Trương Thị An Na
Mùa hè năm 1979, rời ông bà ở Hà Nội tôi vào sống ở Huế với gia đình. Lúc đó gia đình tôi được phân hai phòng ở trong khu tập thể của trường Đại học Sư phạm Huế. Đây là một ngôi trường có kiến trúc hiện đại, nằm ngay sát bên dòng sông Hương hiền hòa, mềm mại như tà áo dài của cô gái Huế. Nhưng ngôi trường không gây được ấn tượng với tôi mà điều làm tôi choáng ngợp chính là cái giảng đường nằm đối diện với nhà tôi. Tôi cứ mở to mắt ngắm nghía cái giảng đường oai nghiêm, rộng lớn như một rạp hát nằm trong khuôn viên nhà trường. Đó chính là hình ảnh đầu tiên rõ nét nhất trong mắt tôi về khái niệm “miền Nam”, một từ hay được người miền Bắc dùng để chỉ những gì thuộc về miền Nam thời kỳ sau giải phóng 1975, đại loại như “của miền Nam, người miền Nam, trong miền Nam, đi miền Nam…”.
Thời đó tôi chưa phải là sinh viên, mà mới chỉ là cô nữ sinh cấp 3 nên tôi chưa được vào để nghe, để thấy, để chiêm ngưỡng hình ảnh thầy cô giáo đứng trên giảng đường rộng gấp nhiều lần lớp học bình thường thuyết giảng cho một lượng lớn sinh viên trong giờ học chính khóa hay những lần sinh viên tập trung ở các buổi học chính trị toàn trường. Tôi, một cô bé mới lớn, với bao nhiêu niềm háo hức, bao nhiêu sự tò mò đã một vài lần mon men vào trong đó xem văn nghệ do các anh chị sinh viên khoa ngoại ngữ mà bố tôi phụ trách biểu diễn. Tôi còn nhớ, hôm ấy các anh chị biểu diễn vũ kịch Hồ Thiên nga của Tchaïkovski. Điệu nhảy của các con thiên nga trắng trên sân khấu cùng với âm nhạc của Tchaïkovski lúc thì sâu lắng, dịu dàng lúc lại chợt bùng lên mạnh mẽ phát ra từ cái máy cassette, làm cho tôi cảm thấy như mình đang lạc vào chốn thần tiên thực sự. Đó là lần đầu tiên tôi biết đến Tchaïkovski, nhà soạn nhạc vĩ đại người Nga, sinh năm 1840 tại Votkinsk và mất năm 1893 tại Saint Péterbourg. Một người Nga chính hiệu từ đầu đến chân như các nhà nghiên cứu âm nhạc thường nói về ông.
Bẵng đi một thời gian dài cho đến mùa hè năm 1994, khi kết thúc khoá học 9 tháng ở Pháp, từ Grenoble, tôi lên Paris và ở lại đó hai tháng cùng với bố tôi. Bố tôi đã từng ở Paris trước đó ba năm rồi nên ông thông thạo Paris lắm. Bố có thể biết bến Métro nào thì nên đứng ở đầu toa, bến nào thì đứng ở cuối toa để khi bước ra là có thể đến ngay được lối ra mà không cần phải đi bộ nhiều. Tôi còn nhớ bà Soeur Van Der Meersch đã cho bố tôi mượn một căn phòng áp mái (gọi là “Chambre de bonne” tức là phòng dành cho người giúp việc) trong một Résidence sang trọng ngay sát bến Métro Duroc. Để lên xuống được đó thì hàng ngày bố con tôi phải đi một cái cầu thang bộ hình xoắn ốc mà nhìn từ dưới lên hay từ trên xuống thì cũng có cảm giác khủng khiếp như nhau vì độ xoắn của nó. Nhưng độ cao đó chẳng làm khó được tôi, ngày mấy lượt tôi vẫn cứ leo lên leo xuống băng băng. Căn phòng đó là nơi chứa đầy kỷ niệm của cha con tôi về Paris. Ở nơi đó chúng tôi đã cùng nhau reo vui khi nghe thông tin về việc khánh thành đường hầm xuyên biển Manche, cùng chung niềm vui với nước Anh, bởi từ đây đất nước này đã không còn là một hòn đảo nằm tách biệt nữa. Cũng ở nơi đó cha con tôi đã cùng nhau hòa chung niềm hân hoan trong ngày quốc khánh nước Pháp 14/7, cùng xem bắn pháo hoa, cùng nhau ngắm sông Seine, ngắm những con đường, những hàng cây, những góc phố. Còn nhiều nhiều lắm những nỗi niềm mà bố con tôi sẽ không bao giờ quên từ căn phòng áp mái thân thương đó…
Tôi còn nhớ trong khoảng thời gian hai tháng hè trong căn phòng ấy, bố và tôi cứ ngày ngày lang thang khám phá rất nhiều nơi ở Paris. Chúng tôi đã đến tháp Eiffel, đến Montmartre, Nhà thờ Đức Bà, rồi dạo bước bên bờ kè sông Seine thanh bình và thơ mộng, đi xem bảo tàng Louvre, Orsay, Pompidou, và ngay cả bảo tàng Grévin, thăm điện Panthéon, Đại học Sorbonne, dạo quanh Đại lộ Saint Michel, vườn Luxembourg với những bức tượng trắng của Anatone France, rồi bố chỉ cho tôi quán café mà ở đó in dấu hình ảnh của biết bao nhà văn, nhà thơ đã từng lui tới nơi đây. Cha con tôi cùng nhau đi đến Montparnasse, cầu Alexandre III, Invalides, thăm mộ Napoléon… Hai tháng hè được cùng bố khám phá Paris sẽ mãi mãi là khoảng thời gian không bao giờ quên trong cuộc đời của tôi.
Trong tất cả những kỉ niệm quý giá của những ngày hè cùng bố ở Pháp, có lẽ điều làm tôi nhớ nhất chính là việc được cầm trên tay chiếc vé để xem vở ballet Hồ Thiên nga của Tchaïkovski được biểu diễn tại Opéra Bastille mà bố tôi được tặng. Vì chỉ có một vé duy nhất nên bố đã nhường cho tôi đi xem những con thiên nga đẹp như thiên thần ấy. Tôi sững sờ trước vẻ đẹp vừa hiện đại vừa to lớn của nhà hát Opéra. Tôi nhanh chóng tìm được chỗ ngồi và dần chìm đắm vào những gì đang diễn ra trước mắt mình, vở ballet được dàn dựng hoành tráng từ sân khấu cho đến các màn kịch. Đầu tiên là cảnh một cung điện sang trọng rồi đến cảnh II là sự xuất hiện của các con thiên nga, cảnh III là sự trở lại cung điện cùng với những trang phục dạ hội lộng lẫy và cảnh IV quay trở lại với các con thiên nga. Hình ảnh những con thiên nga trắng, đẹp lộng lẫy và tinh khiết đã làm mê hoặc trái tim tôi. Suốt thời gian vở ballet diễn ra, tôi đã đắm chìm vào trong cảnh đẹp rực rỡ của sân khấu cùng những diễn viên múa ballet tài năng và dàn nhạc giao hưởng hoành tráng. Tất cả như là một giấc mơ và phải đến một tuần sau tôi mới thoát ra đươc cảm giác ngây ngất trước cái đẹp của âm nhạc Tchaïkovski, cái hồn lãng mạn của Hồ Thiên nga, cái dịu dàng, quyến rũ của những vũ điệu ballet và sự khắc khoải, nuối tiếc cho mối tình bất diệt của chàng hoàng tử trẻ Siegfried và nữ hoàng thiên nga Odette.
Mãi một thời gian sau tôi mới biết để dàn dựng được một vở ballet hoặc một vở opéra ở nhà hát Opéra Bastille như vở Hồ Thiên nga mà tôi được xem thì số tiền bán vé chỉ mới đủ cho chi phí dựng cảnh sân khấu, trang phục và những gì thuộc về nhà hát còn diễn viên và dàn nhạc phải do nhà nước tài trợ. Như thế mới thấy rằng, để có được một vở ballet hoành tráng, hay và chuyên nghiệp cho một đêm diễn thì cần đến một sự chuẩn bị công phu, tốn kém về tiền bạc cùng những nỗ lực, những gian truân, khổ luyện, sự trả giá bằng thời gian, bằng sức lực của những người nghệ sỹ ballet lớn lao biết nhường nào!
Vì quá yêu thích vở Hồ Thiên nga mà sau này tôi đã dành thời gian đi tìm những tài liệu liên quan đến vở kịch bất hủ đó. Trong cuộc đời sáng tác của mình, Tchaïkovski đã để lại cho nhân loại nhiều tác phẩm nổi tiếng, Hồ Thiên nga cùng với Kẹp hạt dẻ và Người đẹp ngủ trong rừng là ba vở ballet nổi bật nhất trong số đó. Tchaïkovski sáng tác vở ballet Hồ thiên nga vào khoảng năm 1875-1876. Vở kịch dựa trên những truyện cổ tích Nga và một truyền thuyết xa xưa của Đức, kể về nàng công chúa Odette bị phù phép biến thành con thiên nga và sau đó được hoàng tử Siegfried ngỏ lời yêu thương. Những con thiên nga trắng muốt, tinh khôi, đẹp đẽ trong tác phẩm của nhạc sĩ vĩ đại sẽ mãi mãi là biểu tượng của nền ballet Nga, biểu tượng của sự trong sáng, vĩ đại, của sắc đẹp quyền quý của ballet Nga. Với những giai điệu hoàn hảo, với tiết tấu nhanh, âm nhạc réo rắt, sâu lắng, lãng mạn, chứa chan cảm xúc đôi khi pha chút ma mị, nó đã trở thành một tác phẩm được yêu thích trong mọi thời đại. Bằng chứng là gần 150 năm sau nó vẫn là một tác phẩm luôn có vị trí hàng đầu và được lựa chọn để biểu diễn trên toàn thế giới của các vũ đoàn ballet. Các nữ diễn viên ballet Nga khi hóa thân vào vai nữ hoàng thiên nga Odetta đã luôn để lại trong ký ức của khán giả những huyền thoại tuyệt đẹp, đó là các nghệ sỹ Marina Semenova, Galina Ulanova, Maya Plisetskaya, Raisa Struchkhova, Natalia Bessmertnova… Còn các thế hệ biên đạo múa trên thế giới vẫn có mãi niềm say mê, sự suy ngẫm và trăn trở về Hồ Thiên nga, tìm cách để chạm được đến điều bí mật và chiều sâu triết học ẩn chứa trong âm nhạc của Tchaïkovski mà họ chưa thể khám phá hết.
Đến bây giờ thỉnh thoảng nhớ Paris bố tôi lại mang ảnh cái Résidence sang chảnh có căn phòng áp mái “chambre de bonne” ấy cùng với mấy câu thơ mà bố đã viết để nói lên những kỷ niệm về một nơi đã từng rất đỗi thân thương với bố con tôi. Bố đưa ảnh và thơ lên Facebook và như thế lại làm bao bạn bè ngày ấy đến thăm chúng tôi rung động và cùng nhớ về Paris một thời đã xa.
Và đây là hình ảnh của Résidence cùng với bài thơ của bố:
KỶ NIỆM PARIS
Vào đúng ngày này bao nhiêu năm trước
Lên phòng áp mái giữa lòng Pa-ris
Một kẻ mơ màng nhẹ nhàng cất bước
Trên cầu thang cũ rung dưới chân đi
Gian phòng áp mái giữa lòng Pa-ris
Tình nghĩa đậm đà bao nhiêu năm trước
Ta đã rời xa không lời hẹn ước
Nhớ mãi cầu thang rung dưới chân đi…
Giờ đây mỗi khi có dịp đến Paris và đi qua bến Métro Duroc lòng tôi lại rạo rực nghĩ về cái Résidence sang chảnh và mỗi lần đi qua nhà hát Opéra Bastille, tôi lại nhớ đển vở Hồ Thiên nga ngày ấy và thầm ước ao có một ngày tôi sẽ cùng bố quay trở lại Pháp, lúc đó tôi sẽ mua hai chiếc vé ở vị trí tốt nhất để bố có thể nhìn thấy đôi chân kì diệu của các con thiên nga và với hiệu quả đắc lực của cái máy trợ thính hiệu Siemens, tôi tin là bố có thể nghe thoang thoảng, văng vẳng, xa xôi giai điệu tuyệt vời từ bản nhạc của Tchaïkovski trong vở kịch nổi tiếng mà bố đã từng nhường cho tôi đi xem mấy chục năm về trước.
Với vở Kẹp hạt dẻ thì tôi lại biết đến nó trong một hoàn cảnh hoàn toàn khác. Tôi đã được xem vở này ngay tại nơi tôi đang sống, Tp Hồ Chí Minh. Mỗi năm cứ đến tháng 12 là cả Thành phố lại rộn ràng, lung linh với đủ màu sắc tươi vui để chuẩn bị đón một mùa Noel mới. Nhà hát thành phố cũng vậy, kể từ năm 2011 cho đến nay, vở ballet Kẹp hạt dẻ của Tchaïkovski được biểu diễn hàng năm đúng vào dịp Noël. Vở ballet do biên đạo múa Johanne Jakhelin Constant dàn dựng, âm nhạc của Tchaïkovski, kịch bản của E.T.A Hofman, Nghệ sĩ ưu tú Trần Vương Thạch chỉ huy cùng HBSO (Nhà hát giao hưởng nhạc vũ kịch TP HCM) biểu diễn.
Nếu vở Hồ Thiên nga chỉ xem một lần là đã gây ấn tượng mạnh đến nỗi phải cả tuần sau tôi mới lấy lại cân bằng với cái cảm giác ngất ngây, đắm đuối khi được thưởng thức nghệ thuật ballet đỉnh cao, thì với Kẹp hạt dẻ tôi đã xem đến bảy lần kể từ khi vở diễn được dàn dựng từ năm 2011. Năm 2012 (Magnus Loddgard chỉ huy). Năm 2013 (Trần Vương Thạch), năm 2014 (Trần Nhật Minh). Năm 2015 (Marius Strainsky), năm 2016 thì vở kịch này có sự hợp tác giữa nhà hát vũ kịch Việt Nam với nhà hát Talarium Et Lux của Nga. Còn năm 2017 (Magnus Loddgard trở lại) cùng với sự trình diễn của HBSO. Tôi đến với Kẹp hạt dẻ không có một ấn tượng mạnh như đến với Hồ thiên nga nhưng như cổ xưa đã nói mưa dần thấm lâu, Kẹp hạt dẻ đã luồn lách sâu vào trong tôi như thế đó.
Kẹp hạt dẻ được công diễn lần đầu năm 1892 tại Nhà hát Hoàng gia Mariinsky, Nga. Trong lần công diễn đó nó không được khán giả đón nhận ngoại trừ phần tổ khúc với thời lượng 20 phút. Tuy nhiên, đến cuối những năm 1960, vở này đã gặt hái được rất nhiều thành công. Hiện nay, nó được công diễn khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là vào dịp Giáng sinh ở Mỹ. Trong Kẹp hạt dẻ, Tchaïkovski đã sử dụng celesta, một nhạc cụ do ông phát hiện ra tại Paris. Cây đàn này có hình dáng và cấu trúc tương tự như đàn piano, nhưng âm thanh của nó thì trong trẻo và lanh lảnh như tiếng chuông pha lê. Tiếng đàn thánh thót tạo ra một không khí thần diệu, đặc biệt phù hợp với điệu nhảy của nàng tiên Sugar Plum. Có thể nói điệu nhảy của nàng tiên Sugar Plum với hoàng tử có lẽ là điệu nhảy đôi nổi tiếng nhất trong thể loại múa ballet. Ngoài ra ông cũng sử dụng thêm các nhạc cụ đồ chơi trong cảnh bữa tiệc Giáng Sinh.
Ngoài hai vũ kịch ballet kể trên, năm 2012, tôi còn có dịp được xem bản Symphonie N°6 en si mineur op 74 do NSUT Trần Vương Thạch chỉ huy cùng sự tham gia biểu diễn của HSBO. Bản giao hưởng này được sáng tác vào năm 1893 và được trình diễn ngay trong năm đó ở Saint Peterbourg, Nga. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng bản giao hưởng này như một cuốn tự truyện về cuộc đời của Tchaïkovski! Nhà soạn nhạc phải đấu tranh với căn bệnh trầm cảm và những biến cố trong suốt cuộc đời của mình, ngoài ra ông còn phải chịu đựng thành kiến của xã hội với những người đồng tính như ông. Trong tác phẩm có biệt danh là Pathétique, Tchaïkovski có chia sẻ rằng, ông viết bản giao hưởng này là dành cho người cháu của ông đã qua đời. Thật đau đớn và xót xa là Tchaïkovski đã từ biệt cõi đời chỉ 9 ngày sau khi đích thân ông chỉ huy dàn nhạc giao hưởng biểu diễn tác phẩm này.
Năm 2018 tôi đã được xem bản Concerto pour piano et Orchestre N°1 en si bémol mineur op 23 do Lê Phi Phi chỉ huy cùng sự trình diễn của HSBO. Trong bản concert này, Tchaïkovski đã làm bật nổi được vẻ đẹp từng giai điệu của âm nhạc dân gian Nga mà trước ông có lẽ chưa có ai thể hiện được, phải chăng vì ông lớn lên ở vùng nông thôn và luôn say mê cái gọi là yếu tố Nga nên cái chất Nga đã ngấm vào trong âm nhạc của ông? Lúc ấy ông khoảng 34 tuổi và đây là một trong những bản concerto nổi tiếng nhất thế giới dành cho piano. Được biết Tchaïkovski đã hoàn thành bản Concerto vào một buổi tối Noel năm 1874 với lời đề tặng Nikolai Rubinstein. Ông muốn Rubinstein là người đầu tiên thể hiện tác phẩm này nhưng tiếc thay Rubinstein lại tỏ ra không hài lòng và đưa ra điều kiện với Tchaïkovski là ông chỉ biểu diễn nếu Tchaïkovski sửa chữa một vài chỗ theo ý của mình. Tuy nhiên, Tchaïkovski đã khước từ và không chấp nhận thay đổi bản nhạc của ông. Sau đó, Tchaïkovski đã đề nghị Hans von Bulow và được Bulow nhận lời biểu diễn bản đó.
Dưới những ngón tay điêu luyện của Bulow tác phẩm Concerto N°1 đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của công chúng và đã chinh phục được họ ngay chuyến công diễn ở Boston vào tháng 10 năm 1875. Một thời gian sau, Rubinstein đã nhận ra được sai lầm của mình và thấy được giá trị của tác phẩm này nên đã thường xuyên biểu diễn nó trong những chuyến lưu diễn khắp châu Âu và ông cũng là nghệ sĩ dương cầm thể hiện tốt nhất bản concerto này. Đây là bản nhạc được viết với lối cách tân và rất khó chơi, thể hiện được sự đằm thắm, sâu lắng và cũng vô cùng lãng mạn, đậm dấu ấn chiều sâu cá nhân của Tchaïkovski, đòi hỏi người chơi phải có một trình độ kĩ thuật cao và điêu luyện. Cấu trúc của bản nhạc gồm ba chương, thời gian khoảng 30 – 35 phút. Concerto No.1 đã từng được biểu diễn bởi các nghệ sỹ Piano hàng đầu thế giới như: Arthur Rubinstein, Vladimir Horowitz, Emil Gilels, Sviatoslav Richter, Lev Oborin, Vladimir Ashkenazy, Ilana Vered, Andrei Gavrilov. Kể từ năm 1958, bản concerto N°1 này đã trở thành một phần thi bắt buộc của vòng chung kết piano trong cuộc thi Âm nhạc quốc tế Tchaïkovski.
Mỗi bản nhạc của Tchaïkovski mà tôi được nghe đều để lại những dấu ấn, những kỉ niệm khó phai. Bản Concerto pour violon et orchestre en ré majeur op 25 của ông tôi được nghe trong một trường hợp thật đặc biệt, không phải trong nhà hát Opéra, cũng không phải trong phòng hòa nhạc sang trọng nào đó mà là nghe trong một bộ phim. Đó là lần tôi và con trai cùng nhau xem bộ phim Trung Quốc Cây vĩ cầm vàng của đạo diễn Trần Khải Ca.
Mở đầu bộ phim tôi thấy mình như lạc vào một vùng quê lam lũ, người người mải miết với cuộc mưu sinh. Giữa quang cảnh hối hả đó xuất hiện một cậu bé chạy gần như đứt hơi đến chơi một bản nhạc với giai điệu nhẹ nhàng nhưng đầy sự khích lệ, đầy sự động viên, đầy sự cổ vũ để giúp người phụ nữ đang gặp khó khăn trong sinh nở. Nước mắt tôi trào ra tự khi nào trước hình ảnh cậu bé chơi đàn và mọi người cùng nhau vỡ òa niềm vui khi tiếng khóc oa oa của đứa bé cất lên. Âm nhạc quả là kì diệu!
Bộ phim tiếp tục mang đến cho tôi những xúc động nghẹn ngào về tình cha con. Hình ảnh rất đời thường của một người cha dù hoàn cảnh sống chật vật, lam lũ nhưng vẫn tìm đủ mọi cách để cho con lên Bắc Kinh học nhạc, bởi ngoài niềm tin vào khả năng âm nhạc của con thì ông còn có một tình yêu vô bờ bến dành cho đứa con thân yêu của mình. Cảnh hai cha con dắt díu nhau lên thành phố, nơi mà cả đời cha chưa bao giờ dám mơ được đặt chân đến, thuê nhà trọ, rồi người cha đi làm thuê, rồi bị đám người dàn dựng để lấy mất chiếc mũ trong đó giấu toàn bộ số tiền ít ỏi của hai cha con, rồi cảnh người cha chạy đôn chạy đáo tìm thầy dạy nhạc cho con. Một tình phụ tử thật thiêng liêng .
Cậu bé Tiểu Xuân, bắt đầu học đàn với một người thầy tài năng, giàu lòng tự trọng, nhân cách cao thượng nhưng không hề có chút danh tiếng nào. Nhưng chính người thầy đó đã dạy cho cậu bé điều quan trọng nhất, đó là tiếng đàn phải được cất lên từ cảm xúc chân thành, người chơi đàn phải giữ được cho mình ngọn lửa ấm nóng ở trong trái tim thì lúc ấy tiếng đàn mới thực sự có giá trị của nghệ thuật chân chính.
Tiểu Xuân ngây thơ với tâm hồn thánh thiện đã đem lòng cảm mến một người chị cực kì tử tế và tốt bụng (Lợi Lợi) mặc dù cô gái làm nghề kiếm tiền bằng cách mua vui cho những đàn ông đểu giả và dối trá. Cậu đã hiểu và thương cảm cho nỗi khổ, sự tủi nhục của người chị mà mình quý mến nên đã quyết định bán cây đàn để mua tặng chị cái áo khoác lông thú mà mặc dù rất thích nhưng cô gái đó đã không mua vì giá quá cao. Chính từ sự tử tế, chân thành của Tiểu Xuân mà cô gái này sau đó đã đến nhà vị giáo sư tên Dư để xin cho Tiểu Xuân được học đàn (trước đó đã bị từ chối vì Tiểu Xuân đã bán đàn và không chịu chơi thử bằng đàn của bạn học). Đây là một ông thầy có danh tiếng nhưng thức thời, sòng phẳng, tính toán và mưu mẹo, nhạy cảm trước những tiềm năng thiên bẩm và cũng đầy mánh khóe trong việc bồi dưỡng tài năng âm nhạc để quảng cáo cho thanh danh của cá nhân mình. Thời gian Tiểu Xuân học ở đây đã luôn nỗ lực hết mình, mặc dù phải học tập trong thế giới cạnh tranh đầy khốc liệt của âm nhạc cổ điển nhưng cậu bé đã luôn giữ cho mình ngọn lửa ấm ở trong tim và gieo được tình yêu trong sáng trên từng nốt nhạc (như những gì cậu học được từ thầy giáo cũ). Cuối cùng cậu cũng trui rèn được những kỹ năng chơi nhạc một cách điêu luyện và được chọn tham dự cuộc thi quốc tế, sắp sửa bước vào đỉnh cao danh vọng, theo đúng “kịch bản” của giáo sư Dư.
Nhưng vào phút cuối, Tiểu Xuân đã quyết định rút khỏi cuộc thi ngay khi biết được sự thật về thầy giáo Dư và bí mật về cây đàn của mình do người bạn học nói ra. Cậu bé đã để lại tất cả danh vọng, để lại cuộc thi quốc tế cầm lấy cây đàn của mình từ chiếc tủ của giáo sư Dư và chạy ra ga tàu tìm bố.
Bộ phim kết thúc trong cảnh Tiểu Xuân chạy đi tìm cha mình và khản cả giọng gọi tên cha một cách tuyệt vọng trong sự đông đúc, ồn ào, nhộn nhịp của sân ga. Bỗng nhiên từ trên cao cậu nhìn xuống thấy cha mình, chị Lợi Lợi và thầy dạy nhạc cũ, người thầy tài năng nhưng cô độc và lặng lẽ. Tiểu Xuân chạy ào đến bên mọi người và ngay chính giữa sân ga ấy, cậu đã rút cây đàn ra và bản Concerto pour violon et orchestre en ré majeur op 25 của Tchaïkovski được cất lên không phải ở phòng hòa nhạc mà là ở nơi những con tàu đang chuẩn bị lăn bánh về muôn ngả! Cả sân ga đang hối hả, ồn ào, náo nhiệt bỗng nhiên im bặt khi tiếng đàn violon réo rắt, dìu dặt, mượt mà, tha thiết và tuôn chảy như dòng suối trong lành cất lên từ đôi tay tài hoa của Tiểu Xuân. Trên màn ảnh lúc này cùng một lúc xuất hiện hai cảnh một bên là sân ga với những hành khách đang lặng đi khi nghe tiếng đàn của Tiểu Xuân, một bên là phòng hòa nhạc sang trọng với tiếng đàn của cô bạn học cùng lớp nhạc của Tiểu Xuân. Cả hai đang cùng chơi một bản concerto của Tchaïkovski! Tiếng đàn trong tay cậu bé khi thì nức nở, nghẹn ngào, lúc lại khắc khoải, chứa chan cảm xúc như tiếng lòng chất chứa đầy sự hàm ơn, tình thương mến, lòng quý trọng của đứa con dành cho người cha nghèo khó đầy lòng nhân ái cả đời đã quên đi bản thân chỉ vì đứa con không phải là ruột thịt của mình. Có lúc tiếng đàn lại vút lên như tràn đầy niềm hạnh phúc, sung sướng, phải chăng đó là cảm giác được quay về với những người thân yêu, những gì quý giá nhất mà suýt nữa cậu đã đánh mất. Thông điệp mà bộ phim muốn gửi gắm, đó là, giá trị đích thực của nghệ thuật không nằm ở đỉnh cao của danh vọng, tiền tài mà nó phải xuất phát từ một trái tim biết xúc cảm, biết trân trọng cái đẹp, biết yêu thương, biết sống vì hạnh phúc của người khác và phục vụ cho đại quần chúng.
Khi cậu bé Tiểu Xuân lịm đi trong tiếng đàn vĩ cầm tha thiết ở cuối phim thì cũng là lúc tôi lịm đi trong âm nhạc của Tchaïkovski. Âm nhạc của ông đã hoàn toàn chinh phục tôi, làm tôi ngây ngất, lần này còn mạnh hơn cả lần xem Hồ Thiên nga ở Nhà hát Opéra Bastille bởi sau ngần ấy năm thì âm nhạc của Tchaïkovski đã thật sự chảy vào trong huyết quản tôi, đã cho tôi thêm động lực để bình thản vượt qua những thăng trầm của cuộc đời. Tôi không biết có còn cơn bão Tchaïkovski nào làm chao đảo cuộc đời tôi nữa hay không, chắc chắn là không bởi chừng ấy cũng đã là quá đủ cho một cuộc đời.