Lê Học Lãnh Vân
1) TỪ TIN TƯỞNG TỚI HOANG MANG VỀ LÒNG YÊU NƯỚC, TÌNH ĐỒNG BÀO
Năm 1946, sau tám mươi năm Pháp thuộc, Việt Nam bắt đầu tiến hành toàn quốc kháng Pháp giành độc lập với chiến thắng Điện Biên Phủ chín năm sau đó, năm 1954. Hiệp định Genève đem lại hòa bình dù đất nước bị tạm thời chia hai.
Thế hệ chúng tôi chào đời sau chiến thắng ấy tại Miền Nam thanh bình, được nền giáo dục Miền Nam dạy về nguồn gốc con Rồng cháu Tiên, tình đồng bào, tinh thần bầu bí thương nhau, lá lành đùm lá rách. Được dạy gọi những người lính Bắc Việt là anh em bên kia chiến tuyến…
Nhưng, càng lớn lên, chúng tôi càng thấy cuộc chiến giữa người Việt với nhau càng khốc liệt. Tiếp theo chín năm kháng Pháp là “hai mươi năm nội chiến từng ngày”. Đường mòn Hồ Chí Minh lớn dần hơn, chiến tranh đổ vào Miền Nam ngày càng nhiều hơn, các cuộc pháo kích ngày càng nghe gần hơn, ánh hỏa châu càng sáng hơn, những con đường quốc lộ, tình lộ bị đắp mô, giật mìn. Rồi cuộc chiến cũng vào thành phố với Tết Mậu Thân, hàng ngàn người Việt giết hàng ngàn người Việt, cả những người Việt không vũ khí trong tay…
Cuộc chiến được gọi là “chống Mỹ cứu nước”, nhưng người số người Mỹ chết ở Việt Nam là năm mươi tám ngàn trong khi người số Việt chết vì bị người Việt giết lên tới hàng triệu!
Chúng tôi bắt đầu hoang mang về tình yêu nước. Chúng tôi bắt đầu hoang mang về tình đồng bào.
2) HÒN ĐẤT – HƯ CẤU VỀ TÍNH PHI NHÂN CỦA ĐỒNG BÀO
Năm 1975, đất nước mừng vui vì hòa bình và hai Miền tái sum họp.
Cũng từ đó, chúng tôi mới biết các đề bài toán biểu các em học sinh tiểu học tính tổng số lính chết sau hai trận đánh, biết trận đầu ta giết được bao nhiêu kẻ thù, trận thứ hai giết bao nhiêu kẻ thù!
Chúng tôi mới biết những đoạn văn phổ biến rộng rãi mô tả cảnh lính Việt Nam Cộng Hòa gom người dân trong vùng xôi đậu, mổ bụng họ lấy gan nấu ăn, nhắm rượu! Lính Việt Nam Cộng Hòa gom phụ nữ hàng chục người, cưỡng hiếp họ rồi lắt vú, khoét cửa mình, mổ bụng. Đây không phải là hành động tự phát, say máu nổi khùng không kiểm soát được của một hai cá nhân giữa cuộc chiến, những hình ảnh trên được cố ý dùng để mô tả bôi bác cả một tập thể quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Chỉ cần đọc các bài viết về người lính Miền Nam cư xử đầy thú tính như vậy với chiến sĩ Giải phóng quân, người có lý trí ắt tự hỏi lính Miền Nam làm những điều đó vì lợi ích gì? Người có lương tâm tất phải rùng mình vì tính tàn bạo phi nhân của bài viết!
Té ra, những tác phẩm ấy, bài viết ấy dựa trên “hư cấu”. Hư cấu có chủ đích nhằm mục đích vu khống! Tác phẩm Hòn Đất của Anh Đức được tôn vinh là tác phẩm nêu lên được tính ác ôn của lính ngụy, cho nên tác phẩm đó được nhà phê bình văn học cách mạng đánh giá là Hòn Ngọc[1]! Anh Đức không phải là nhà văn có ác tâm, nhưng trong dòng không khí cách mạng sục sôi tố cáo, giành chính quyền, ngòi bút của ông bị cuốn theo dòng không trung thực. Các nhân vật ngoài đời thực hiền lành được ông đưa vào tác phẩm với sự hư cấu thành ác ôn! Người hiểu biết vùng An Giang và Kiên Giang đều biết chuyện này, và chính Anh Đức, khi trở lại địa danh xưa, cũng tỏ ra ngượng ngùng với các nhân vật thực ấy!
3) MƯA ĐỎ – NGỌN LỬA HƯ CẤU THIÊU CHÁY NHỮNG GIÁ TRỊ CỐT LÕI KẾT NỐI ĐỒNG BÀO
Sau này đọc ông Chu Lai. Ông cũng thản nhiên tả lính Việt Nam Cộng Hòa tưới xăng lên chiến sĩ Bắc Việt và đốt sống trong cuộc chiến tám mươi mốt ngày đẫm máu giữa Quảng Trị! Người ta hỏi về tính chân thực của đoạn tả đó, ông trả lời: lịch sử sẽ nghiên cứu và trả lời! Trời đất, ông viết về một đối tượng có thật, ảnh hưởng ghê gớm tới uy tín về nhân cách của người ta, mà khi được hỏi ông vòng vo né tránh! Tôi nghĩ rằng, nếu không tận mắt nhìn cảnh ấy, ông không nên viết ra. Nhiều người lính ở cả hai bên từng tham chiến trận đó đã lên tiếng rằng điều ông tả là KHÔNG THỰC, ông còn chờ lịch sử nào trả lời nữa đây?
Truyện Hòn Đất của Anh Đức viết giữa thập niên 1960, khi cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai đang cao trào, việc hư cấu trong truyện cũng có thể được châm chước phần nào do cá nhân người viết giữa chiến tranh cũng nhỏ bé như hạt cát không tự chủ bị hút vào trận lốc xoáy quá lớn của thời cuộc. Truyện Mưa đỏ của Chu Lai ra đời năm 2016, bốn mươi năm sau khi cuộc chiến kết thúc, ông có thì giờ tiếp xúc với con người và các giá trị đạo đức của Miền Nam mà vẫn còn hư cấu kiểu đó thì thật là khó hiểu!
Do tác giả, nhà văn Chu Lai, chưa khẳng định cảnh người đốt người là có thật, tôi tạm dùng cụm từ “chờ xác minh”!
Sau đó, lại đọc lời ông Chu Lai nói: “Khi viết Mưa đỏ, tôi luôn mang trong mình món nợ – Món nợ với những người lính đã nằm xuống ở thành cổ Quảng Trị”[2]. Vì món nợ ấy mà có sự “hư cấu” “chờ xác minh” trong Mưa đỏ ư? Người lính trung thực “đã nằm xuống ở thành cổ Quảng Trị” hả dạ hay xấu hổ khi đọc nhà văn đồng đội Chu Lai miêu tả anh thành ngọn đuốc sống bởi ngọn lửa “chờ xác minh” đang “bùng lên, liếm nhanh”? Ông Chu Lai đã trả nợ hay lại mắc thêm nợ nữa với đồng đội mình?
Và tôi cũng có câu hỏi mở rộng thêm, ông Chu Lai có khi nào thấy mình mắc nợ với những người lính phía đối diện, họ ngã xuống khi các ông tấn công vào? Cho dù đinh ninh rằng mình có chính nghĩa, ông có xao động chút nào trước những thây người ngã xuống vì cuộc tấn công “chính nghĩa” ấy không?
4) CHỪNG NÀO MỚI CÓ LÒNG THÀNH ‘GIẢI OAN CHO CUỘC BIỂN DÂU’ CHUNG?
Tôi rất xúc động đọc những câu thơ của người lính Quảng Trị Lê Bá Dương:
“Đò lên Thạch Hãn ơi… chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm”
(Lời người bên sông, thơ Lê Bá Dương)
Những câu thơ nặng trĩu nỗi đau nhân tình của chiến tranh! Những câu thơ làm tôi nhỏ lệ khóc cho số phần bi thương của người lính cả hai bên trong cuộc chiến hai mươi năm nửa thế kỷ trước!
Tôi lại xúc động với ông Tô Thùy Yên, một nhà thơ – lính chiến Việt Nam Cộng Hòa. Dù cùng đồng đội chấp nhận buông súng đầu hàng, ông vẫn chịu mười mấy năm lưu đày oan nghiệt trong trại cải tạo.
Vậy mà, chân bước ra trại lòng ông lại nhẹ tênh:
“Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này”
(Ta về, thơ Tô Thùy Yên)
Tấm lòng của Tô Thùy Yên xin được làm giọt rượu hồng hóa giải tất cả nỗi đau chiến tranh mà toàn thể dân tộc Việt là nạn nhân chung. So với đoạn văn “chờ xác minh” của ông Chu Lai vì “món nợ với những người lính đã nằm xuống ở thành cổ Quảng Trị”, có phải tầm vóc của bài thơ Ta về – Tô Thùy Yên cao lồng lộng như trời xanh không?
5) GIA TÀI ĐỂ LẠI CHO CON CHÁU – LÒNG NGƯỜI TAN HOANG – LÀM SAO VÁ LẠI?
Sau ngày hòa bình lập lại năm 1975, chúng tôi càng hoang mang về tình yêu nước, tình đồng bào của người Việt. Mấy chục năm dài chiến tranh, hòa bình về cần xây dựng tình yêu thương, nối lại nghĩa đồng bào thì người dân chỉ thấy sự phân chia địch ta bạn thù càng nghiệt ngã hơn giữa anh em cùng dòng máu Tiên Rồng!
Ai có thể nhẫn tâm viết “hư cấu” hành động vô nhân tính của lính Miền Nam? Lòng yêu nước thực sự và tình đồng bào thực sự có cho phép người ta bịa những chuyện “chờ xác minh” như vậy không? Giả sử anh em ruột rà ác độc thiệt thì lấy tình anh em mà khuyên bảo, có đâu anh em không ác mà hư cấu, đặt điều để vu khống?
Việc hư cấu như vậy có tác động gì trên cuộc chiến? Có khiến cuộc chiến trở nên tàn bạo hơn, và do đó, tàn phá tình đồng bào khốc liệt hơn không? Ngẫm lại mà xem, khi tổng kết hậu chiến, sự tan hoang về vật chất và tan hoang về tình người, tan hoang nào đáng sợ hơn, khó khắc phục hơn?
Con cháu sau này, khi sự thực lịch sử bị bóp méo rồi, chúng nghĩ gì về cha ông chúng khi đọc những tác phẩm như Mưa đỏ? Chúng sẽ có môi trường tích cực, năng lượng tích cực để cùng xây dựng cộng đồng no ấm không? Chúng dễ dàng hợp tác với nhau hay chia rẽ trong hận thù kéo dài tạo nên bởi hư cấu vu khống?
Bài viết này không đồng ý với tác giả Vũ Minh Giang, người cho rằng “những sáng tạo nhỏ… như cảnh kẻ địch thiêu sống chiến sĩ… là… có thể chấp nhận. Bởi chúng làm phong phú thêm trải nghiệm điện ảnh mà không làm biến dạng sự thật lịch sử”[3]. Biến dạng lắm chứ, thưa giáo sư Vũ Minh Giang! Biến dạng bản chất sự kiện lịch sử, biến dạng sự thật và ý nghĩa lịch sử và, ghê gớm hơn, biến dạng nhân cách cả một dân tộc! Xin đừng cổ vũ, dung túng cho việc hư cấu ác độc như thế nữa.
KẾT LUẬN: Cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai, dù đạt mục tiêu chiến thắng cho một bộ phận dân tộc cũng phá hủy quá nhiều sinh lực nước Việt Nam chung. Suốt cuộc chiến đó, từng ngày, Việt Nam cần mẫn vét sinh mệnh vô giá con em mình ném vào lò lửa chiến tranh! Từng ngày, Việt Nam cần mẫn vét những giá trị sống đạo đức quý báu được ông cha xây dựng hàng ngàn năm ném vào lò lửa chiến tranh. Những giá trị nhân bản của tình đồng bào, của lòng trung thực, nhân ái, những giá trị kết nối con người với nhau trong xã hội, những giá trị ấy bị thương tổn nặng nề trong lòng người Việt.
Trong khi nêu thí dụ về tác phẩm cụ thể, bài viết này không muốn lên án cá nhân, chỉ mong từ nay môi trường văn hóa chung của Việt Nam được chữa lành bệnh bằng sát trùng đúng cách: lánh xa dối trá, độc ác, thù địch, xích gần trung thực, nhân bản, tôn trọng, hợp tác. Đó là nhân tố thành công rất quan trọng để xây dựng kỷ nguyên mới, kỷ nguyên mà nếu xây dựng được, đại đa số người Việt trẻ già trai gái sẵn lòng cất lại quá khứ, kề vai sát cánh vì tương lai phát triển chung!
Ngày 20 tháng 9 năm 2025
[1] Hoài Thanh, Hòn Đất, Hòn Ngọc. Tạp chí Văn Học, số 1 năm 1968, trang 7-9.
[2] https://vanvn.vn/nha-van-chu-lai-cam-on-ban-da-khoc-cung-mua-do/, 20/9/2025
[3] Hương Hồ và Mai Trâm, Tranh cãi phim Mưa đỏ: Giới hạn nào giữa hư cấu và tôn trọng lịch sử. https://dantri.com.vn/giai-tri/tranh-cai-phim-mua-do-gioi-han-nao-giua-hu-cau-va-ton-trong-lich-su-20250918102420156.htm, 20/9/2025