Nguyễn Vy Khanh
Hoàng Chính Nghĩa
Hoàng Chính Nghĩa là tên thật, được dùng cũng như các bút hiệu khác nhau tùy giai đoạn: Lê An Thế, Lê Tôn, Hoàng Đông Quải, Lê Bi… Ông sinh năm 1949 tại Thái Bình. Sĩ quan QL/VNCH. Di tản sang Mỹ năm 1975. Viết và sinh hoạt văn nghệ, xuất bản từ giai đoạn đầu của văn học hải ngoại: đầu năm 1976 làm thư ký toà soạn cho báo Quê Hương. Cùng Hoàng Khởi Phong và Hoàng Quốc Bảo thành lập nhà xuất bản Bố Cái năm 1977 và từng cộng tác với một số các tạp chí như Văn Học, Hợp Lưu, Thơ, Việt Nam Hải Ngoại, Thế Kỷ 21, Người Dân, Đối Thoại và các trang web Diễn Đàn, talawas, Da Màu, Tiền Vệ. Hiện sinh sống giữa Việt Nam và Mỹ.
Thi phẩm đã xuất bản: Thơ tình cùng trời đất (ký Hoàng Đông Quải; Bố Cái, 1978); Thơ Trích (Người Dân, 1990); Địa chỉ của một người (Tân Thư, 1996; TGXB, 2022); Thơ Lê An Thế (California: TGXB, 2022); Một mình (2015); Nơi tôi tới đêm qua (2015) và Vòng không (2022) – ba tập sau ông tự in ở trong nước.
Ngoài ra ông in chung với Hoàng Khởi Phong tập truyện Ngẩng mặt nhìn trăng sáng (Bố Cái, 1978. 153 tr.) và in chung với Thục Ngạn, Trần Mộng Tú và Du Tử Lê tập thơ song ngữ Thi ca và Lưu đày (Quê Hương, 1976; Tân Thư 1996).
*
Thi ca với ông “là chuyện mơ màng. Là cánh cửa. Là khoảng trống. Không cần rõ ràng. Thượng đế là một con đường vô tận. Nhưng thơ và thượng đế đều không phải là tôn giáo của tôi”[1] (1) và lúc khác được ông định nghĩa: “Mỗi ngày có thể là một bài thơ / đi qua đi lại / Mỗi ngày có thể là một bài thơ / đứng lên ngồi xuống / Cứ nhìn quanh / tôi cũng như bạn / mỗi ngày / mất rất nhiều thơ” (Định nghĩa thơ. Trong tập Một mình, tr. 41).
Hoàng Chính Nghĩa trước hết là một nhà thơ với nhiều bút hiệu và thơ ông đã để lại ít nhiều dấu ấn trong sinh hoạt văn học hải ngoại. Những bài thơ đầu ở ngoải nước, ông dụng những thể thơ đã quen, đầy ước lệ, nhạc tính như bài năm chữ Thuở theo nhau, 1977:
“Theo sông vào trăm sóng / Sóng như ta bạc đầu
Người năm xưa cũng vội / Theo bụi bước qua mau
Theo mây vào bóng núi / Ta chia núi quạnh hiu
Mỗi năm lòng mỗi nhuốm / Nỗi trời rộng tiêu điều […]
Hoặc lục bát trong Sầu ta, 1979:
“Sầu ta ở mấy dặm mây
Ngậm ngùi nhân ảnh với đầy lòng trăng
Nửa đường nằm xuống phân vân
Hồn trong tiếng hạc mà thân chưa về…”
Từ thập niên 1990, ông dụng thể thơ tự do và sáng tác, xuất bản thơ liên tục, sung mãn, phải chăng để thích ứng với tâm tình thời đại cũng như của chính ông? Thơ trở nên phương tiện sống, với chính mình, với tha nhân và ngoáy sâu vào những vấn đề của thời đại, của con dân Việt và của di dân lưu vong. Trước hết, thi nhân thường được nhân thế xem họ như cư dân của Ốc Đảo:
“Thơ lùa tôi vào một ốc đảo / khi tất cả đang băng rã
Thơ đã dọn tôi phần sa mạc / tôi lớn theo tóc bạc lan dần
tôi đã mất sự bình thường
thèm điều đơn giản là kèm thêm ly rượu
Đôi mắt cá ươn / tôi dán chặt trần nhà
thơ đã đưa tôi về già / nằm nhớ biển
thơ đã làm tôi khóc mướn
thèm cơn mưa có thật như bản thời tiết sáng nay
qua những ngón tay
sao tôi vẫn bâng khuâng cùng tia nắng muộn”
(Nơi tôi tới đêm qua, tr. 28)
Đôi khi cũng có những biện minh, như trong Đằng sau người làm thơ:
“May mà thời đại này không mấy ai muốn thi sĩ phải là chiến sĩ
Vậy mà thơ vẫn cứ phải xông vào đánh với những nỗi đau
Thế giới chung quanh vẫn còn bao nhiêu điều nghịch lý.
Kẻ thù ư? Lúc nó rõ ràng như hận thù, đói khát, chiến tranh
Anh có thể đứng hẳn ở một lằn ranh
Để thơ thành tên đạn xông ra đằng trước.
Lúc quay về, đối diện mình anh, lại thấy nó mơ hồ
Có thể là muôn ngàn khoảng trống
Bởi từng cơn gió, trăng sao, hạt mưa như kẻ địch
Nó phục kích anh ngay những lúc không ngờ.
Nên có những bài thơ đau như muôn mảnh
Những người làm thơ phải tự cắt mình ra
Mà đời này chắc gì còn mãi cỏ hoa” (Địa chỉ của một người, tr. 182-183)
Ông có cách đọc thơ của riêng ông: “Với thơ / tôi đều đọc trong cô độc / với kẻ làm thơ / đôi khi tôi nhìn thấy / họ nằm trên trang giấy / chờ tôi” (Nơi tôi tới đêm qua, tr. 159, vì khi ông đọc Thơ Họ thì:
“Đọc thơ người khác / là đeo sợi dây căng
không cùng địa chỉ
không cùng thời / không thấy mặt
ngàn cái không tôi tìm cái một / là cửa mở
(không bức tường nào giữa tôi
và trang giấy và sợi dây căng)
là tôi thường gặp / những nổi đau
những mùi vị / họ bỏ lại
tôi làm thơ / là chuyển ngữ điều còn sót
(phần lớn thiếu và sai)
lúc gấp thơ lại
khoảng trống ùn lên / là tổ mối
tác giả chết trên trang giấy / mà không nhắm mắt
họ bỏ lại giấc mơ / để tôi tìm cái thật
họ bỏ lại cái roi / để tôi quất vào khoảng trống
cứ loanh quanh giữa 4 bức tường
nhờ thơ họ / tôi căng buồm
giữa dòng thơ chưa ráo mực” (Nơi tôi tới đêm qua, tr. 5-6)
Con chữ đã là ám ảnh nghệ thuật tiên thiên, vì Nếu Tôi Là Chữ: “Chữ / dạy tôi sự bao la / Nó nằm với tất cả / mà vẫn tự do” (Nơi tôi tới đêm qua, tr. 94). Ngôn ngữ hành hạ nhà thơ, kiểu Còng Đầu:
“Ngôn ngữ dễ sợ hơn bàn tay ánh mắt dễ sợ hơn mũi tên hòn đạn
nó xuất hiện / là / tôi bị đuổi không ngừng
mỗi đêm tôi căng lên hoặc xẹp xuống
thành những mặt phẳng
tôi như bệnh từ bao giờ / bệnh từ bao giờ
vùi tôi xuống đẩy tôi lên
ngày kéo dài đêm kéo dài / tôi bị bắt
ngôn ngữ còng đầu tôi lại / không biết tội gì
và dẫn vào một thế giới khác” (Một mình, tr. 101)
Làm thơ cũng là một Cách Khóc: “Tôi dồn chữ / thành chiếc thuyền giấy / để tiếng khóc trôi tới chân trời” (Vòng không, tr. 11). Phải chăng, vì “Có thể thơ / Chỉ là chổ nứt của tâm hồn?” (Vòng không, tr. 23).
Vậy có cách nào Sửa Thơ?
“dòng thơ vừa khỏi tay đã chết
Xơ cứng như những triều đình
tìm mình / phải bước qua điều vừa viết …
đời cần sửa / nói chi thơ
nát cả chiều sâu / cũng sửa …
ngôn ngữ dính vào đời / hơn máu thịt
sửa thơ như tự cắt mình / để mang ơn cái chết …
cứ sửa / sửa màu trăng / thành nỗi nhớ
sửa mưa rơi / thành tiếng nhạc trời
sửa cả những niềm tin / khi cuộc đời không đứng lại
bài thơ ta chảy tự vô hình
người đọc cứ giẫm lên
những thế hệ khác giẫm lên / quên cả xác mình
tưởng thơ là cuộc đời / cứ sửa
sửa một dòng sông / thơ không bao giờ theo được”
(Địa chỉ của một người, tr. 164, 166)
Nhà thơ canh cánh bị ám ảnh con chữ cùng những hình thức chuyển tải, như Dấu Chấm:
“Đi theo một dọc mấy bài thơ
Tôi không tìm được con số đúng / Mình
Tôi là hình. Lơ lửng
Không nguyên do. Chưa kết luận
Meo méo cong cong lằng nhằng thăng thẳng
Tôi đi hay tôi đứng
Bóng tôi cứ nằng nặng / Giữa đời
Đi theo một dọc mấy bài thơ
Tôi không tìm ra địa chỉ / Chỗ nằm
Tôi bông bổng bồng bềnh / Trên cạn
Tôi cụ thể trong yêu
Mà lại ngồi trên từng cánh bướm
Cứ loanh quanh định trộm / Nắng chiều
Đi theo một dọc mấy bài thơ
Suốt đường dài tôi vẫn là thằng
Trốn học / Tôi bỏ lớp / Nam hoa
Mà cứ mang mang chép lại đời / Ảo ảo
Cho đến lúc tôi tìm ra / Dấu chấm.” (Nơi tôi tới đêm qua, tr. 120)
Có những thất vọng xảy đến trong khi luôn khao khát tìm Chân Thiện Mỹ qua ngôn ngữ:
“Lúc ngôn ngữ bị đuổi khỏi vườn địa đàng
là bắt đầu dối trá
ai soạn kinh thánh?
ai chỉ ra đường cách mạng?
chúng tôi suốt đời lòng vòng / tìm nơi đến
khi các giáo đường dinh thự đền đài cung điện
chứa toàn dị bản” (Nơi tôi tới đêm qua, tr. 117)
Và “thơ tôi đang mất dần ngôn ngữ” trên sự thật đành phải nhìn nhận Cái Chết Thời Gian:
“Chỉ mấy ngày sau những bông hoa đã để lại cái chết trên mặt bàn / ánh sáng nhảy qua khung cửa sổ
là lời đối thoại thầm thì / ngắn hơn ngón tay của em
nghiêng theo bóng của các quyển sách cũ
những tác giả đều để cho chúng ta / những công thức khác
vật chất là thời gian là màu sắc / là ánh sáng là sóng là hạt
là thơ tôi / đang mất dần ngôn ngữ
trong bóng tối của ngọn hải đăng bỏ hoang
tôi nghe tiếng kêu loài hải âu / đã bỏ xa thế kỷ 20
nơi những đoàn tàu trước
vẫn chạy song song với thế giới khác
nơi những tiếng sóng / thanh bình hơn thế kỷ này
tôi học được / cái chết của muối
đã vùi trong những chớp mắt của em” (Nơi tôi tới đêm qua, tr. 110-111)
Biến cố ngày 30-4 lại đến, “1975, hàng triệu người bỗng dưng bị cắt như tôi / hàng triệu người vào thành phố / hàng triệu người ra biển / tôi bị cắt quá khứ / tôi là hai và là triệu mảnh … Có đêm tôi thì thầm / như hát / tôi không để ai cắt tôi khỏi chữ / cắt chữ khỏi thơ / tôi sẽ nói với Mỵ Châu / tôi còn yêu tức tôi hiện hữu / như chưa từng bị cắt” (Cắt. Trong tập Một mình, tr. 33)
Làm nhà thơ ta ở xứ người, quô hương mới, không có nghĩa là đã yên phận, là đã thoát thân phận di dân và cả thân phận da màu:
“Sự đổi màu của tóc
chỉ khác nhau ở dạng thể hoặc bảng giá tiền
tôi có thế nhuộm / thành một người già mới lớn
tôi có thế vẽ / hình thể và màu cờ
tôi có thế đổi / tên
tôi có thế tìm / một thượng đế mới
lúc qua đường vào quán cà phê Starbucks
tôi vẫn không hòa nhập được
màu da / nớ vẫn trơ / lì lợm trên vỉa hè” (Nơi tôi tới đêm qua, tr. 53)
Nhà thơ đảm đương thời của mình, đấu tranh cho quyền làm người, đòi phá đổ bất công, rõ nét hơn với Chống cưỡng bức hồi hương ở Hồng Kông:
“Bắn vào trại cấm này 40 trái đạn cay
Hàng trăm cảnh sát Hồng Kông lôi ra những người liều mình ở lại
Kẻ có quê hương, sao thà sống trong trại tù khóa trái
Những giọt lệ cay chắc gì vì khói đạn cay”
(Địa chỉ của một người, tr. 121)
Năm 1989 đánh dấu thời của những xáo trộn lịch sử và xã hội: biến cố Bức Tường Bá Linh đã xảy ra, bức tường ô nhục đã thực sự bị đập nát. Đây là biến cố lịch sử lớn đẩy chủ nghĩa vô vọng vào thùng rác nhân loại. Nhà thơ đã canh thức theo dõi, đã nhìn thấy, đã nhận ra nhiều điều:
“1. Bức tường Bá Linh có thật / Rất thật
Nhưng khi vỡ, nó vỡ như mơ / Rất mơ
28 năm lõa lồ trên mặt đất
Mất hôm qua hay tự bao giờ.
Đừng gởi về Việt Nam bất cứ viên gạch nào
của bức tường Bá Linh
Nó có thể làm tủi cả dòng sông Bến Hải
Đừng để lịch sử phải khóc
dù thời gian không thể quay đầu lại
Và mỗi người Việt Nam sẽ biết thêm
cái giá thống nhất nước mình.
- Có những người đập phá bức tường
bằng tất cả niềm vui
Mà không kinh ngạc
Cũng chẳng ai thấy điều gì mất mát
Để chúng ta hiểu đó chỉ là chuyện bình thường
Khi con người bắt đầu đứng lên
đòi quyền sống thật
Ngay cả những giấc mơ cũng có thể bước ra đường
Mọc lên trăm ngàn ngọn nến
Những ngọn nến lung linh
Cả nước Đức phải thức / bước tới tương lai
Và trời sao cúi thấp / Chen lấn với người
Tôi cũng thức
Những cơn gió mùa thu 1989 làm rộn ràng nước Đức
Và tôi vội vàng dấu đi nước mắt
Những giọt nước mắt nuốt ngược ruột gan
Tôi ngoài Việt Nam ngoài nước Đức
Những cơn gió rộn ràng thổi ngoài Việt Nam
Gió ngoài Việt Nam / Rất ngoài Việt Nam […]
Những bản tin trên màn ảnh nhỏ
như những ngọn đèn không thể ngủ
Tôi không thể ngủ
Khi những ngọn đèn vẫn mọc ngoài Việt Nam
Chiếu sâu vào quá khứ / Tra tấn Việt Nam. […]
Đừng, đừng nói với Việt Nam bất cứ một tin tức gì
về bức tường Bá Linh
Nó có thể làm Trường Sơn vùng lên tức tưởi
Những bà mẹ không thấy xác đàn con
Những oan hồn / không chiều dài chiều cao chứa nổi.
Hãy cứ để nó sần sùi
Ôi những tảng gạch vô tri vô giác
Đã thành não trạng của những niềm vui / Vừa tự vỡ.
- 28 năm cuộn tròn / 28 năm không ngẩng mặt
Không dài hơn sông Bến Hải
Không cao hơn Trường Sơn
Hạnh phúc cho nước Đức
Đã dạy bao người bước qua ô nhục
Mà không phải hận thù / bạo lực
Và dạy tôi phải nuốt những giọt nước mắt
Giữa những niềm vui.
Nước Đức ở quá xa / Mưa tháng 11 quá xa
Tôi không ở gần được ôm được khóc
Hạnh phúc cho nước Đức
Đã dạy chúng tôi chiến thắng cao cả nhất
Là trận chiến không tốn máu xương
Và tất cả được sống bình thường
Hạnh phúc cho những bông hoa
Có thể chuyền tay cho bất cứ ai xa lạ
Những bông hoa may mắn hơn chán vạn hoa
Trong chốc lát bỗng nhiên thành cột mốc
Đón sự thật ùa ra
- Bức tường Bá Linh có thật
Nó có thật tự bao giờ?” – 11/1989
(Bức tường Bá Linh có thật. Thơ trích)
Bản thân làm người di trú phải hội nhập, nhưng lại vừa làm thơ, làm báo, suy nghĩ về những vấn để của cộng đồng, của thân di trú, dễ lâm vào tình cảnh “một nửa” vì đã bị phân thân:
“Có những trang thư như phản ánh chiếc gương
Nó soi bóng hình ta sâu hơn nữa
Giữa Mỹ Châu chợt thấy mình là một nửa
Một nửa mất rồi là bóng quê hương.
Một nửa kia làm vàng ố bức thư nhà
Nó rất mỏng để vượt qua ngàn tiếng sóng
Nó sát nhập ta vào trời cao biển rộng
Những chữ nhét đầy thành sóng lòng ta.
Có những trang thư nghẹn ngào giữa cổ
Cái cột đèn ở lại cũng thành hòn đá vọng phu
Những bà mẹ lạc giữa hai miền lịch sử
Một trăm con, trăm ngã rẽ hoả mù.
Một nửa kia ào ra như lời mẹ kể
Ta vẫn lang thang ngàn truyện hoang đường
Có những đêm lén nhìn ra cửa sổ
Ta muốn thành trăng nối cả Thái Bình Dương.
Có những trang thư sắc như vết cắt
Ta đọc bàng hoàng như Âu Cơ vừa bỏ Lạc Long Quân
Đế nhớ nhau ở hai đầu trái đất
Những chia lìa này từ mây ngàn năm.
Một nửa kia bỗng nặng nề như quá khứ
Một nửa này trách mình sao vẫn còn mê
Có những dòng thơ bỗng như thác đổ
Mà bóng hình ta một nửa chưa về” (Một nửa)
“Thành phố này tôi không cần thêm một cái tên khó đọc …
tôi hội nhập / bằng cách bỏ rác vào thùng
tôi trật tự / bằng cách chờ những ngọn đèn xanh đỏ
tôi nhập tịch / như đổi chỗ thuê nhà
tôi đổi đời / học thêm những bài học lạ
tôi làm thơ / như chỗ đổi hình […]
ở căn hộ này tôi là một di dân
phản bội cái là mình / ấy
tôi vẫn chung tình với những chùm sao
đêm nay tôi leo lên leo lên mãi
trời / nơi những vì sao
cũng đang thành ngoại ngữ” (Nơi tôi tới đêm qua, tr. 65, 67)
Cuối Cùng – đó là điểm đến!
Thân phận “di dân” đưa đến tình cảnh “ghetto”:
“Tôi lưu vong giữa trái đất
tôi lưu vong giữa quê hương
tôi lưu vong giữa thành phố
tôi lưu vong giữa những bàn nhậu
rồi / căn phòng này / cũng là một ghetto
tôi đặt một cái gối / chui vào
và tôi lưu vong khi ngủ” (Ghetto. Trong tập Một mình, tr. 124)
Bận tâm và cố gắng làm người Việt – như ông đã trả lời phỏng vấn của Nguyễn Mạnh Trinh tháng 11-1996: “Tôi trở thành một con người Việt Nam, đơn giản, phổ quát và thế thôi”[2]. Ông cập nhật nhân sinh quan và văn nghệ quan?
Và ông trở về Sàigòn:
“Khi trở về
thành phố này đã là một chiếc giường / của kẻ khác
Có kẻ nói lịch sử đã chết
có kẻ nói cách mạng đã chết
có kẻ nói thành phố này đã chết
tôi chui vào giọt nước mắt mình
rồi nằm xuống” (Saigon. Trong tập Vòng không, tr. 107)
Sàigòn vẫn mọc lên, Bước ở trên trời Sàigòn, Mưa tháng 5 Sàigòn, Tháng 8-2021 ở Sàigon, … là những bản thơ khác về thành phố đã mất tên nhưng luôn tồn tại, luôn hữu hình trong tâm thức người Sài Gòn hoặc đã từng ớ đó:
“ở với saigon không thấy saigon
ở với saigon vẫn nhớ saigon
nắng và mưa, trước và sau, trên và dưới, đêm và ngày
saigon vẫn saigon / không thấy saigon trong em
không thấy saigon trong tôi
không thấy kẻ saigon sống sót hậu saigon
saigon tôi và saigon chiếm đóng
lẩn quẩn thế / tôi vẫn không thoát saigon”
(Hậu Saigon. Trong tập Vòng không, tr. 55)
Sài Gòn cộng với tháng Tư làm khó những người như nhà thơ vào tháng Tư 2019:
“Có người nói Saigon không nên xuất hiện lúc này
tháng tư năm nay rất nóng
tôi nhớ saigon như nhớ thịt da
tôi nhớ năm nào tôi hẹn uống với tháng tư
bây giờ tháng tư
giữa một thành phố không có cái tên nào đúng chỗ
tôi chỉ muốn say và ngã xuống / giống tháng tư” (Vòng không, tr. 118)
Nhà thơ luôn đa mang với cái bọc lịch sử kè kè theo mình:
“Chỉ một con trăng, mà anh đã đếm bao lần
Lịch sử có bao người nhìn trăng mà nhớ nước?
Những con trăng soi giùm anh tổ quốc
Hỏi sau này, còn bao kẻ phải nhìn trăng” (Sau này)
Lúc khác, ông khẳng định:
“Có người nói lịch sử viết chỉ là một nửa
Cần gì lịch sử
Thế giới quanh tôi cũng chỉ là một nửa
Tôi đón bình minh tôi nhớ bên kia là bóng tối
Tôi ngồi trong bóng tối tôi nhớ mặt trời
Tôi nhìn tượng anh hùng tôi nghĩ tới máu xương người chiến bại
Tôi yêu thơ tôi thèm tiểu thuyết
Nửa của tôi/ Không cần bằng chứng”
(Một nửa. Trích talawas, 2007)
Nhà thơ nhận ra mình bị lừa, như cả dân tộc này:
“Tôi không muốn mình bị mặt trăng lừa một lần nữa
tôi không muốn buổi tối lừa mình một lần nữa
tôi không muốn tôi tự lừa một lần nữa …
tôi nhảy vào những con số
những con số lừa tôi
tôi nhảy vào những ly rượu / cơn say lừa tôi
tôi chạy theo đàn bà / cuộc tình đánh lừa tôi
tôi theo quyển lịch còn lại / thời gian lừa tôi
tôi theo tổ quốc / lá cờ đang lừa tôi” (Lừa. Trong tập Nơi tôi tới đêm qua, tr. 63)
Và những Mạo Nhận đáng vạch mặt:
“Thượng đế chưa chết
đã bị cắt tươi từng mảng / thành miếng bánh
mạo nhận / từ ngôn ngữ thánh kinh đến tiếng chửi thề
người chính thống, kẻ ngoài lề / mạo nhận ráo.
thành phố tôi / cái tên cũng mạo nhận
đất nước này / tôi đố mọi cây đuốc
tìm được một người cộng sản
Ê, lúc Karl Marx bước vào nền kinh tế thị trường
hoá ra là thằng đúng nhất” (Nơi tôi tới đêm qua, tr. 166)
Phần đầu của Địa chỉ của một người mở ra với Nếu phải tìm mình mà tựa đề dùng đặt cho toàn phần:
“Nếu dân tộc mình cực đoan trong tinh thần độc lập
chắc xưa Lý Thường Kiệt không thể vừa đánh quân Tàu vừa làm thơ bằng chữ Hán
nay con cháu ông quên cả chữ Hán chữ Nôm
họ viết tuyên ngôn và làm thơ tình
bằng mẫu tự La Tinh từ các ông Cố Đạo.
Nếu không đi sứ qua Tàu
chắc Nguyễn Du không được nghe ra tiếng sóng Tiền Đường
ta cũng không biết những lục bát đoạn trường
chảy theo đời của Thúy.
Nếu ông cha ta khép kín
chắc không thể dựng tượng Khổng tử để trong Văn Miếu
tượng đá này ngàn năm / đã đậm đà như sông núi.
Xưa huyền thoại mẹ cha đã có trăm con
này trăm con không còn là huyền thoại
đứa vô thần đứa theo Chúa Phật
thậm chí, mặc dầu, những kẻ gì đâu
có chia năm xẻ bảy / tôi cũng thấy bình thường
họ cũng là thịt xương từ mẹ cha mình đấy.
Nếu đất đai mình thuần nhất
sao vẫn ướt dòng lệ Đồ Bàn
dòng máu ta có thể phát nguyên từ sông Cửu Long hay sông Dương Tử
chảy tới những hòn đảo Thái Bình Dương
ta có thể là mảnh Bách Việt, mảnh Thượng, mảnh Kinh, mảnh Thái, mảnh Chàm, mảnh Kampuchia, mảnh Mã
Tôi sinh ra là người Việt, sống như người Việt
và sẽ chết như người Việt
nhưng Việt là gì / thì tôi không biết.
Nếu mai này được hôn vào đất
hôn mẹ cha đã mở mọi đường
tôi sẽ yêu những con đường đi những con đường ở
đất đã ôm hết thảy mọi nhà / đất của dân là khung cửa mở
để cho đời có thể trăm hoa” (tr. 7-9)
Bài Đến khi khép lại phần 2- Đến khi của tập Địa chỉ của một người:
“Đến khi thơ anh chẳng chở được gì / là lúc trời sao cộng lại.
Nên thơ anh sẽ không ở lại / nó bỏ anh thành con ve
hùa theo những ngọn gió hè / nó bỏ anh thành hạt cát
vùi thân vào sa mạc / nó bỏ anh làm ngọn cỏ
thế kỷ này bận bịu giẫm lên
anh ở lại anh biết trời sao có ích
giữa cuộc đời anh phải nhìn lên
quên cả phận mình.
Đến khi không phải làm thơ nữa
là cũng không tự xé mình ra.
Nên thơ anh đã là đốm lửa
hóa kiếp từ những sao xa
kẻ đọc thơ chỉ thấy niềm đau quá chậm
điều thấy hôm nay đã chết tự bao giờ.
nó bỏ anh thành hạt muối / biến hình giữa biển xanh
anh còn bao giấc mộng không thành
vác trên vai người mang tội
anh còn bao niềm đau chưa viết / bị từng biến cố bước qua
thôi thì cũng cầu cho những điều anh chưa biết
sẽ mọc mầm hoa.
Đến khi thơ anh không cần anh nữa
là biết trời sao kia đã bớt đơn côi”
(Địa chỉ của một người, tr. 217, 218)
[Văn-học Việt-Nam 50 Năm Hải ngoại. Quyển Trung, tr. 318-331]
[1] Nguyễn Mạnh Trinh. “Nói chuyện với Lê Bi, tác giả tập thơ Địa chỉ của một người”. Da Màu, 19.1.2011.
[2] Bđd.