Đặng Đình Hưng, đời thơ… (*)

Đỗ Quyên

 

Đặng Đình Hưng qua nét vẽ của Tạ Tỵ

Chữ tài liền với chữ tai một vần”… Câu Kiều đó đã có biết bao nhiêu minh họa mà các nhân vật của phong trào Nhân văn Giai phẩm có thể nói là đau xót nhất trong làng văn nghệ Việt hiện đại. Tất cả họ đều đa tài. Khổ nạn họ gánh chịu, về số mệnh cá nhân cũng đúng, nhưng đúng hơn cả là bởi tâm thức thời đại khi mà tự do sáng tạo bị rớt khỏi những đôi-tay-vàng.

Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, con số các nạn nhân của phong trào này là 40 (**). Đặng Đình Hưng là một trong số đó, bên cạnh những Nguyễn Hữu Đang và Phan Khôi, Hoàng Cầm và Lê Đạt, Trần Dần và Phùng Quán, Văn Cao và Phùng Cung, v.v.

Một cuộc đời gập ghềnh

Sinh năm 1924 tại tỉnh Hà Đông, nhà thơ tài cao phận thấp của thi đàn Việt Nam đã mất vào năm 1990 tại Hà Nội. Đặng Đình Hưng tục hôn với nghệ sĩ Thái Thị Liên mà “tác phẩm chung” của cặp nghệ sĩ là cậu con trai Đặng Thái Sơn. Năm 1958, vì bị lâm nạn Nhân văn Giai phẩm, cuộc sống vợ chồng Đặng Đình Hưng có nhiều trắc trở.

Bản tính Đặng Đình Hưng thích sống thầm lặng, bí hiểm. Là nhân vật tài danh của vụ án văn nghệ nổi tiếng, ông ít xuất hiện trong dư luận, dù là dư luận “ngoài luồng”. Đây là một điều khác hẳn giữa Đặng Đình Hưng với các “VIP” khác cùng hoàn cảnh; như Lê Đạt, Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang… Người bình thường sẽ không thể biết một Đặng Đình Hưng ngồi lặng thinh, nhiều giờ, nhiều buổi bên chén rượu, ngoài chợ, ở quán… để cảm nhận xã hội và tự cảm nhận mình. Hàng xóm của thi sĩ tài hoa nhất nhì Hà Thành thời đó thường chỉ thấy một ông già ngồi im bên cửa sổ, nhìn ra ngoài đường xá, tay cầm chén rượu…

Văn nghiệp truân chuyên mà dần dần tỏa sáng

Đặng Đình Hưng (bên phải) cùng ông bà Văn Cao

Chính thức làm thơ từ cuối những năm 1950 cho đến khi qua đời, hoạt động nghệ thuật của Đặng Đình Hưng về chữ nghĩa gồm 6 tập thơ. Dù rằng về kiến văn, tiên sinh là một bậc cao thủ, không chỉ thi ca mà – trước tiên là – nhạc, rồi họa, kiến trúc… Văn hóa Đông – Tây ăn ở chung tình trong con người đó!

Một bất hạnh cho Đặng Đình Hưng, và thường thấy ở các “thiên tài lỗi nhịp”, là sinh thời tất cả các thi phẩm của ông đều chưa được công bố rộng rãi trong công chúng, ngoài sự lưu truyền giữa một số bạn văn nghệ hợp gu. Chỉ đến khi có một vài trích đoạn được in trên báo chí vào dịp ông qua đời, thì văn giới và công chúng mới được kinh ngạc trước một tính cách thơ lôi cuốn, một thi pháp có một không hai. Nhưng rồi, ngay cả khi đã hiển lộ và gần như không còn bị ngăn cách bởi thời thế, thơ Đặng Đình Hưng vẫn như “thi sơn cô lập”.

Nói về phong cách, sáng tác của Đặng Đình Hưng rất kỳ khôi, rất khó hiểu, ngay cả với người trong giới trong nghề. Thế giới thi ca đó mang vẻ đẹp siêu thực mà thô ráp gần gụi, vừa hiện đại ở cách thể hiện vừa đau đớn ở cảm xúc muôn thuở. Tất cả đều sóng sánh những niềm tin cuối cùng vào Chân-Thiện-Mỹ.

Xin nói chút ít về hai sáng tác quan trọng nhất đã được công bố của Đặng Đình Hưng. Và đến nay, sau hơn 20 năm, chúng vẫn còn là những dấu hỏi đầy hứng thú cho văn đàn và độc giả.

Tập di cảo mang tên Bến Lạ, năm 1991 ngay sau khi thi sĩ qua đời một năm – được nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh giới thiệu “như là thể nghiệm thơ của Đặng Đình Hưng”. Thực vậy, lúc đó cách viết của Bến Lạ hoàn toàn chưa quen thuộc với bạn đọc. Nếu không nói là lần đầu tiên có một loại thơ kỳ cục mà sang trọng đến thế!

Với thời gian và với quy luật của sáng tạo chân chính, tập thơ Bến Lạ dần hé ra một tâm tư chân thành không hề xa cách với những ai biết rung động. Và sau đó, cùng hình thức thể nghiệm tương tự Bến Lạ của Đặng Đình Hưng, công chúng thơ ca lại được biết thêm một số tập thơ cũng cực kỳ khó hiểu mà vẫn sang cả của Trần Dần, như tập Mùa Sạch, xuất bản năm 1998. Đến nay, có tới hàng chục tác giả thành danh ở trong và ngoài Việt Nam đã là chủ nhân của những sáng tác hậu hiện đại đồng điệu với Đặng Đình Hưng, Trần Dần; ít nhất là về cảm thức sáng tạo.

Bến Lạ được thai nghén chắc hẳn từ đã lâu và nó ra đời khi tác giả qua tuổi 60 trên giường bệnh. Từ không gian chật chội cầm tù thân xác, thi sĩ thủng thẳng bước vào thế giới nội tâm vô tận. Bài thơ dài này hợp với Đặng Đình Hưng, vì toàn bộ thi giới của ông là chuỗi độc thoại trong sự cô độc bất di san bằng, bất khả san sẻ.

Đây, những câu thơ đặc trưng Đặng Đình Hưng vẫn nằm lòng những người yêu thơ từ đó tới nay:

“Vâng, tôi chán Bến Lạ

Tôi già rồi

Tôi không làm jì được quyển lịch”.

Một cảm xúc ở phút cuối cùng trên bến bờ tử sinh. Ông già có tên Hưng không hề thấy cái chết đón chờ thân xác mình. Mà chỉ thấy đang có Một Bến Lạ đợi chờ một thi nhân họ Đặng.

Và đây, đoạn thơ khiến người ta dễ nhớ đến ba chữ Đặng-Đình-Hưng:

“Bến lạ ngay gầm jường

mưa to ngay ở gầm bàn

và trong hòm mọi con người chở một con tàu navir trọng tải

những hình thù Hồng hải căng lên

những cái yếm mùi nồng của đám cưới năm ngoái hong ra

khoe và đã đi – những cột đèn đứng lại.”

Thi phẩm thứ hai đã được ra mắt với đời của Đặng Đình Hưng là Ô Mai, do nhà xuất bản Hội Nhà văn phát hành tại Hà Nội năm 1993. Đó cũng là tác phẩm cuối cùng của ông, được viết ít lâu sau Bến Lạ. Chính người bạn tri âm tri kỷ là Hoàng Cầm đã viết bài giới thiệu có nhan đề Thư Gửi Người Âm.

Tập Ô Mai như tác giả tự gọi là Roman poem, có thể hiểu là tiểu-thuyết-thơ và đúng như đánh giá của giới phê bình chuyên nghiệp, “mang một hình thức đặc biệt, có lẽ chỉ có riêng ở tác giả và cũng chỉ xuất hiện một lần: trên nền một độc thoại nửa thơ nửa văn xuôi, hiện lên câu chuyện tình hư hư thực thực với những đoạn hát đôi của nhạc kịch, xen kẽ là những tùy bút đầy không khí và những đối đáp lý thú về công việc sáng tạo.” (Lời giới thiệu của Hoàng Hưng)

Người ta tranh cãi nhiều về Ô Mai. Nếu gọi là một tác phẩm thơ thì đó là thể loại không theo qui ước thông thuộc. Nhưng, nó đi đến cùng về bản chất thi ca, đó là nhờ ba tiêu chí: ngôn ngữ nhiều nhạc tính; rất cảm xúc; giàu tưởng tượng. Thêm nữa, với sự hài hước đến đau đớn, tập thơ chứa đầy tính trữ tình ẩn dưới tầng trí tuệ. Đa số các nhà phê bình đánh giá rằng thơ Đặng Đình Hưng đã làm phong phú tiếng Việt.

Về mặt tâm lý sáng tạo, Ô Mai là thể nghiệm cuối cùng về nỗi “cô đơn toàn phần“ của thế giới Đặng Đình Hưng. Tập thơ rất nhân bản, ở chỗ chỉ cho người đọc một giải thoát mà tác giả may mắn đã đạt được ở cuối cuộc đời bi thương.

“Đặng Đình Hưng là cha của Đặng Thái Sơn!”

Nếu thơ gần với đời nhất thì chúng ta đang có một ví dụ rõ ràng nhất! Đọc các “đứa con tinh thần” của Đặng Đình Hưng mà không hiểu biết về một “đứa con máu thịt” của ông, e sẽ không thấu. (Có thể coi đây là một loại “liên văn bản”, ít nhất ở trường hợp Đặng Đình Hưng?).

“Cha của Đặng Thái Sơn” – đây là một cách nhận diện nhanh nhất cho nhà thơ Đặng Đình Hưng trước dư luận xã hội. Danh này không chỉ nói lên niềm tự hào của người dân Việt khi có được những đứa con thành đạt. Với người nghệ sĩ từng bị chính quyền hắt hủi, xã hội cô lập, văn giới xa lánh như Đặng Đình Hưng, cách gọi này mang ý nghĩa sinh tử.

Cũng cần nhắc lại đôi chút về người con trai của Đặng Đình Hưng. Đó là Đặng Thái Sơn, nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng sau khi thắng giải nhất Cuộc thi piano quốc tế lần thứ X mang tên Frédéric Chopin, hồi tháng 10/1980 tại thủ đô Warszawa của Ba Lan. Sau đó, Đặng Thái Sơn – mới 26 tuổi – là một trong những nghệ sĩ đầu tiên được tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân của Việt Nam.

Theo các câu chuyện nhỏ to trong văn giới Hà Nội, do là con của “nhân vật chống đối Đảng và chính quyền ở vụ Nhân văn Giai phẩm”, Đặng Thái Sơn gặp khó khi tham dự cuộc thi Chopin. Nghệ sĩ Trần Thu Hà, chị cùng mẹ khác cha với Sơn, cậy nhờ cha nuôi của mình là Thủ tướng Phạm Văn Đồng can thiệp; thế rồi chàng trai trẻ đã được mang tài ra thi thố cùng thiên hạ…

Có một quan hệ nhân quả trớ trêu và thú vị về vấn đề cha con của hai nhân tài Việt này. Nếu nghệ sĩ xuất chúng Đặng Thái Sơn không là con của thi sĩ Nhân văn Giai phẩm lừng danh Đặng Đình Hưng, thì ắt là sự thành tài của anh sẽ dễ dàng hơn! Nhưng cũng có thể sẽ ít danh tiếng hơn chăng? Tức là người con được “nổi tiếng” thêm một phần cũng là nhờ người cha bị “tai tiếng”. Ngược lại, nếu không là cha của Đặng Thái Sơn – một người mang lại giải thưởng vinh quang cho nước nhà – thì chắc đoạn cuối đời của nhà thơ tài hoa Đặng Đình Hưng sẽ còn cơ cực hơn, và các tác phẩm của ông dễ gì được ra mắt sớm như vậy?

Không chỉ hồi sinh một phần đời sống tinh thần cho cha, Đặng Thái Sơn từ nước Nga, thường gửi về “các thùng hàng tiếp tế”. Với cuộc sống khó khăn thời đó, ai mà không biết đời của người cha bất hạnh ấy đã được thăng hoa ra sao! Quần áo, thuốc men, xà phòng bột… không nói làm gì, Sơn đã không quên những cuộn toan, các tuýp sơn dầu Liên Xô để cha giải sầu bằng hội họa. Khi mà họa phẩm ngoại cực kỳ khan hiếm, đến các họa sĩ chuyên nghiệp nằm mơ cũng không có các thứ đó để hành nghề…

Về giai đoạn sau cùng của cuộc đời Đặng Đình Hưng, dư luận Hà Thành hay nhắc tới “căn hộ đầu hồi, tầng 2 nhà C4 khu tập thể Giảng Võ” – nơi thi sĩ của chúng ta sống và sáng tác cho đến phút chót. Căn hộ rộng 16 mét vuông, có cả điện thoại! Và nó cũng liên quan đến người con là Đặng Thái Sơn. Khu tập thể Giảng Võ dạo đó chỉ dành cho cán bộ trung cấp có ít nhiều tên tuổi và không ít cán bộ cao cấp của nhà nước. Sau khi Đặng Thái Sơn đoạt giải nhất Chopin 1980, chính phủ đã phân phối (cũng có thể hiểu là bán với giá “hữu nghị”) căn hộ này cho Đặng Đình Hưng. Cái may về hậu cho người tài bạc phận! Thế là Đặng thi nhân đã có được 10 năm để viết lách và vẽ vời, uống rượu và tiếp khách ở một nơi sang cả so với người bình thường, chứ chưa nói đến loại “công dân hạng bét” như ông. Qua hồi ký Chiều chiều của Tô Hoài còn thấy đoạn đời đó của thi sĩ có “tửu sắc vẹn toàn” bên thú vui văn hữu. Lê Thiết Cương kể về người thầy hội họa của mình: “Nhà thơ chỉ ngồi đúng chỗ đó, không bàn ghế, chiếu trải trên sàn nhà. Xung quanh ngổn ngang các loại chai, vò bằng thủy tinh cao, thấp, to, bé, đầy vơi khác nhau nhưng bên trong đều là rượu trắng.” Vâng, quanh vuông chiếu có được nhờ “lộc” của người con thành danh, người cha đã tụ tập những vị đầy “tai tiếng” như Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt… Những vị “tai tiếng” in ít hơn như Dương Tường, Phan Đan… rồi Thái Bá Vân, Trọng Kiệm… Và cả các văn nhân “tai to mặt lớn” như Tô Hoài, Huy Du, Trọng Bằng… Cả một khối vàng ròng ngàn năm văn vật quây bên chiếu thơ Đặng Đình Hưng! Xưa nay hỏi có mấy ai?

Một câu thơ rất tân kỳ, bạt mạng kiểu Âu châu mà cũng rất bình dân, chân chỉ Việt Nam của Đặng Đình Hưng:

Tôi đi xa ra phố nửa giờ

Tìm một cái ao ngồi giặt áo cả ngày…”

Nghịch lý đến mức giản đơn. Không thơ-ca chút nào mà thơ-ngây tột cùng. Nhưng, ngay với những người không sính thơ, có lẽ cũng cảm thấy ở hai câu thơ có gì hay hay và… tội nghiệp?

Thiển ý, chúng tôi thấy đó như một tín hiệu nghệ thuật chân xác nói lên tư chất Đặng Đình Hưng, và cũng như của các văn hữu Nhân văn Giai phẩm: Họ chỉ phản biện về sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ, đòi hỏi “trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ” – những người thích “đi xa ra phố nửa giờ/ Tìm một cái ao ngồi giặt áo cả ngày”! Chứ làm gì đến nỗi “lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động”, “đòi văn nghệ trở về chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy”, như bao lời hơn nửa thế kỷ trước từng buộc tội.

Đặng Đình Hưng, thi sĩ ở chốn bến lạ hãy yên lòng! Ông không là một Thi Sơn cô đơn với độc giả thơ ca tiếng Việt…

————-

(*) Đây là bản thảo được làm cho một chương trình phát thanh về văn hóa và du lịch của người Việt ở Mỹ, theo nhiều nguồn tài liệu khác nhau từ năm 2009 và tu chỉnh nhân dịp “Đêm nhạc – thơ Bến Lạ” 13/4/2013, Trung tâm Văn hóa Pháp – L’Espace tại Hà Nội.

(**) Theo Lê Hoài Nguyên (http://vanviet.info/nghien-cuu/vu-nhan-van-giai-pham-mot-trao-luu-dan-chu-mot-cuoc-cach-tan-van-hoc-khong-thanh/), “Số người gọi là tham gia NVGP tại Hà Nội do Bộ Công an và Công an Hà Nội quản lí do tác giả thống kê được gồm khoảng 170 người. Số bị xử lí nặng khoảng gần 100 người, còn số bị đưa vào danh sách để phân lọai xử lí tính trên toàn miền Bắc ở tất cả các lĩnh vực phải tới hàng ngàn người” – Văn Việt.

 Bản gửi Văn Việt 15/7/2014 đã được xem lại. (Đỗ Quyên)

 

Tác giả gửi Văn Việt.

[Theo Lê Hoài Nguyên (http://vanviet.info/nghien-cuu/vu-nhan-van-giai-pham-mot-trao-luu-dan-chu-mot-cuoc-cach-tan-van-hoc-khong-thanh/), “Số người gọi là tham gia NVGP tại Hà Nội do Bộ Công an và Công an Hà Nội quản lí do tác giả thống kê được gồm khoảng 170 người. Số bị xử lí nặng khoảng gần 100 người, còn số bị đưa vào danh sách để phân lọai xử lí tính trên toàn miền Bắc ở tất cả các lĩnh vực phải tới hàng ngàn người” – Văn Việt]

Comments are closed.