Nỗi niềm Hàm Nghi

Nguyễn Ngọc Giao

Còn ba tuần để khán giả có thể tới xem cuộc triển lãm “Art en exil” tại Viện bảo tàng nghệ thuật Á Châu của thành phố Nice (kết thúc ngày 26.6.2022). Trong một công trình kiến trúc mỹ thuật, thanh thoát nằm trong công viên Phoenix ven bờ Địa Trung Hải. Đây là cuộc triển lãm chưa từng có (150 hiện vật) về tác phẩm (hội họa, điêu khắc) và cuộc đời của Hàm Nghi (1871-1944), ông vua nhà Nguyễn đầu tiên bị thực dân phế truất và lưu đày, được biết dưới cái tên hầu như vô danh: Prince d’Annam (Hoàng thân An Nam).

Thực ra, sinh thời Hàm Nghi đã có hai cuộc triển lãm tại Paris: lần thứ nhất, tranh pastel đã được trưng bày tại Viện bảo tàng Guimet (tháng 6.1904), lần thứ nhì, gần 60 tác phẩm (tranh dầu, pastel và tượng) tại Galerie Mantelet – Colette Weil (tháng 11.1928). Nhưng đây là lần đầu tiên, ban tổ chức đã tập hợp được một số lượng lớn tranh và tượng mà Hàm Nghi sáng tác trong suốt 55 năm lưu đày. Hầu hết các tác phẩm này được mượn từ những sưu tập riêng của hậu duệ (hay những người quen, được tặng).

clip_image001 clip_image002

Ngoài những sưu tập riêng (đây là lần đầu tiên ra mắt công chúng), tác phẩm của Hàm Nghị hiện ở đâu? Năm 2010, bức tranh Chiều tà (1915) đã về tay một nhà sưu tập sống ở Marseille trong cuộc bán đấu giá đầu tiên tại Hôtel Drouot. Theo nhà nghiên cứu Amandine Dabat (hậu duệ 5 đời của cựu hoàng), thì cuối năm 2021, hai bức tranh khác cũng đã được bán đấu giá. Mặt khác, theo những nguồn tin đáng tin cậy, khi Algérie độc lập, bà Marcelle Laloë (quả phụ Hàm Nghi) dọn về Pháp, không mang được toàn bộ tác phẩm của chồng. Một số tranh tượng còn để lại ở biệt thự Gia Long, nay thuộc sở hữu của Bộ Văn hóa Algérie. Một viên chức bộ này nói với đoàn làm phim Đi tìm dấu tích ba nhà vua yêu nước mùa hè năm 2008, là bốn bức tranh của Hoàng thân An Nam đã được tặng cho Maroc, hiện được trưng bày tại Viện bảo tàng nghệ thuật Rabat – chúng tôi chưa kiểm chứng được thông tin này, nhưng xin nêu lên với hi vọng đặt ở độc giả định cư ở Maroc hay có dịp đi thăm thành phố Rabat.

Cuộc triển lãm ở Nice là vận hội hiếm có để người xem có một cái nhìn tổng quan về nghệ thuật của Hàm Nghi và có một ý niệm về bối cảnh lịch sử Việt Nam – Pháp – Algérie trong suốt một thế kỷ, từ giữa thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20.

Ấn tượng đầu tiên, là hầu như toàn bộ tác phẩm (hội họa cũng như điêu khắc) đều biểu hiện cảm hứng ấn tượng chủ nghĩa và hậu – ấn tượng. Cũng không lạ, năm 18 tuổi, ông đi vào hội họa dưới sự hướng dẫn của Marius Raynaud, say mê với hội họa qua Nabis, rồi Gauguin… kết thân với nhà điêu khắc Auguste Rodin, qua môi giới của người bạn vong niên: Judith Gautier (con gái nhà văn Théophile Gautier, đồng thời là tác giả tập thơ Đường đầu tiên dịch ra tiếng Pháp, nữ thành viên đâù tiên của hội đồng giải thưởng văn học Goncourt). Con người và thế giới công nghiệp hóa hầu như vắng bóng trong hội họa của Hàm Nghi. Tất cả dành cho thiên nhiên với muôn ngàn sắc thái: “Biết làm sao ! Tôi cảm thấy mùa này thiên nhiên quá sức đẹp (…). Tôi dành hết thời gian (…) để nhìn ngắm với tất cả sự ngưỡng mộ không mệt mỏi (…) thiên nhiên là người bạn thực sự của tôi. Không thể nào cưỡng lại, tôi đành cầm lấy cây cọ và khung vải”; “tôi đọc trong tranh của tôi những thăng trầm của những ý nghĩ đau buồn, những niềm vui và muôn nghìn sắc thái”.

clip_image003

Qua những dòng tâm sự viết năm 26 tuổi (trích dẫn theo A. Dabat), tôi ngộ ra: hội họa là ngôn ngữ duy nhất để Hàm Nghi thổ lộ với chính mình, và với trần gian. Bạn có thể phản bác: còn tiếng Việt, Hán văn và tiếng Pháp? Tất nhiên, thời gian đầu ở Alger, chưa học tiếng Pháp, Hàm Nghi chỉ nói tiếng Việt. Mọi giao tiếp với quan chức thực dân đều thông qua người thông ngôn tên là Nguyễn Bình Thanh. Tay này vừa là thông ngôn vừa là “báo cáo viên”, Viện lưu trữ ANOM ở Aix-en-Provence còn giữ cả đống báo cáo viết tay chăm chỉ. Người đối thoại duy nhất với nhà vua trẻ lúc đó là mấy học sinh người Việt ở Alger, trong đó có một thiếu niên bị đi đày sang đây: Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm (thua Hàm Nghi 4 tuổi), học sinh người Việt đầu tiên (có lẽ) đỗ tú tài (năm 1896). Tiếng Việt của ông thông ngôn chắc hơi bị hạn chế, chữ quốc ngữ lại càng có vấn đề: tên Nguyễn Phúc Ưng Lịch của nhà vua được viết là… Húng Lịch trong các bản báo cáo viết tay. Còn “hoàng thân An Nam” năm 1904 lập gia đình với cô Marcelle Laloe, cô này cương quyết yêu cầu chồng không nói tiếng Việt với con cái (Như Mai sinh năm 1905, Như Lý 1908, Minh Đức 1910). Toàn bộ giao dịch của Hàm Nghi với người khác từ đây thông qua tiếng Pháp (mà mười tháng đầu ở Alger, ông cương quyết không chịu học) mà cuối cùng, ông đã làm chủ khá nhuần nhuyễn. Toàn bộ thư từ trao đổi của ông với chính quyền thực dân, giới nghệ sĩ, vua quan triều Nguyễn (bố con Khải Định, Bảo Đại) đều là những văn bản tiếng Pháp. Nhà thơ Nga, bà T. L. Schepkina-Kupernik, gặp cựu hoàng ở Alger khoảng năm 1902, cho biết đã được thấy những ghi chép bằng Hán tự. Nhưng theo hậu duệ nhà vua, cuối cùng, ông đã đem đốt hết cả.

Thủ bút Hán tự của Hàm Nghi còn lại, trước hết phải kể hai chữ 子 (Tử) và 春 (Xuân) mà ông thường ký dưới một số tranh. Nếu viết theo lối cũ, từ phải sang trái (như thời hoàng tử Ưng Lịch học Tam Tự Kinh), thì là Xuân Tử, mà giải thích cho bà J. Gautier, ông nói “Fils du Printemps” (đứa con của mùa xuân). Nhưng phát âm, những khi dùng ký tự Latinh theo kiểu của mình (ông không được học chữ quốc ngữ), ông lại viết khi thì “Thủ Xúong” khi thì “Tủ Xuân”. Điều này cũng giải thích tại sao tên con gái lớn của ông được viết trên khai sinh là “Nhu May”, trong khi ông cắt nghĩa cho bà J. Gautier (và bà đã làm một bài thơ tứ tuyệt) là: như hoa mai.

Kết bạn với thiên nhiên, lấy nghệ thuật làm ngôn ngữ… phần nào phản ánh sự cô lập mà Phủ Toàn quyền Alger và Bộ Thuộc địa Paris đã thiết lập chung quanh Hàm Nghi suốt nửa thế kỷ đối với tất cả những gì liên quan tới hiện thực Việt Nam. Để minh chứng điều này, xin đơn cử thời điểm 1922.

Hàng năm gia đình Hàm Nghi nghỉ hè ở Pháp. Cũng là dịp để “hoàng thân An Nam” tiếp xúc với giới văn nghệ sĩ Pháp (ông thường ở nhà của J. Gautier ở Paris, rue de Washington, hay ở Saint-Enogat, biệt thự Pré aux Oiseaux). Mùa hè năm 1922, cựu hoàng chuẩn bị đáp tàu thủy rời cảng Alger đi Marseille, thì nhận được lệnh cấm. Năm ấy, tháng 7, hội chợ Marseille được tổ chức với một “khách quý” là hoàng đế Khải Định. Bức thư kèm đây xác định Khải Định rất tiếc không được gặp “ông chú/bác thân mến”.

clip_image005
Thư Khải Định gửi Quận công Ưng Lịch (ngày 10.7, nhận được ngày 6.8.1922)

1922, như nhiều người còn nhớ, là năm Phan Châu Trinh công bố “Thất Điều Thư” lên án vài trò bù nhìn của Khải Định. Bức thư viết bằng Hán văn, được Phan Văn Trường dịch ra tiếng Pháp, Nguyễn Ái Quốc ra tiếng Việt. Cả ba người (lúc đó cùng ở số 6, Villa des Gobelins, Paris 13) đã xuống Marseille “phát truyền đơn”. Theo chứng từ của cụ Đào Nhật Vinh (do nhà văn Sơn Tùng ghi lại), ở đây, Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc đã gặp Phạm Quỳnh, chủ bút tạp chí Nam Phong, đi tháp tùng Khải Định. Cuộc gặp còn được nối dài bằng một bữa ăn tối tổ chức ngày 13.7.1922 tại Villa des Gobelins. Cụ Đào Nhật Vinh được cử làm đầu bếp “bữa ăn bắc, thết khách bắc”, với thực đơn thuần túy dân tộc: “mất công nhiều là món lòng lợn, rau thơm gia vị tầm cho ra được các thứ ấy không dễ. Có thịt gà luộc, canh chua, cá rán, thiếu rau muống luộc, cà pháo, tương Bần”. Chủ tiệc: Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc. “Khách bắc”: Phạm Quỳnh. Nhật ký ngày 13.7.22 của ông Phạm Quỳnh (do Phạm Tôn, con trai, công bố) ghi: “Juillet, 13, Jeudi: ăn cơm An Nam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Rue des Gobelins).” Trong bài Pháp du hành trình nhật ký đăng trên Nam Phong tạp chí, tác giả viết thêm: “Thứ năm 13 tháng 7 năm 1922: (…) Chiều hôm nay, ăn cơm với mấy ông đồng bang ở bên này. Mấy ông này là tay chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi nên bọn mình đến chơi không khỏi có trinh tử dò thám. Lúc ăn cơm trong nhà, chắc lũ đó đứng ngoài như rươi! Nhưng, họ cứ việc họ, mình cứ việc mình, có hề chi! Đã lâu không được ăn cơm ta, ăn ngon quá. Ăn cơm ta, nói tiếng ta, bàn chuyện ta thật là vui vẻ thỏa thích. Ăn no, uống say, cười cười nói nói… Mai là ngày hội kỷ niệm dân quốc (tức ngày quốc khánh Pháp 14/7 – Phạm Tôn chú)… Anh em đi dạo chơi một lượt các phố đông cho biết cái cảnh ngày hội của Paris thế nào ”.

Tháng bảy 1922. Alger. Marseille. Paris, cách đây đúng một thế kỷ. Lịch sử có những trùng hợp khá kỳ lạ.

Thêm một lý do để chúng ta, trong tĩnh lặng của Viện bảo tàng nghệ thuật Á Châu Nice, ngắm nhìn những bức tranh phong cảnh của “Tử Xuân”, lắng nghe những tiếng nói không lời.

Nguyễn Ngọc Giao
4.6.2022

Nguồn: https://www.diendan.org/sang-tac/noi-niem-ham-nghi

Comments are closed.