Văn Hải ngoại sau 1975 (218): Mùa biển động (kỳ 19)

Tiểu thuyết của Nguyễn Mộng Giác

Image result for "Mùa biển động"

MÙA BIỂN ĐỘNG TẬP 2: BÃO NỔI

Chương 36

Ngữ hào hứng hứa sẽ vào Lăng cô tìm Ngô cho Diễm, mà quên mất một điều quan trọng: Ngữ sẽ đi bằng phương tiện gì đây?

Từ lúc Huế gần như bị phong tỏa, các chuyến xe đò Đà nẵng – Huế đã ngưng hoạt động. Thiên hạ xao xác chạy đi lo mua trữ lương thực và đồ ăn khô, không ai còn tâm trí đâu lo chuyện buôn bán, di chuyển. Chiếc Honda 90 của Lãng không còn để ở nhà. Không ai biết nó ở đâu! Hoặc Lãng đã vào Lăng cô bằng xe Honda chứ không đi theo xe Dodge-4 Tiểu khu như các thanh niên quyết tử khác, hoặc Lãng đã giao chiếc xe đó cho những liên lạc viên thay thế mình tại Viện Đại học. Lãng và Ngô từ biệt ông Văn ra đi, ông bối rối không biết xử trí thế nào, nên ngăn họ hay nên khuyến khích cổ võ họ, cho nên hai người đi bằng phương tiện gì, ông nằm trong phòng không hề biết!

Ngữ chạy quanh một ngày tìm phương tiện đi Lăng cô không được, tìm gặp Tường để hỏi xem những chiếc Dodge-4 Tiểu khu cho mượn để chở thanh niên quyết tử có thể cho Ngữ quá giang không. Tường nghe Ngữ đòi đi Lăng cô, mừng rỡ nói:

– Mày vào trong đó hả? Hoan hô! Ít ra mày cũng phải chứng tỏ là. .. chứng tỏ là…

Tường không tìm được một chữ thích hợp, vì nếu dùng các chữ kêu quá, Tường biết Ngữ sẽ không hãnh diện mà chỉ khó chịu. Ngữ không chờ bạn nói hết câu, vội vã hỏi:

– Có chuyến xe nào đi Lăng cô không?

Tường chợt nhớ thực tế, nét vui mừng biến mất. Tường do dự, rồi một lúc sau phải nói thật với Ngữ:

– Tiểu khu họ rút xe về hết rồi. Tụi tao phải dùng xe gắn máy để thông tin và tiếp tế cho các toán xa. Kẹt nhất là những toán rải đi quá rộng, như Lăng cô chẳng hạn.

Thấy Ngữ thất vọng, Tường nói thêm:

– Để mai tao tìm cách xoay phương tiện cho mày. Bữa nay thì chịu. Mày ở lại đây làm việc với tụi tao không?

Ngữ thấy Tường thấp thỏm như muốn mau mau chấm dứt câu chuyện với bạn để còn lo việc khác,nên đáp:

-Thôi để sáng mai tao trở lại. Nếu không đi được, sẽ ở lại hoạt động với tụi mày luôn.

Tường thở phào nói:

– Thế cũng tiện. Tình hình gay go, tao cần những người thật tin cẩn giúp đỡ.

Ngữ chia tay Tường ra về. Chạy lăng quăng suốt ngày nên chàng mệt nhoài, tắm rửa xong ăn vài bát cơm là nằm lăn ra ngủ. Giấc ngủ chập chờn. Ngữ chỉ thức dậy khi bà Văn đập vai lay chàng.Chàng nghe mẹ bảo:

– Ngữ! Ngữ! Dậy giúp má một tay. Trời ơi! Chộn rộn thế này mà ngủ được!

Ngữ dụi mắt ngồi dậy, thấy trong phòng còn có cả Quế.

Ngữ hỏi:

– Chuyện gì vậy má?

Bà Văn đưa mắt liếc về phía phòng ông Văn có vẻ lo ngại. Giọng bà thấp xuống, gần như thì thào:

– Dậy khiêng giùm với má cái bàn thờ.

Ngữ không hiểu, hỏi lại:

– Khiêng bàn thờ à? Dời đi đâu?

Quế chen vào giải thích:

– Hàng xóm họ đem cả bàn thờ Phật bày trước đường. Nhà mình không đem ra, sợ họ nói.

Ngữ ngơ ngác chẳng hiểu gì cả, hỏi Quế:

– Ðem bàn thờ Phật ra đường làm gì?

Quế bắt đầu sốt ruột, giọng mất bình tĩnh:

– Em đâu biết! Nghe nói lệnh của chùa. Nghe nói… nghe nói các thầy bảo quân Sài gờn muốn tiêu diệt đạo Phật, thì cứ đem bàn thờ Phật đặt sẵn ngoài đường cho họ phá.

Ngữ ngạc nhiên, trí óc càng hoang mang hơn. Chàng ngờ rằng mình chưa tỉnh ngủ hẳn, nên nói với mẹ:

– Má để con đi rửa mặt đã!

Bà Văn mừng rỡ tưởng con bằng lòng, nên căn dặn:

– Con đi rón rén đừng làm rộn ba. Tao với ba mày vừa cãi nhau về chuyện đem bàn thờ ra đường đấy. Ổng biết lại phiền!

Ngữ xuống bếp rửa mặt. Quế và mẹ chàng vẫn còn ngồi đợi trong phòng. Rửa mặt xong, chàng đì thẳng ra phòng trước hé cửa nhìn hai bên phố. Quả nhiên đúng như lời mẹ chàng nói, hàng xóm đã mang bàn thờ Phật đặt ngay khoảng đường trước mặt nhà. Trên bàn thờ nào cũng đầy đủ lư hương, đèn cầy, tượng hoặc ảnh Đức Phật, dĩa hoa quả. Nhiều bà cụ đang xì xụp lạy Phật một cách thành kính.

Hình ảnh cả một dãy phố dài đầy bàn thờ Phật lần đầu tiên Ngữ thấy đập mạnh vào mắt chàng. Ngữ không tin được, cảm giác ngầy ngật bập bềnh như sống trong mơ.

Chàng khép cửa, vội trở về phòng. Bà Văn hỏi:

– Ðã tỉnh ngủ chưa? Ba mày có còn ở phòng trước nữa không?

Ngữ chỉ đáp câu hỏi sau:

– Dạ không. Con không thấy ba ngoài đó.

Quế nói:

– Em với má thử khiêng cái bàn thờ, nhưng nặng quá nhấc không nổi. Anh chịu một đầu, má với em một đầu, chắc được.

Ngữ nghiêm mặt hỏi mẹ:

– Sao lại có chuyện kỳ quặc vậy?

Bà Văn cau mày than:

– Nữa! Mày lại giở y cái giọng của ba mày. Kỳ quặc hay không không cần biết. Người ta làm gì, mình làm nấy. Loạn lạc đến nơi rồi, không khiêng bàn thờ ra, họ thù, khổ lắm.

Ngữ cãi:

– Nhưng làm gì cũng phải có cái lý của nó chứ!

Quế phụng phịu nói lẩy với bà Văn:

– Ảnh không chịu khiêng thì con với má rán khiêng vậy!

Ngữ quắc mắt lườm Quế, rồi nói với bà Văn:

– Má muốn khiêng thì khiêng. Nhưng ai ra cái lệnh này?

Bà Văn gắt gỏng:

– Con Quế đã nói rồi. Trên chùa.

– Nhưng nhà mình có qui y chùa nào đâu. Với lại làm gì có bàn thờ Phật?

Bà Văn mất bình tĩnh hơn trước:

– Cứ khiêng bàn thờ ông bà ra cho giống người ta. Lại cãi!

Quế nói:

– Đem cái ảnh Phật của chị Nam ra cũng được.

Có tiếng động trong phòng ông Văn. Bà Văn im lặng lắng nghe, nét mặt lo lắng. Bà thì thào bảo Ngữ:

– Mày có khiêng không thì bảo?

Ngữ đáp:

– Được. Tùy ý má.

Đồ thờ trên bàn thờ ở phòng dưới đã được bê hết xuống đặt trên nền nhà. Cái bàn gỗ lim nặng nề có chạm khắc công phu nằm lệch xa một chút khỏi vách, do hai mẹ con Quế cố gắng mà không xê xích được nhiều. Ngữ phụ một tay, chịu cả một bên, bà Văn và Quế khiêng bên kia. Tuy vậy ba người vẫn ì ạch lắm mới nhích cái bàn thờ ra từng chút một. Lúc họ khiêng được khỏi cửa trước, ông Văn từ trong phòng riêng đi ra. Ông nhìn cảnh ba người khó nhọc, buồn rầu lắc đầu không nói gì. Cũng không làm gì. Mọi sự vượt qua sức mạnh của thân xác lẫn tinh thần của ông. Ông bất lực!

***

Tối hôm ấy ở cửa hiệu radio Thanh Tuyến cũng diễn ra những chuyện tương tự. Trên lề đường Trần Hưng Ðạo, những bàn thờ Phật đầy đủ hoa quả hương nến bày dài giống y một phiên chợ Tết ở thôn quê. Nhiều bà cụ già mặc áo thâm ra ngồi cả ngoài đường tụng kinh.

Bà Thanh Tuyến, Quỳnh Trang, Quỳnh Như ngồi xúm quanh quầy thu ngân xì xầm bàn luận. Họ đã qua khỏi giai đoạn “nên hay không nên” đem bàn thờ Phật ra đường. Hiện họ lo giải quyết một trở ngại lớn lao: bàn thờ Phật ở nhà này đã được đóng dính vào vách gỗ ở phòng khách như một cái kệ mỹ thuật để chưng bày pho tượng Phật bằng ngọc quí, nên không có cách nào tách ra và bê xuống đường phố được.

Bà Thanh Tuyến lo quá, gương mặt vốn hốc hác vì lo cho tương lai, lo cho Tường, lo bị chính quyền Sài gòn trừng phạt vì các hoạt động lâu nay của Tường, lo cảnh cướp bóc nếu có loạn lạc, bây giờ lại càng hốc hác hơn. Giọng bà yếu ớt lạc hẳn đi:

– Cách nào cũng phải có bàn thờ Phật với người ta. Không có không được.

Quỳnh Như nói:

– Có anh Tường mà sợ gì hở me! Mình chỉ cần bảo là không gỡ bàn thờ ra được!

Bà Thanh Tuyến nói:

– Bên Cứu quốc khác, bên nhà chùa khác. Hai cửa hiệu bên cạnh mình họ bắt đầu xì xầm dòm ngó rồi đó.

Quỳnh Trang chỉ cái bàn gỗ vẫn dùng để bày hai cặp loa Nhật, hỏi mẹ:

– Hay mình dùng cái bàn này?

Bà Thanh Tuyến lắc đầu:

– Cao quá, không ra bàn thờ. Bày bàn thờ mà nhếch nhác quá, càng bị người ta nói.

Quỳnh Như đề nghị:

– Mình phủ tấm khăn bàn lên, được không me?

Bà Thanh Tuyến suy nghĩ một lúc, rồi đáp:

– Ừ, cũng được. Nhưng phải tìm cái bàn chân thấp hơn.

Quỳnh Như vỗ tay, giọng reo mừng:

– Thì lấy cái bàn nhỏ con vẫn dùng để đặt cái đèn ngủ. Phải đấy! Cái bàn đó vừa gọn vừa thấp. Mang lư hương, hai cái cắm nến, tượng Phật xuống nữa, là chu!

Quỳnh Trang lo lắng:

– Đem cái tượng ngọc xuống, sợ…

Bà Thanh Tuyến cắt lời con:

– Có mất cũng được. Miễn cho qua lúc loạn lạc này. Me không còn thiết gì nữa. Cầu Trời Phật cho gia đình ta yên ổn!

***

Trên con đường chạy dọc theo bên này bờ sông An cựu, từ dốc chùa Từ đàm cho tới xóm ga, nhà nào cũng đem bày bàn thờ Phật ra giữa đường. Các bàn thờ Phật không bày sát trước cửa nhà để chừa trống lối đi lại, mà đặt chéo lẫn nhau, bàn thờ này bày dọc bên lề đường bên trái thì bàn thờ tiếp theo bày ở bên phải, lộ rõ chủ ý ngăn chặn không cho xe cộ đi lại. Đã thế, từng nhóm đông Phật tử lũ lượt đi lạy hết bàn thờ này tới bàn thờ khác, nên có muốn cưỡi xe đạp đi ngang qua đó cũng không được. Người lẹ tay nhanh mắt đến mấy cũng có thể tông phải hoặc người đang xì xụp lạy Phật, hoặc làm đổ bàn thờ. Thật tai họa chết người! Cho nên ai cũng khôn ngoan dắt xe đi bộ, nét mặt cung kính buồn rầu để chia sẻ cái tang chung của Phật tử. Duy chỉ có khoảng đường trước nhà ông Bỗng là trống trơn một cách kỳ dị, khác thường.

Ông Bỗng dứt khoát không cho phép bà Bỗng và Diễm được đem bàn thờ ra đường.

Bà Bỗng mới e dè nói vài câu về cách sống khôn ngoan trong buổi loạn lạc, ông Bỗng đã nổi nóng quát tháo ầm ĩ. Nhiều câu thật hỗn đối với các nhà sư. Bà Bỗng sợ quá, nín khe, cho ông khỏi nói thêm điều gì nữa. Ông quay sang chửi Diễm vì cái tội không tìm Ngô về cho ông. Diễm thút thít khóc, chịu đựng. Ðể tránh sự dòm ngó khó chịu của người qua đường, bà Bỗng bảo Diễm đóng cửa trước lại. Mỗi người tìm một góc ngồi thu mình gặm nhấm nỗi tức giận hoặc sợ hãi của mình.

Họ đi ngủ sớm, nhưng không ai ngủ được. Tiếng bước chân đi lại bên kia vách, tiếng xì xào nói chuyện, tiếng tụng kinh, tiếng mõ tiếng chuông vang thật rõ trong đêm, giống y như cả khu nhà ven sông đang dự lễ cầu siêu cho một cái chết tập thể. Diễm nghe rõ cả những lời bàn tán về gia đình mình. Có người nói:

– Nhà này chắc theo Công giáo!

Có người am tường hơn:

– Thằng cha này bướng lắm. Lâu nay vẫn thậm thà thậm thụt với tụi Phủ cam!

Diễm nín thở lo ngại, không biết cả cha mẹ mình có nghe những lời dị nghị ấy không. Có lẽ hai người đều có nghe, vì bên giường mẹ, Diễm nghe tiếng nang giường trăn trở, và lâu lâu nàng nghe cả lời lầm bầm của cha.

Sáng hôm sau, Diễm dậy sớm ra hé cửa nhìn thử ra đường. Bên ngoài, người đi lại thưa thớt hơn buổi tối. Các bàn thờ Phật vẫn còn đó, tuy hai bàn thờ ở trong tầm nhìn của Diễm đã tắt hết đèn và hương đã lụn. Thấy vắng người, Diễm bạo dạn ra hẳn ngoài đường. Nàng mở mắt thật lớn, tưởng mình trông lầm: đêm qua ai đó đã vạch một chữ thập chéo bằng than lên tường phía trước căn nhà Diễm. Gia đình ông bà Bỗng đã bị đánh dấu, vì đi ngược dòng.

***

Không chịu đựng được sự mù mờ khó hiểu nên ngay đêm đó, sau khi phụ với mẹ và em khiêng bàn thờ ra đường Chi lăng, Ngữ lấy xe đạp đi tìm Tường. Bà Văn lo ngại hỏi con:

– Giờ này còn đi đâu đấy?

Ngữ trấn an mẹ bằng cách nói dối:

– Con chỉ đi mua bao thuốc lá, rồi về.

Chàng dắt xe đi qua những phố bàn thờ Phật bày ngổn ngang, từ khu Gia hội cho đến phố Trần Hưng Đạo. Ðến cầu Trường tiền Ngữ mới lên yên đạp xe bình thường được. Tìm mãi, chàng mới gặp Tường ở khu Ðại học Sư phạm.

Chưa kịp hỏi, Tường đã hỏi Ngữ trước:

– Mày thấy sức mạnh của quần chúng chưa? Chỉ cần hô lên một tiếng, bà con Phật tử đã nhất loạt đưa bàn thờ Phật xuống đường.

Ngữ thấy chung quanh Tường có nhiều thanh niên lạ, nên không tiện nói nhiều. Chàng bảo:

– Mày giải quyết cho xong công chuyện đi.

Tường vui vẻ đáp:

– Ðược. Tụi tao đang bận một chút. Mày có việc gì cần không?

Ngữ do dự chưa nói gì, Tường đã tiếp:

– Vẫn chưa có xe cho mày vào Lăng cô. Mày nóng ruột phải không. Tụi tao chưa bắt được liên lạc với trong đó.

Ngữ nói:

– Thôi tao ra ngoài kia một chút. Mày họp tiếp đi.

Tường quay lại đám bạn bè, không chút khách sáo. Ngữ bỏ ra xa, không muốn những người chàng chưa quen cảm thấy khó chịu vì sự có mặt của mình.

Nửa giờ sau, mọi người lục tục đi ra, ai cũng có vẻ hấp tấp. Tường ra sau cùng. Ngữ hỏi ngay:

– Sao lại có vụ đưa bàn thờ ra đường kỳ cục vậy?

Tường cười lớn, hỏi lại:

– Mày thấy kỳ cục à? Vì mày không phải là Phật tử.

Ngữ cãi lại:

– Mày cũng không phải Phật tử.

– Vâng. Tao cũng thấy biện pháp trên chùa đưa ra là kỳ cục, nhưng đúng lúc. Và rất hợp với tâm lý quần chúng, lại tác động mạnh tới dư luận thế giới. Bây giờ tao mới thấy mình lầm lẫn, đánh giá sai phương thức đấu tranh bất bạo động của Phật giáo. Mấy ngày trước đây, Nam cho tao biết sắp có một vụ tự thiêu. Tao nói với Nam làm như thế vô ích. Bây giờ không phải là lúc tự tử để cho người ta xuýt xoa thương xót. Bây giờ là lúc phải cầm súng. Nhưng tao đã lầm. Johnson làm ngơ trước mọi lời phản đối công kích của anh em sinh viên, của cả thượng tọa Trí Quang. Nhưng vụ tự thiêu của một ni cô vô danh buộc lão phải lên tiếng. Rồi một loạt bảy tám vụ tự thiêu khác xảy ra khắp nơi làm chấn động dư luận. Người ta phải thắc mắc đặt câu hỏi như đã từng hỏi thời hòa thượng Thích Quảng Ðức tự thiêu ở trước tòa đại sứ Cam Bốt tại Sàigòn, là chính thể Sài gòn thật sự phải cư xử tàn nhẫn với Phật giáo đến một mức nào đó mới khiến Phật tử phẩn uất đến mức liều thân như vậy. Câu hỏi đó đã quật ngã chế độ Ngô Đình Diệm. Bây giờ, chúng ta cũng cần tạo cho dư luận Mỹ những thắc mắc tương tự.

Ngữ bực tức hỏi:

– Vì vậy nên mới đưa bàn thờ Phật xuống đường?

Tường quả quyết đáp:

– Đúng. Vì vậy anh em mới họp để vận động tất cả học sinh sinh viên chia nhau đi lạy ở các bàn thờ Phật. Mày thấy không, nhiều Phật tử vừa lạy vừa khóc. Tao đã nghe một bà cụ vừa thút thít vừa kêu lên: “Mô Phật! Chúng nó tàn ác quá. Đến nỗi Đức Phật phải dầm sương dãi gió thế này!” Đấy, mày thấy không? Sự bất nhẫn thiêng liêng đó sẽ ngăn được mọi toan tính của bọn tướng tá Sài gòn. Mày tin tao đi! Bây giờ mày rảnh không?

– Ðể làm gì?

– Ði lạy bàn thờ Phật với tụi tao.

Ngữ muốn từ chối phắt, nhưng thấy bạn hăng hái quá, chỉ nói tránh bằng cách hỏi:

– Nam nó có bên đài không?

Tường hơi khựng lại, nhưng cũng đáp:

– Chắc có bên đó. Có việc gì thế?

Ngữ phải đặt điều nói dối lần nữa:

– Má tao bảo đưa cho nó ít tiền.

Tường tưởng thật, vui vẻ nói:

– “Bà bô” tiến bộ dữ. Thôi, mày qua đó đi!

Chương 37

Nếu mấy hôm trước Ngữ cố tìm được phương tiện để vào Lăng cô thì chàng cũng không thể tìm được Ngô và Lãng.

Lý do đơn giản là toán thanh niên quyết tử do Ngô cầm đầu không vào được tới đó!

Hôm ấy, Ủy ban Tranh đấu đã dùng chiếc Dodge 4 của Tiểu khu để đi rải quân. Toán đầu tiên nằm ở Dạ lê. Toán thứ nhì ở vùng phi trường Phú bài có nhiệm vụ canh chừng hoạt động của phi trường. Theo kế hoạch phòng thủ Huế thì toán này phải liên lạc gấp với bộ chỉ huy đặt tại Viện Đại học trong trường hợp thấy rõ là quân đại tá Loan đã được không vận đến phi trường Phú bài để từ đó làm bàn đạp tấn công Huế. Làm cách nào để từ ngoài vòng rào phi trường quan sát được động tịnh bên trong, không ai cần đặt câu hỏi về chuyện đó. Còn việc liên lạc với Bộ Chỉ huy, thì toán này được hứa là sẽ cung cấp ngay ngày hôm ấy một máy liên lạc PRC-25, bằng chuyên chở quân thứ hai của chiếc Dodge 4 cũ kỹ ì ạch này. Máy PRC-25 ấy không bao giờ đến.

Toán cuối cùng gồm toàn những cảm tử quân mạnh khỏe, quyết tâm chết vì Ðạo pháp và Dân tộc, nên được xem là toán xung kích tiền phương. Chốt bảo vệ cho Đạo pháp và Dân tộc nằm sâu nhất, tận Lăng cô.

Dĩ nhiên không có một kế hoạch gia quân sự nào dại dột tin rằng chỉ cần ba toán thanh niên quyết tử ấy đã đủ để kiểm soát một vùng đất dài chạy dọc ven biển từ đèo Hải vân cho tới cái rún của cách mạng là Huế. Đời nay làm gì có những cậu Phù đổng làng Gióng! Ba toán đó chỉ là những toán tiên phong đi quan sát địa hình, ổn định vị trí để ngay sau đó, Bộ Chỉ huy sẽ gửi thêm các đơn vị chủ lực quyết tử đến tăng cường.

Bộ Chỉ huy hành quân chấp nhận ý kiến của Tường là mặc dù nhiệm vụ phòng thủ vẫn ở quân nhân thuộc Sư đoàn 1 và Tiểu khu Thừa thiên, nhưng giống như bộ đội cộng sản có khung đảng viên ở mọi cấp đơn vị làm bộ óc, làm xương sống, thì lực lượng tranh đấu cũng có cái khung là các sinh viên học sinh quyết tử. Đạo quân đông đảo từng làm cho cả Pháp lẫn Mỹ khốn đốn của Hà nội ban đầu chỉ có cái khung vài chục người ô hợp, do một cậu nhà giáo đội mũ phớt chỉ huy. Bây giờ với cái khung ba mươi người quyết tử cho một dải đất hẹp, Tường nghĩ như thế quá đủ.

Nhưng bộ chỉ huy Đoàn Thanh niên Quyết tử, Ủy ban Tranh đấu không nghĩ tới những điều ngẫu nhiên, những chuyện bất ngờ. Chẳng hạn kế hoạch không nghĩ tới chuyện chiếc Dodge 4 Tiểu khu cho lực lượng tranh đấu Huế mượn bị hư hệ thống điện, đầu máy bị chảy và xi-lanh máy rỗ lỗ chỗ. Sau khi rải được toán quyết tử ở Phú bài, anh hạ sĩ tài xế đề máy cho xe nổ để chở toán của Ngô vào Lăng cô. Máy không nổ. Lật ca-bô lên kiểm soát các hệ thống dây điện một lúc, đề lại, máy thở khờ khè một chút, lại tắt. Anh tài xế nhờ mười anh chàng quyết tử đẩy chiếc Dodge 4 một đoạn dài, xe mới nổ máy. Lại lên đường. Chiếc xe chạy êm một đoạn đường ngắn, sau đó bắt đầu có dấu hiệu bất thường. Đang chạy, tự nhiên rùng mình một cái, chùn chân, lại chạy tiếp. Lê lếch khi êm khi không như thế cho đến Truồi thì xe chết máy hẳn.

Chốt tiền phương của Ngô và Lãng thay vì thọc sâu tận chân đèo Hải vân, lại phải “rút lui chiến thuật” về tận Truồi.

***

Ờ mà thôi! Truồi thì Truồi! Ở đâu cũng là quê hương cần bảo vệ, ở đâu cũng đánh “giặc” được!

Cả toán cùng nhau đi quan sát địa hình, tìm một cao điểm để dễ quan sát và lập công sự. Trong mười người, chỉ có Lãng là người duy nhất có kinh nghiệm chiến trường. Ai cũng biết điều đó, kể cả Ngô, nên nhất nhất mọi điều, Lãng đều chỉ dẫn và quyết định hết. Lãng chọn một mô đất cao gần quốc lộ để đóng chốt, và bảo mọi người phải đào hố cá nhân.

Phiền đây! Chưa chạm mặt với quân thù mà đã lo đào hố để núp, nghe không ổn tí nào! Lại có vẻ hèn nhát nữa! Nhưng vì không ai có thẩm quyền hơn Lãng về kinh nghiệm chiến đấu bằng súng đạn, nên cả toán phải đào công sự vậy. Dù vừa đào vừa thở dài ngao ngán.

Chỗ đóng chốt Lãng chọn lại ở hơi xa xóm dân cư, nên họ phải chia nhau dùng hai cái xẻng cá nhân cán ngắn. Hì hục mãi suốt buổi chiều, họ mới đào xong. Ai nấy đói tới cồn cào. Anh hạ sĩ tài xế lóng ngóng tìm xe quá giang về Huế để đem đồ nghề xuống sửa cái Dodge 4, nên không ăn bánh mì khô với toán quyết tử. Anh ta lần xuống xóm nhà dân, và không thấy trở lại nữa. Chiếc Dodge 4 nằm bên vệ đường cách chỗ đóng chốt của toán quyết tử không xa.

Họ nằm ở đó suốt đêm, suốt ngày hôm sau, rồi ngày hôm sau nũa, để chờ các toán chủ lực tới bổ sung. Không có ai tới cả. Cũng không bắt liên lạc gì được với Huế. Chán nản, họ bỏ những công sự chật hẹp ra ngồi trên chiếc Dodge nói chuyện gẫu. Mỗi người có một cuộc đời riêng lần đầu tụ họp nhau ở chỗ vắng vẻ này nên những mẩu chuyện thật hay bịa họ kể cho nhau nghe đều trở nên mới tinh. Hầu hết là chuyện tiếu lâm hoặc chuyện yêu đương ăn nằm với gái. Lãng tuy ít tuổi nhưng lại là người sành cả chuyện đánh đấm lẫn chuyện ăn chơi nên trở thành ngôi sao sáng. Mọi người há hốc miệng để nghe Lãng kể các chiến tích đã lập, những trò chơi bời ở Đà nẵng, những trận thanh toán lừa lọc nhau giữa các băng du đãng chợ Cồn…

Ngô ăn nói vụng về nên không hào hứng góp vui, bỏ toán ngồi dựa vào bánh xe sau chiếc Dodge dùng bút chì phác họa khung cảnh chung quanh lên một cuốn sổ con. Ngô vẽ quang cảnh khu vực đóng chốt, vẽ cảnh những thanh niên quyết tử ngồi đấu láo qua thì giờ, vẽ con đường hun hút vắng vẻ, vẽ xóm nhà dân xơ xác. Mặt trận miền Nam vẫn yên tĩnh, nhưng Ngô biết lắm, không trước thì sau lịch sử cũng sôi động bùng nổ qua con đường này. Những ngọn cỏ khô, những cánh đồng trống, chiếc Dodge cũ, hầm hố cá nhân, kể cả một viên đá rêu bám ở vệ đường, một hoa dại bị dẫm nát bên bờ ruộng, cũng sắp trở nên một thành phần của giai đoạn lịch sử đầy biến động sắp tới. Ý nghĩ đang phác thảo lịch sử khiến Ngô cảm thấy say sưa. Chàng tìm được một cách quên thời gian chờ đợi hết sức kỳ diệu! Nhờ thế, chàng cũng quên rằng toán quyết tử của mình phải cần những lực lượng vũ trang đầy đủ và đông đảo hơn nhiều mới đủ sức trở nên nút chặn đầu tiên bảo vệ Huế!

***

Từ đầu tháng sáu, Huế đã hoàn toàn bị bỏ ngỏ nên quân đại tá Loan vào Huế không mấy khó khăn. Trừ một vài kháng cự lẻ tẻ của các toán thanh niên quyết tử, cuộc tiến công thảnh thơi chẳng khác nào một cuộc dạo cảnh xem hoa. Hoặc một cuộc hành hương bất đắc dĩ và kỳ cục!

Phải! Một cuộc hành hương! Vì lúc những toán Thủy quân Lục chiến và Nhảy Dù tiến vào các đường phố Huế, họ gặp những loại chướng ngại vật phòng thủ mà suốt bao nhiêu năm cầm súng , họ chưa hề gặp trên bất cứ chiến trường nào: những bàn thờ Phật bày ra giữa lòng đường đang khói hương nghi ngút!

Hai bên đường phố, nhà nào cũng kín cửa. Những quân nhân ly khai, những sinh viên xách động, những cộng sản nằm vùng, những nhà sư tranh đấu, nói chung là những kẻ địch họ phải đương đầu trong cuộc hành quân này, hoàn toàn vắng mặt. Trước mũi súng của họ, chỉ có những bức tượng Phật đủ cỡ.

Diễm đứng trong nhà ghé mất nhìn qua tấm màn cửa vải hoa đã bạc màu hồi hộp quan sát những gì xảy ra bén ngoài. Trên cầu Nam giao bắc ngang qua con sông đào nước xanh, hai chiếc xe GMC chạy từ đường Lê Lợi lên đậu ngay giữa cầu. Xe nào cũng chở đầy lính Thủy quân Lục chiến súng ống mang đầy người.

Họ tụ lại từng nhóm trên cầu, hình như để nghe lệnh lần chót. Một người lính chỉa súng lên trời bắn một loạt tiểu liên thị uy. Ðược đà, nhiều loạt súng khác nổ. Rồi nhóm lính phân ra làm ba: một toán tiến lên dốc Nam giao khá đông đảo, được hai chiếc thiết giáp chạy từ phía An cựu lên hộ vệ phía sau. Một toán rẽ phía tay trái xuống khu vực Từ đàm. Toán thứ ba rẽ phải về phía nhà Diễm. Nàng lo sợ không dám vén màn nhìn ra bên ngoài nữa. Nhưng không dằn nổi tò mò, một lúc sau Diễm lại ghé mắt nhìn ra đường. Bà Bỗng lo cho con, cau mặt nhưng nói nhỏ:

– Diễm! Có khép cửa sổ lại không?

Diễm định với tay ra khép cánh cửa, nhưng ông Bỗng lại cản:

– Thôi, để yên đó. Khép cửa lại họ biết trong này có người, bắn bậy thêm nguy hiểm.

Bà Bỗng nghe nói tới súng đạn, chạy đến kéo con ngồi thụp xuống núp sau tấm vách.

Bên ngoài, có nhiều tiếng cười đùa. Không biết đám lính Thủy quân Lục chiến đang làm gì mà Diễm nghe họ đồng thanh hô “một, hai, ba”, rồi tiếp sau đó, tiếng vật gì rơi ùm xuống sông. Tiếng cười nổi lên, rồi tiếng đồng thanh “một, hai, ba” lại bắt đầu.

Ông Bỗng không chịu đụng được nữa, chạy tới gần cửa lớn nhìn qua khe cửa. Diễm chỉ chờ có thế. Nàng đứng thẳng dậy vạch hé tấm màn.

Ngay trước nhà, bốn người lính Thủy quân Lục chiến đang “đối phó” với chướng ngại vật phòng thủ của gia đình Phật tử ở ngay cạnh nhà Diễm. Một người cầm khẩu súng lăm lăm về phía dãy nhà khu gia cư hỏa xa canh chừng, trong khi ba người kia xúm lại bê nào tượng Phật, nào lư hương, nào chân nến, nào mõ, nào kinh, đem đặt trả lại cho chủ nhân giấu mặt ở khoảng lề đường gần nhất. Sau khi cung kính mang hết những thứ đồ thờ phượng thiêng liêng ấy trả xong, hai người lính khiêng cái bàn đến gần bờ sông. Họ lật ngược chiếc bàn gỗ quí lại, mỗi người nắm lấy hai chân bàn. Bốn người lính đồng lên tiếng hô “một, hai, ba”. Vừa dứt tiếng thứ ba, hai người lính kia đã lấy hết sức vứt chiếc bàn xuống nước. Cứ như thế, họ chậm chạp nhưng vui vẻ dẹp hết các chướng ngại vật thiêng liêng.

Độ nửa giờ sau, chiếc GMC trên cầu nổ máy, chạy về phía ga. Chiếc thứ hai chạy thẳng lên dốc Nam giao. Cảnh vật bên ngoài hoàn toàn im lặng!

Rồi một cánh cửa lớn căn nhà nào đó trên đường Phan Chu Trinh mở. Rồi một cánh cửa khác! Tiếng nói chuyện lao xao bắt đầu nổi lên đây đó.

Cho đến một lúc mà mọi người đều nghĩ là toán Thủy quân Lục chiến đã đi xa, nhà nào cũng ùa ra đường. Người lo kiểm soát lại thử những đồ thờ trước nhà có thiếu thức gì không. Người thì chạy quá xuống bờ sông đào, tìm vớt cái bàn của mình. Hầu hết đều hoảng hốt vì nước sông đã cuốn trôi chiếc bàn đi khá xa. Cho nên xảy ra cái cảnh tranh cãi la ó, vì rất nhiều người bỏ công vớt lầm cái bàn không phải của mình. Máu tham nổi lên, nếu gặp trường hợp cái bàn đó được đóng bằng gỗ quí hoặc chạm trỗ công phu. Thế là chủ nhân thực sự của chiếc bàn quí không dằn được sân si. Nhiều cuộc chiến tranh nhỏ bắt đầu!

***

Cuộc “dẹp loạn” không diễn ra êm ả như vậy ở phố Trần Hưng Đạo. Hôm đó cả gia đình ông Thanh Tuyến sợ đến xanh xám cả mặt mày, ôm nhau ngồi núp ở hầm kho ngay phía dưới cầu thang gỗ. Trong nhà chỉ có nơi này là an toàn nhất, vì những viên đạn lạc độc ác phải đủ sức xuyên qua hai lớp tường xi măng mới tới được nạn nhân.

Ba mẹ con vừa mếu máo khóc vừa dìu ông Thanh Tuyến từ trên lầu xuống nhà dưới để núp đạn. Ngoài phố từng loạt tiểu liên nổ giòn giã,mỗi lần như vậy, bà Thanh Tuyến lại lâm râm niệm Phật. Quỳnh Như và Quỳnh Trang lặng người vì sợ hãi. Chỉ có ông Thanh Tuyến là còn giữ được bình tĩnh. Khi bà Thanh Tuyến khóc nỉ non than vãn:

– Tường ơi là Tường ơi! Con ở đâu hở con! Con lạc đi đằng nào không về đây để nếu có chết cũng được chết chung với thầy với me, với anh với em! Con có sao không hở Tường! Ối trời ơi! Chắc người ta giết con tôi rồi…

Ông Thanh Tuyến tỉnh táo khuyên lơn vợ:

– Mình hãy bình tĩnh lại đi nào! Việc gì mà khóc như khóc đám ma thế?

Nghe ông Thanh Tuyến nhắc tới hai tiếng “đám ma”, cả Quỳnh Như lẫn Quỳnh Trang đột nhiên bật khóc. Bà Thanh Tuyến càng khóc to hơn. Ông Thanh Tuyến bực quá, gắt lớn:

– Có im đi không? Làm ồn lên chúng nó vào đây phá hết nhà cửa bây giờ!

Ba người đàn bà yếu đuối không dám khóc lớn nữa, nhưng tiếp tục sùi sụt, thút thít. Nhiều tiếng giày nặng thình thịch bên kia cánh cửa sắt khóa kín. Rồi có tiếng hỏi lớn, giọng Bắc:

– Nhà nào?

Đằng xa, có tiếng trả lời giọng trầm khó nghe.

– Nhà này hả?

Tiếng trả lời gần hơn:

– Nhà đó. Ðúng rồi.

Bên trong, gia đình ông Thanh Tuyến nín thở lo sợ. Có tiếng đập cửa. Ban đầu là hai tiếng nhẹ và rời, nhưng sau đó, tiếng đập vội vã, giận dữ. Quỳnh Như thì thào van xin:

– Me đừng mở! Me đừng mở! Con sợ lắm.

Quỳnh Trang đưa mắt dò hỏi ông Thanh Tuyến. Ông Thanh Tuyến nhìn ra phía cửa trước, nhìn vợ với cái nhìn bao dung thương hại, rồi bảo Quỳnh Trang:

– Con ra mở cửa đi. Hay dìu thầy ra một thể!

Bà Thanh Tuyến xót xa bảo chồng:

– Ðể em dìu mình đi.

Quỳnh Như nín khóc, thì thào:

– Cho con theo với!

Tiếng đập cửa ngày càng gắt. Giọng nói vọng vào đã mất kiên nhẫn:

– Có ai trong nhà không? Sao không chịu mở cửa?

Một giọng Quảng nam hằn học:

– Quẳng một trái lựu đạn là xong!

Quỳnh Trang vội lên tiếng:

– Có chúng tôi ở nhà đây. Chúng tôi đang tìm chìa khóa.

Dù cố gắng bình tĩnh, giọng nói của Quỳnh Trang vẫn khao khao nghẹn ngào. Nàng mở hộc quầy thu tiền tìm chìa khóa, nhung lýnh quýnh tìm mãi không ra trong khi tiếng đập cửa dồn đập hơn. Ông Thanh Tuyến mắt yếu không giúp được gì cho con, còn bà Thanh Tuyến và Quỳnh Như thì run rẩy đứng nép vào nhau. Quỳnh Trang rút cả cái hộc ra lục soạn một hồi mới tìm ra cái chìa khóa cửa. Nàng vội ra mở cánh cửa sắt. Tiếng chìa khóa lạch cạch khiến cho những người lính bên ngoài hiểu là chủ nhà chịu nghe lệnh. Họ ngưng đập cửa hoặc văng tục.

Cửa mở. Ánh sáng mùa hè giữa trưa ùa vào căn phòng tối, cả gia đình ông ThanhTuyến chói mắt nên chỉ nhận ra bốn bóng đen ập vào nhà.Một người lính dõng dạc hỏi:

– Ai là gia chủ?

Ông Thanh Tuyến cố điều khiển đôi môi bị tê liệt để nói, nhưng giọng ông phều phào không ai nghe được gì. Bấy giờ, đột nhien bà Thanh Tuyến bình tĩnh hoàn toàn. Bà đến đứng án ngữ trước mặt chồng, đáp chậm và nghiêm:

– Tôi là gia chủ đây!

Người lính vừa hỏi nói tiếp:

– Nhà còn ai nữa không?

Quỳnh Trang đáp thay mẹ:

– Không. Nhà chúng tôi chỉ có bốn người.

Người lính đứng chận chỗ cánh cửa hé hỏi:

– Thằng Tường đâu?

Bà Thanh Tuyến sợ quá, líu lưỡi không đáp được. Lại Quỳnh Trang trả lời thay mẹ:

– Anh tôi ít khi về nhà. Ba bốn ngày nay anh tôi không về.

Bấy giờ người lính lớn tuổi nhất, có thể là trưởng toán, mới lên tiếng hỏi:

– Trên lầu, còn ai trốn trên ấy không?

Quỳnh Trang đáp:

– Không có ai trên đó cả. Nếu muốn, xin các ông cứ lên xét.

Người trưởng toán đưa mắt ra dấu cho hai người đứng gần ông bà Thanh Tuyến, ra lệnh:

– Đi theo họ lên lầu xét cho kỹ. Chỉ cần hai cô này dẫn đi thôi. Còn. .. còn. .. Nhưng thôi! Đưa họ lên lầu hết đi. Thằng Tánh ở lại với tao dưới này canh chừng.

Gia đình ông Thanh Tuyến líu ríu dìu nhau lên cầu thang, theo sau là hai người lính. Họ đến phòng khách. Căn phòng khách tuy đã bỏ bê tồi tàn từ mấy tháng nay nhưng vẫn còn quá sang trọng. Giọng người lính mỉa mai:

– Chà! Tranh đấu tranh điếc mà giàu dữ!

Người nói giọng Quảng lấy họng súng chỉ vào Quỳnh Trang nói:

– Cô này dẫn tôi đi khám xét hết các phòng. Ông bà già với cô này ngồi yên tại đây, không được nói chuyện, không được đi đâu cả. Tôi nói trước, hễ có hành động chống đối nào, tôi bắn chết rán chịu!

Quỳnh Trang dẫn người lính khó tính đi lục xét hết các phòng, lục xét kỹ đến nỗi anh ta bắt Quỳnh Trang phải mở hết các tủ ra, kéo hộc bàn, lật chăn mền lên. Chưa đủ, anh ta còn nhòm xuống đáy giường, bắc thang leo lên nhìn lên trên trần gỗ xem có ai núp trên đó không.

Anh ta không tìm được Tường, nên hỏi Quỳnh Trang với giọng đe dọa:

-Cô muốn cho anh cô nhẹ tội thì kêu hắn ra đầu thú ngay đi. Có trốn cũng vô ích.

Quỳnh Trang giận, không còn sợ gì nữa, đáp liền:

– Việc gì mà anh tôi phải trốn các ông!

Người lính quay ngoắc lại nhìn Quỳnh Trang đăm đăm, cười mỉa mai hỏi:

– Cô thách chúng tôi hả?

Quỳnh Trang không nói gì. Người lính vùng vằng bỏ ra phòng khách trước. Người kia hỏi:

– Có tìm thấy nó không?

Bạn anh ta lắc đầu. Lúc đó phía dưới lầu người trưởng toán cũng hỏi vọng lên:

– Tìm được chưa?

– Không có. Nó trốn rồi!

Người trưởng toán lớn giọng ra lệnh:

– Thôi xuống đi.

Hai người lính xách súng tiến về phía cầu thang. Gia đình ông Thanh Tuyến lặng lẽ nhìn nhau, nín thở chờ cho họ đi khuất. Họ đã xuống lầu, nhưng vẫn chưa có ai dám lên tiếng. Phải chờ cho bốn người lính đi khỏi, chờ cho đến lúc nghe cánh cửa sắt đóng ập lại hãy hay.

Họ chờ. Nhiều tiếng bàn tán lao xao ở dưới lầu. Rồi đột nhiên có hai ba tiếng kính vỡ loảng xoảng. Bà Thanh Tuyến đưa mắt lo âu nhìn Quỳnh Trang. Quỳnh Như nắm chặt lấy tay mẹ. Dưới lầu, hoàn toàn im lặng.

Chờ độ mười lăm phút nữa, vẫn không thấy gì, nên Quỳnh Trang mới thì thào nói với mẹ:

– Để con xuống coi họ đi chưa!

Bà Thanh Tuyến nói:

– Ðể me đi với con. Thầy mày ngồi đây nhé.

Quỳnh Như nói với theo:

– Con đi với me.

Ba mẹ con xuống đến nửa cầu thang thì dừng lại, vì Quỳnh Trang cẩn thận cúi xuống nhìn xuyên qua cầu vịn bằng gỗ để xem dưới lầu còn ai không. Không còn ai, tuy cửa vẫn mở.

Họ mạnh dạn xuống thang lầu. Dưới nhà, mảnh kính văng tung toé khắp nơi. Hai cái tủ kính đã bị đập vỡ. Chiếc ghế đẩu nằm chỏng chơ ngay giữa lối đi, một chân ghế đã bị gãy.

___________________________________________

Comments are closed.