Khế Iêm
ELEMENTS (FOR CLAIRE)
With the sea tumbling over rocks,
and a certain wildness in the seagull’s call,
I am brought to mind of the swell
and of the pitch and yaw of the boat
as the seawind teased its fingers into your hair.
This is in that certain world
where the waves at high tide wash over sand banks,
cutting an island into two or three.
Yours is the spark of fire the sea won’t wash,
for fear of drowning it forever,
even as it longs to;
please do not depart for forever
without a backward glance at the world,
and at the elements that form its bays.
NHỮNG THÀNH TỐ (DÀNH GỬI CLAIRE)
Với biển cả xô nước tung tóe lên các tảng đá,
với chút niềm mông quạnh trong tiếng kêu của loài mòng biển,
tôi hồi tưởng đợt sóng biển ngầm
và con thuyền nhấp nhô trồi hụp đi lạc hướng
khi gió biển đùa cợt lùa những ngón tay của nó vào mái tóc em.
Chính trong thế giới đáng tin cậy đó
nơi sóng biển lúc triều cường tràn ngập những bãi cát bờ biển,
chia cắt một hải đảo thành hai hoặc ba.
Thế giới của em là tia lửa mà biển cả sẽ không cuốn trôi đi,
vì e sẽ nhấn chìm nó mãi mãi,
ngay cả khi nó muốn thế;
xin đừng ra đi một lần cho mãi mãi
mà không một lần ngoái nhìn thế giới ấy,
cùng những thành tố đã định hình những vịnh của nó.
GENIUS LOCI
When we were wandering
through the fernery, as the rain
dripped from the leaves in the atrium,
did you notice, perchance,
that under the leaves of one
that hovered like a held breath
over the rocks in the pond,
there was a frog, almost not breathing?
It was a native frog,
if I recall correctly,
one not exactly rare
but of a diminished range,
and its eyes were wells of black light
that held us in their depths.
THỔ THẦN
Khi chúng ta dạo bước thơ thẩn
qua khu trồng dương xỉ, mưa
nhỏ giọt từ những chiếc lá nơi sân giữa
em có lưu ý chăng, tình cờ thôi,
rằng dưới những chiếc lá của một cây dương xỉ
treo lửng như một hơi thở cầm nín
phía trên những phiến đá trong ao,
có một con ếch, hầu như nín thở?
Đó là một con ếch bản địa,
nếu tôi nhớ không lầm,
một loài không hẳn hiếm
nhưng đang dần biến mất,
và mắt nó là hai giếng nước đầy ánh sáng đen tuyền
cầm giữ chúng ta trong những vùng sâu thẳm của giếng khơi.
THREE QUATRAINS FOR CLARE
When the boat heads out to the Hole in the Rock,
and the westering swell from the Pacific
(when it is rising) strikes the boat like a blow,
are you likely to be up and out, laughing?
I would love to be there with you, at the prow,
facing the glass-sharp swell with its biting breeze
with you, at the prow, laughing with you, knowing
that, with you beside me, I am not afraid.
And the spray shall rise up and strike at us then,
and, though I shall become sodden, even cold,
through the action of the water, I shall be
glad I am beside you and sharing your world.
BA TỨ THƠ CHO CLARE
Khi con tàu hướng tới The Hole in the Rock,
và con sóng nhồi hướng Tây từ Thái Bình Dương
(nổi lên) đánh vào con tàu như cú đấm,
em có thích lên xuống giống như con sóng nhồi, cười?
Anh thích được ở đó với em, trên mũi tàu,
đối mặt với con sóng sắc gây sự bất an
cho em, ở mũi tài, cười với em, biết
rằng, có em bên cạnh, anh không sợ.
Và bụi nước sẽ nổi lên và bắn vào chúng ta rồi,
và, dù rằng anh có bị ướt sũng, ngay cả lạnh,
qua tác động của nước, anh sẽ
sung sướng được bên em, chia sẻ thế giới của em.
THE BAY OF ISLANDS
Start these lines with the seagulls calling
over the waters where dolphins turn
their sleek backs under the choppy backs
of tides that turn, tugged by the high moon
into shape between the islands, then
think of the green water as like glass
made animate, with the force of ocean
and wind behind it, breaking over
rock platforms, leading to grass and trees,
and here and there a house settled down
under the skylines, where winter rain
sleeps over the saddles of stone, green
with grass and trees, and there to the north
the treaty place: I shall remember you,
O Bay, and the way you breathe, loosing
me like the light in Clare’s eyes and laugh.
VỊNH CỦA NHỮNG HẢI ĐẢO
Bắt đầu dòng thơ này với những con chim hải âu đang
kêu trên mặt nước nơi những con cá heo xoay
cái lưng bóng nhẫy của chúng dưới lưng
sóng bập bềnh, lên xuống, kéo mạnh bởi con trăng lên cao
về hướng vị trí giữa những hải đảo, rồi thì
hãy nghĩ tới giòng nước xanh giống như chiếc ly
trở nên sinh động, với lực của đại dương
và gió đằng sau nó, đang vỡ trên
thềm đá, dẫn tới bãi cỏ và cây cối,
và đó đây một ngôi nhà nằm thỏai mái
dưới đường chân trời, nơi mưa đông
qua đêm trên những lưng đá, xanh rì
cỏ và cây, và từ đó tới phía bắc
nơi giao ước: Tôi sẽ nhớ em,
Ồ Vịnh, và cái cách em thở, đang giải thóat
tôi như ánh sáng trong đôi mắt Clare và cười.
THUNDER (FOR CLARE)
The clouds grumble: it seems they do not know
you well enough. I can’t blame them at all,
but when contented all of the clouds pall,
become fluffier. Something like that, though
other people speak differently. Go
ask them if you don’t believe me, or call
on them when they’re happier. If it all
helps, so much the better. And say hello.
They won’t bite you (though they might nibble … well …
a tiny bit…) there’s no harm in trying
to get to know them. It’s not like dying
on stage, or corpsing as Ophelia,
being rude to someone unseely, a
problem only if you believe in Hell.
* Phillip A. Ellis is a freelance critic and scholar, and has recently completed English Honours through the University of New England.
TIẾNG SẤM (CHO CLARE)
Những đám mây rền vang: hình như chúng không biết
em rõ. Tôi không thể trách cứ gì chúng,
nhưng, khi được tọai ý, tất cả đám mây trở nên
nhàm chán, xốp nhẹ hơn. Đại khái là vậy, dẫu rằng
những người khác nói một cách khác. Đi
hỏi họ nếu em không tin tôi hoặc
ghé thăm nếu họ hạnh phúc hơn. Nếu tất cả
đều có ích, ngay cả tốt hơn. Và hãy nói lời chào.
Chúng sẽ không cắn em (mặc dù có thể gậm nhấm… hết…
một miếng nhỏ… ) không có gì hại trong lúc cố
để biết chúng. Không giống như đang chết
trên sân khấu, hoặc diễn cương như trong vai Ophelia,
thô lỗ với kẻ hiểm ác nào đó, chỉ
là vấn đề nếu em tin vào địa ngục.
* Phillip A. Ellis là một nhà phê bình và học giả tự do. Gần đây đã hoàn thành Danh dự Tiếng Anh thông qua Đại học NewEngland.
*Chú thích
corpsing: là một thuật ngữ kịch nghệ, diễn không đúng với vai diễn, thường cười trong khi diễn. Việt nam có từ “diễn cương” không biết có đúng không?
unseely: là những nhân vật phản diện trong những truyện cổ tích của những đảo quốc Anh, có nghĩa là hiểm ác và có thiên hướng làm hại con người.
Ophelia, nhân vật trong vở kịch Hamlet của Shakerspear. They won’t bite you (though they might nibble… well… a tiny bit…): Theo tác giả, trong cách nói thông thường ở Úc, khi bạn giới thiệu ai, và bạn muốn nhấn mạnh là họ rất dễ chịu (easy-going), thì nói” Đây là ai-đó: họ không cắn…” và bạn thường nghe câu nói đùa bỡn, “Đây là ai-đó: họ không cắn nhưng họ có thể gậm nhấm…” trong bài, có ý là, “Đừng lo lắng, chúng sẽ không hại em đâu.”
Trong cách nói như vậy, “tiếng sấm” cũng chỉ là những đám mây, và những đám mây được nhân cách hóa, là những ai-đó (so-and-so’s) chăng?