tướng to xuân du vng, Ha Khang Ngũ vng nguyt hu hoài (cộng 5 bài)

6. Dịch thơ của các tác giả: Sầm Tham, Thẩm Thuyên Kỳ, Tống Chi Vấn, Trần Tử Ngang, Vượng Bột, mỗi người 2 bài.

7. Dịch thơ của các tác giả: Bạch Cư Dị, Cao Thích, Dương Quýnh, Lạc Tân Vương, Lưu Trường Khanh, Lý Kỳ, Lý Xương Phù, Nhạc Vị, Tạ Diểu, Tái Kính Trung, Thường Kiến, Tiền Khởi, Tổ Vịnh, Trương Quân, Trương Vi, Tư Không Thự, Vi Ứng Vật, Vu Lương Sử, Vương Loan, Vương Tích và một tác giả hiện chưa xác định được tên, mỗi tác giả 1 bài.

Trong suốt tập thơ dịch, Tú Xương đã dịch thơ Đường với một phong cách rất riêng của ông. Bút pháp trào lộng, hóm hỉnh của Tú Xương trong phong cách thơ ông xuất hiện cả trong những bài thơ dịch, tạo nên nét riêng rất đáng chú ý. Về từ ngữ, ông đã sử dụng cả những từ vốn được ông dùng trong thơ sáng tác để dùng trong bản dịch, khiến cho tác phẩm dịch của ông như một sáng tạo mới. Đó là nét đặc sắc của Tú Xương trong thơ dịch. Điều này góp phần khẳng định chân dung một dịch giả trong văn học Việt Nam. Và vị trí của ông, với tư cách là một dịch giả cần được khẳng định.

Với việc dịch thơ Đường, Tú Xương đã đóng góp vào lịch sử văn học Việt Nam như một dịch giả có phong cách độc đáo, đưa được những từ ngữ đời thường đầy hóm hỉnh vào bản dịch một cách nhuần nhuyễn, tạo nên một bản dịch hoàn toàn có thể có một đời sống độc lập bên cạnh nguyên tác.

XIN GIỚI THIỆU MỘT CHÙM BÀI DỊCH CỦA TÚ XƯƠNG

1. Dã vọng – Vương Tích

Bóng lộn ngàn cao buổi tối mòng
Một mình chưa dễ đứng ngồi xong
Cây lồng sắc chiếu màu thu tía
Non ánh tà dương lộng vẻ hồng
Trẻ mục giục trâu lùa cái nghé
Người săn cưỡi ngựa xách con hồng
Cùng trông lại biết ai hay tá?
Tưởng hái rau vi những ngại ngùng

2. Thánh Tuyền yến – Vương Bột

Phất phơ tràng áo bước lên non
Ngoảnh lại bên đình lạch suối con
Bầu sánh cúc pha ba chén cạn
Vần lơi tùng thét mấy cung dồn
Lơ thơ bóng rủ ngoài cành lọn
Ngào ngạt hoa bay trước gió tuôn
Rừng vắng tà tà say ngắm cảnh
Lô xô len đá khói đùn đùn

3. Sơ nguyệt – Đỗ Phủ

Nửa vành vừa hé mái cung lên
Một bánh xe trông chửa vẹn tuyền
Thấp thoáng đầu cành trên bể ló
Lô nhô ban tối áng mây ken
Chắn ngang luống để sông Ngân trắng
Hiu hắt vì ai mặt ải đen
Trăm mối bên lòng càng áy náy
Dãy thềm chòm cúc giọt sương hoen

4. Đảo y – Đỗ Phủ

Gần thu miếng đá gượng lau rồi
Cũng biết chàng nay việc chửa rồi
Áo kép chờ nay ba tháng lạnh
Chăn đơn chực đó mấy năm trời
Nghề riêng dám trễ tay canh cửi
Của chút làm ghi dạ một hai
Chăm chỉ buồng thêu đà hết sức
Tiếng chày văng vẳng thấy chăng ai

5. Đăng Nhạc Dương lâu – Đỗ Phủ

Mấy cảnh Tiêu Tương vẫn tiếng đồn
Lầu đây hồ đấy trải bao còn
Chia ra Ngô Sở chiều ngang dọc
Chốt lại càn khôn thỏa nước non
Một chữ thân bằng tin nhạn vắng
Nghìn trùng quan tái chiếc thuyền con
Xa xa cõi bắc lầm phong hỏa
Thăm thẳm Trường An mắt đã mòn

[*] Sách ghi “Đường thi hp tuyn ngũ ngôn lut gii âm bát thập tam thủ”, tức là có 83 bài nhưng thực tế chỉ có 81 bài.

Tác giả thăm mộ Tú Xương, bên hồ Vị Xuyên

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged . Bookmark the permalink.