Lật lại một cuốn sách “có vấn đề” về Trung Quốc

Trần Văn Chánh

 

Bài viết này không nhằm giới thiệu hay bình luận sách mới, vì cuốn sách đang đề cập Bàn về Trung Quốc trỗi dậy của tác giả Lê Vĩnh Trương đã được NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành cách nay đúng 6 năm. Gọi “có vấn đề” như tên bài viết vì khi sách này vừa xuất bản đã có lệnh từ cơ quan chức năng cấp trên yêu cầu nhà xuất bản phải thu hồi vì lý do trong sách có những điểm cần soi xét liên quan đến mối bang giao Trung-Việt. Sau một thời gian khá dài “hậu kiểm”, sách đã được cho phát hành chính thức, sau khi đã xóa bớt một số điểm nhạy cảm… Đây là lý do giải thích tại sao trên thị trường sách vào những năm đó tồn tại hai dị bản: một ấn bản đủ với số lượng ít đã “lỡ” phát hành khi chưa có lệnh thu hồi, và một ấn bản hơi thiếu thiếu một chút do cơ quan hậu kiểm yêu cầu xóa bớt những chỗ được/ bị cho là “nhạy cảm”. Để không bị tổn thất về mặt kinh doanh, nhà xuất bản đã khéo sắp xếp cho ấn bản sau khi sửa vẫn duy trì được hình thức trình bày cùng số trang y chang như ấn bản đủ lúc ban đầu…

Tình hình như trên khá thường xảy ra trong ngành xuất bản ở xứ ta: một cuốn sách xuất bản hợp pháp (có giấy phép), phát hành được đợt đầu, nhưng sau đó vì ý kiến của một quan chức cấp trên nào đó, đã buộc phải thu hồi. Có trường hợp sau khi “hậu kiểm” thì  được phép lưu hành trở lại, nhưng cũng có trường hợp bị đóng băng luôn, cho vào kho đóng kín hoặc tiêu hủy (như cuốn Petrus Ký nỗi oan thế kỷ của Nguyễn Đình Đầu chủ biên, xuất bản năm 2017…).

Tôi còn nhớ cách nay khoảng trên dưới 10 năm, có cuốn Khoa học soi sáng lịch sử của Nguyễn Hữu Hiệp do NXB Lao Động ấn hành, sách in xong có lệnh thu hồi và người chịu trách nhiệm trực tiếp quyển sách phải bị cho thôi việc, chỉ vì trong đó có một bài mô tả lại cuộc đăng quang hoành tráng của tổng thống Đài Loan Trần Thủy Biển, người được coi như không ưa Trung Quốc đại lục, mặc dù trong bài viết thì không thấy có một câu nào nói xấu Trung Quốc đại lục cả.

Khổ nỗi, và cũng thật đáng buồn cười, sách càng bị cấm càng gợi thêm tính tò mò cho độc giả, không mua được thì người ta mượn đọc, truyền tay nhau, hoặc đọc dưới dạng những bản photo (chi phí còn rẻ hơn bản sách gốc) phát hành lậu, có thể kiếm được không khó lắm ở một phố sách nào đó.

Tuy nhiên cũng có trường hợp đề tài và nội dung một cuốn sách nào đó rất nhạy cảm gây chấn động dư luận nhưng vẫn “lọt lưới”, như có thể kể cuốn Gia đình của Phan Thúy Hà (NXB Phụ Nữ Việt Nam, xuất bản tháng 7 năm 2020, kể chuyện cuộc Cải cách ruộng đất long trời lở đất ngoài Bắc những năm 50 của thế kỷ trước), hoặc gần đây nhất, cuốn Thuyền của Nguyễn Đức Tùng (NXB Phụ Nữ Việt Nam, tháng 6.2025, kể chuyện thuyền nhân Việt Nam giai đoạn sau 1975)… Điều này cho thấy, trong điều kiện kiểm duyệt khá gắt gao, không có tự do ngôn luận và xuất bản, một đề tài “nhạy cảm” có đến phục vụ người đọc được hay không là còn tùy vào thiện chí, khả năng thẩm định và bản lĩnh chính trị-nghề nghiệp của ban biên tập (chủ yếu là giám đốc) các nhà xuất bản…

Trở lại sách Bàn về Trung Quốc trỗi dậy của tác giả Lê Vĩnh Trương, tôi may mắn đọc được bản gốc khi nó chưa bị xóa những chỗ nhạy cảm.

Lướt sơ qua và đọc hơi kỹ Chương 2 (“Trung Quốc – Việt Nam, láng giềng nóng lạnh”) thì thấy đây là một công trình tương đối hiếm ở xứ ta và vì thế đáng trân trọng, trong đó tác giả đã tập hợp tham khảo trên 300 nguồn tư liệu gồm sách và bài viết bằng nhiều loại ngôn ngữ khác nhau, để “tập đại thành” về một nước Trung Quốc hiện đại đã và đang trỗi dậy trong sự quan tâm theo dõi của tất cả các quốc gia trên thế giới. Loại đề tài này ở một số nước ngoài là không lạ, không hiếm, nhưng ở Việt Nam nó đáng kể là một quyển thuộc loại đầu tiên mà khá đầy đủ, thể hiện rõ công phu và tâm huyết của tác giả.

Gọi “có vấn đề” thì đây là một khái niệm khá mơ hồ của ngành xuất bản và kiểm soát xuất bản, vì có vấn đề hay không chủ yếu chỉ do sự chênh lệch nhận thức hay tầm nhìn của mỗi người. Ở người đứng trên cương vị kiểm soát xuất bản, trong bối cảnh cơ chế/ thể chế chính trị Việt Nam, “vấn đề” thường xuất hiện nhiều hơn, vì công chức phụ trách ngành xuất bản ai cũng sợ lãnh lấy trách nhiệm từ trên “triều đình” dội xuống. Đây là một trong những lý do để họ đáng được người dân, độc giả và các bậc thức giả bên ngoài cảm thông cho một phần nào.

Tình trạng chênh lệch nhận thức như vừa nêu trên đã thể hiện khá rõ ngay trong những trang đầu quyển sách, vì giở sách ra, độc giả thấy ngay lời giới thiệu sách rất ngon lành của GS.TS Đỗ Tiến Sâm, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Khi viết giới thiệu, hẳn GS Sâm đã thấy cuốn sách viết tốt và có lợi ích thì mới dám chấp bút viết, như mấy dòng sau đây: “Tôi hoan nghênh và đánh giá cao công trình của Lê Vĩnh Trương. Cuốn sách là sự hội tụ ba điểm mạnh của ông – sự nhạy cảm của một người làm kinh tế, sự sắc sảo của một người làm báo và sự sâu sắc của một người làm khoa học. Ông nhìn nhận và lý giải sự trỗi dậy của Trung Quốc bằng một kết cấu hợp lý và văn phong giản dị nhưng sâu lắng với những chú thích nghiêm túc nên hấp dẫn người đọc” (trích “Lời giới thiệu”, tr. 9-10).

Vậy suy ra, giả định có một cuộc gặp gỡ đa phương để đánh giá quyển sách giữa GS Sâm, tác giả, nhà xuất bản với người đại diện của Ban Tuyên giáo, của Bộ Ngoại giao…, thì chắc chắn giữa các bên sẽ có phát sinh tranh cãi về quan điểm chính trị, từ đó dẫn đến quan điểm đánh giá quyển sách, và điều này càng cho thấy đánh giá thế nào là do sự chênh lệch trong tầm nhận thức và bản lĩnh chính trị của mỗi người, như đã đề cập ở trên.

Còn theo nhận xét chủ quan của riêng tôi, thì Bàn về Trung Quốc trỗi dậy tuy cấu trúc có phần hơi tạp (do tác giả hơi tham, trích dẫn nhiều…) nhưng nhìn chung là một công trình học thuật viết khá công phu và toàn diện để giúp người đọc Việt Nam hiểu sâu hơn về Trung Quốc. Sách dày 488 trang, gồm 4 chương: (1) Trung Quốc trỗi dậy (với các tiểu mục khảo sát nước Trung Quốc về các mặt: kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, khoa học kỹ thuật, tam chiến, chiến lược trỗi dậy); (2) Trung Quốc – Việt Nam, láng giềng nóng lạnh (với các tiểu mục: địa lý nghiệt ngã, sự can dự của Trung Quốc trong lịch sử Việt Nam [1945-1990], quan hệ Việt-Trung, láng giềng nhiều va chạm); (3) Trỗi dậy và tương tác (với 5 tiểu mục nói về quan hệ giữa Trung Quốc với: Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Nga, Australia); (4) Trung Quốc trỗi dậy trong thế giới ngày nay (hai tiểu mục: sự biến động của trật tự thế giới mới, tương tác và cộng sinh; thêm “Thay lời kết”: Trung Quốc trỗi dậy và những cách tiếp cận).

Vậy, để hiểu rõ về Trung Quốc, những người có trách nhiệm và kể cả thường dân cũng như các cán bộ cấp thấp có lẽ ai cũng nên đọc qua cuốn sách này một lần, nếu có quan tâm đến các vấn đề sống chết của dân tộc. Không nên có quan niệm việc quốc gia đại sự thì chỉ cần một số ít nhà lãnh đạo chính trị biết thôi, còn thường dân hay cán bộ cấp thấp tchẳng cần biết làm gì cho thêm rối, bởi nếu như thế thì làm sao có thể xây dựng được thể chế dân chủ trong đó mọi việc quan trọng đều do nhân dân quyết định trên cơ sở dân trí cao?

Chính ông thầy người Trung Quốc là Tôn Tử (545 TCN-470 TCN) đã từng dạy bằng câu kinh điển “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng” (Tri bỉ tri kỷ, bách chiến bách thắng). Ở đây, người Việt Nam chúng ta không muốn gây sự với  ai, nhưng sống và tương tác với ai, người đó dù đối địch hay bằng hữu, chúng ta cũng cần hiểu rõ từng ưu khuyết điểm của họ.

Từ nhiều năm nay, Việt Nam luôn tuyên bố lập trường hòa bình hữu hảo và hợp tác đối với Trung Quốc, nhưng thực tế là hai bên “cơm không lành, canh chẳng ngọt” thì Việt Nam cần phải tìm hiểu về Trung Quốc đầy đủ hơn nữa. Ở một chiều ngược lại, ta không được quên rằng từ rất xa xưa, tổ tiên người Trung Quốc luôn  tìm hiểu rất kỹ về Việt Nam. Họ hiểu biết Việt Nam chẳng khác nào như đi trong ruột trong bụng của chúng ta, và chúng ta như nằm trên lòng bàn tay họ.

Không biết có phải để nhằm thực hiện mộng bá quyền hay không, hay bởi mục đích học thuật gì khác, nhưng các vua chúa phong kiến Trung Quốc luôn khích lệ triều thần/ sử quan của họ khảo cứu rất kỹ về địa lý, lịch sử Việt Nam, nhất là về địa lý, nên họ biết rõ Việt Nam có bao nhiêu sông suối, núi non, thành trì, đường sá (bộ, núi, sông, biển), khí hậu, động thực vật, sản vật địa phương, trường học, quân đội, chợ búa, bến đò, phong tục tập quán… Đó là những điều đã được họ ghi chép hàng trăm năm trước, trong những sách đại khái như An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng (thế kỷ XVII), An Nam chí lược của Lê Trắc (người gốc Việt thời Nguyên, soạn tại Trung Quốc, xong năm 1333), Việt kiệu thư (thời Minh) của Lý Văn Phượng, Việt Nam tập lược của Từ Diên Húc (trong Thanh sử cảo Quyển 458; đã có bản Việt dịch của Nguyễn Phúc An, NXB Lao Động, 2023)…, nhiều không thể kể xiết. Họ cũng cho dịch Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim ra chữ Hán (dưới nhan đề Việt Nam thông sử). Khoảng cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, tôi còn có dịp đọc một cuốn sách chữ Hán nhan đề Việt Nam tiến đến năm 2000 (tên chữ Hán: Xu hướng 2000 niên đích Việt Nam) viết rất chi tiết về các phương diện của Việt Nam, từ điều kiện thiên nhiên đến hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa giáo dục…

Phía Việt Nam thì trái lại, ngoài vài quyển sử phổ thông đã cũ (như Trung Hoa sử cương của Đào Duy Anh, Trung Quốc sử lược của Phan Khoang, Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê…), hầu như không có sách nào viết kỹ về địa lý-lịch sử Trung Quốc dưới dạng tương đương địa chí như Trung Quốc đã làm đối với Việt Nam. Thời gian gần đây, do có chuyện “cơm không lành, canh chẳng ngọt” xảy ra giữa hai bên nên Việt Nam bắt đầu viết khá nhiều sách để xác định chủ quyền của mình ở Biển Đông, nhưng sách tìm hiểu tỉ mỉ hơn về các mặt khác của một Trung Quốc trỗi dậy thì dường như chỉ có cuốn Bàn về Trung Quốc trỗi dậy của Lê Vĩnh Trương là đáng kể lần đầu.

Mới đây thấy có thêm mấy cuốn như Đại Việt quốc thư (bản dịch, chú giải của Nguyễn Duy Chính, NXB Văn Hóa Văn Nghệ, 2016), Lý thuyết quân sự Trung Hoa (bản dịch của Nguyễn Duy Chính, NXB Văn Hóa Văn Nghệ, tái bản, 2016), Thanh thực lục (bản dịch của Hồ Bạch Thảo được cho hiệu đính tái bản, NXB Hà Nội, 2019) cũng là một vài sách đáng đọc để rút tỉa kinh nghiệm bang giao với Trung Quốc, nhưng tôi băn khoăn không biết một số nhà lãnh đạo cấp cao của Việt Nam trong lúc quá bận rộn về những việc khác (như chống tham nhũng, sáp nhập tỉnh và tinh gọn bộ máy hành chính, chuẩn bị các cuộc họp hoặc đại hội này khác…) thì họ có rảnh để cầm lên đọc thử một hai cuốn hay không, hay chỉ biết trông cậy vào báo cáo của cấp dưới mỗi khi có vấn đề gì mới xảy ra?

Chúng ta nên nhớ Trung Quốc không phải là một nước mạnh thật sự vì quốc gia họ đông dân nhiều lo, trên phương diện nhân bản nếu coi trọng sự chia sẻ lẫn nhau giữa các dân tộc bốn biển đều anh em thì đây là điều rất đáng được thông cảm đối với nhân dân và nhà cầm quyền Trung Quốc. Ta không muốn nước khác khốn khổ để nước mình riêng được hạnh phúc, và luôn cần có sự hợp tác chân thành để cùng nhau tiến bộ, nếu có thể được. Nhưng đất nước này về mặt khách quan từ lâu đã và đang gặp nhiều khó khăn về quốc nạn tham nhũng, mâu thuẫn xã hội do hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng giãn rộng và tình trạng khủng hoảng môi sinh hầu như vô phương cứu chữa. Do chính sách bá quyền nên Trung Quốc ít có đồng minh chân thật, lại thêm nhân tâm ly tán, xã hội thiếu đồng thuận và không được quản lý theo hướng dân chủ văn minh tiến bộ.

Trên thực tế, dù khoa học-kỹ thuật và thương mại phát triển rất mạnh, Trung Quốc vẫn là một “gã khổng lồ mất ngủ”, như cách diễn đạt rất thông minh trong tên một cuốn sách do NXB Hội Nhà văn xuất bản khoảng mươi năm về trước. Đã vậy, người Trung Quốc, cũng không khác mấy Việt Nam, từ lâu đã bị thâm nhiễm bởi rất nhiều thói hư tật xấu ăn sâu vào cốt tủy, tâm lý và nếp sống văn hóa nên họ khó mạnh lên một cách thực chất như một số cường quốc Âu Mỹ được. Điều này đã được các bậc thức giả người Trung Quốc công khai thừa nhận, như đã nói thẳng thắn trong cuốn Người Trung Quốc xấu xí của Bá Dương (Xú lậu đích Trung Quốc nhân, xuất bản lần đầu năm 1985 tại Đài Loan), và khoảng chục năm trước là những lời nhận xét trung thực gây chấn động Trung Quốc của viên trung tướng không quân Lưu Á Châu (sau đó đã bị nhà cầm quyền hạ ngục) về các thói xấu và chỗ yếu cơ bản của dân tộc ông. Trung Quốc vì vậy họ phải còn gian nan lắm trên con đường đi của mình, nên ta phải vừa thông cảm vừa đấu tranh với họ trên căn bản hòa bình hợp tác và luật pháp quốc tế, áp dụng chính sách “tiên lễ hậu binh”, trong đó coi “binh” phải là trường hợp bất khả kháng, trên tinh thần do chính tổ sư về quân sự của Trung Quốc đã dạy, “phi nguy bất chiến” (nếu chưa lâm vào thế nguy thì đừng đánh).

Vấn đề cốt lõi hiện nay trong bang giao Trung-Việt là Việt Nam cần tìm hiểu cặn kẽ về Trung Quốc, để biết rõ các mặt mạnh, yếu của họ, nhằm có thể đối phó hiệu quả hơn trong những lúc cần, chứ không nên sợ Trung Quốc như sợ cọp, để đến nỗi sách viết ra hễ có câu chữ gì nhạy cảm đụng tới Trung Quốc thì cũng e sợ, bắt NXB phải sửa in lại…. Mặt khác, cũng phải nên nhớ lại truyền thống hào hùng của dân tộc Việt, thể hiện trong thái độ tuyên bố rất mạnh mẽ khảng khái như đã viết trong bài Bình Ngô đại cáo tương truyền do Nguyễn Trãi chấp bút: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo/ Như nước Đại Việt ta từ trước(…)/ Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau/ Song hào kiệt thời nào cũng có. Cho nên: Lưu Cung tham công nên thất bại/ Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong/ Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô/ Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã/ Việc xưa xem xét, Chứng cớ còn ghi…”.

Cũng may, thời đầu nhà Lê, nước Đại Việt chưa có Đảng Cộng sản, chưa có hệ thống kiểm duyệt văn chương báo chí gắt gao, hoàn cảnh quan hệ Việt-Trung cũng khác, nên bài Bình Ngô đại cáo vẫn được lưu truyền thoải mái  đến tận ngày hôm nay cho các thế hệ cháu con Việt Nam tiếp tục nghiền ngẫm.

Ta cũng lại nên thử hỏi, nếu các nhà văn, nhà báo Trung Quốc có dùng một số từ ngữ nói xấu thô bạo về Việt Nam thì nhà cầm quyền Trung Quốc có “sửa lưng” họ, ngăn cấm họ giống như bên Việt Nam đã làm đối với các nhà văn nhà báo Việt hay không, mặc dù trong thiện chí tối đa và phép lịch sự tối thiểu, chúng ta không bao giờ muốn khuyến khích những lời lẽ thô bạo, công kích lẫn nhau? Trả lời được câu hỏi có vẻ giản đơn này, tôi cho rằng cũng là cách gián tiếp để chọn quan điểm ứng xử và giải pháp xử lý thích hợp chứ không để bị mang tiếng hèn kém đối với những công trình học thuật cơ bản là nghiêm túc, như cuốn Bàn về Trung Quốc trỗi dậy của Lê Vĩnh Trương là một thí dụ.

T. V. C.

9.2025

This entry was posted in Vấn đề hôm nay and tagged . Bookmark the permalink.