Gérard Noiriel
Phạm Anh Tuấn dịch
Độc giả có thể sẽ tự hỏi vì sao lại tái bản một cuốn sách rất mỏng ra mắt lần đầu tiên vào năm 1972, khi dường như bấy lâu chúng ta sống ở một thời đại mà ở chỗ nào cũng thấy rõ một sự giải thiêng đối với những trí thức.
Lý do thứ nhất là thuộc loại sự kiện. Muốn hiểu văn bản này cho rõ hơn, chúng tôi đã thấy cần phải chữa lại chỗ sai về ngày tháng đã liên tục lặp lại kể từ lần xuất bản đầu tiên. Cuốn sách tập hợp ba bài diễn thuyết của Jean-Paul Sartre tại Nhật Bản không phải là vào năm 1965, như được cho thấy ở cuối ấn bản lần thứ nhất, mà là vào thời gian tháng 9-10 năm 1966. Niên đại chính xác này, có thể thuộc phạm vi tiểu tiết nếu là về một tác giả khác, nhưng trong trường hợp của Sartre thì lại quan trọng vì suy tư của ông bao giờ cũng liên hệ chặt chẽ với hiện thực ở thời đại của ông. Ta sẽ thấy sau này rằng nhiều biến cố lớn, cả về chính trị lẫn triết học xảy ra giữa tháng 9 và tháng 11 năm 1966 đã xuất hiện mà phải nhìn kĩ mới thấy rõ trong cách phân tích mà Sartre bàn rộng ra trong các bài diễn thuyết.
Lý do thứ hai biện hộ cho lần tái bản này, nó có sau một lời tựa, là do việc công bố ấn bản lần thứ nhất đã không có bất kỳ sự chỉ dẫn nào cho phép phục hồi mục đích của Sartre theo đúng với bối cảnh của ông. Chính việc phải làm rõ này là cần thiết, như chúng ta sẽ thấy ở trong các bài diễn thuyết, nếu muốn minh giải những điều ngầm ấn định trong cuốn sách này và hiểu thật rõ vì sao Sartre đã quyết định xuất bản thành sách các bài diễn thuyết của mình chỉ sáu năm sau chuyến đi tới Nhật Bản.
Lí do thứ ba, xét cho cùng là điều chúng tôi quan tâm. Chúng tôi thấy sẽ là có ích với độc giả của năm 2020 nếu nhắc lại định nghĩa về trí thức phổ quát [l’intellectuel universel] mà Sartre biện hộ với sự súc tích trong cuốn sách này. Làm thế nào mà định nghĩa ấy đã thường bị châm biếm, không hề là vô ích khi trở lại tận nguồn mạch của cách định nghĩa này và nêu bật những luồng ảnh hưởng. Cuốn sách này, nếu ta có thể xem nó như một điểm mốc để hiểu rõ một định nghĩa về những “trí thức”, kết quả của sự trở thành của “trí thức” nói chung kể từ những năm 1970, và cũng trình bày luận cứ với những ai ngày nay vẫn còn biện hộ cho sự nghiệp của mình.
JEAN-PAUL SARTRE,
SIMONE DE BEAUVOIR VÀ NHẬT BẢN
Năm 1966 Jean-Paul Sartre và Simone de Beauvoir sang Nhật bản và lưu tại đó từ tháng 9-10 năm 1966[1] để thực hiện các buổi diễn thuyết tại Tokyo và Kyoto. Simone de Beauvoir, khi đó đã nổi danh tại đất nước này, được đối đãi ngang hàng với người bạn đồng hành, được mời nói về sự nghiệp[2] của mình. Trước mỗi bài diễn thuyết của Jean-Paul Sartre, được in lại trong tác phẩm này, đều có một bài diễn thuyết của Simone de Beauvoir[3].
Với Sartre chuyến đi này là sự cụ thể hóa một mong ước từ ba mươi bảy năm trước, sau khi giải ngũ Sartre đã cố nhưng bất thành để xin được một chân giảng dạy tại Viện Pháp-Nhật ở Kyoto. Asabuki Tomiko, người đã đi cùng cặp Sartre-de Beauvoir trong suốt những ngày hai người lưu tại Nhật Bản, đã kể lại những kỉ niệm[4] về họ đã dành mùa hè năm đó để tìm tài liệu về lịch sử của Nhật Bản và làm quen với văn học Nhật Bản. Họ đã lợi dụng chuyến đi này để thăm thú đất nước, khi dừng chân tại Hiroshima đã dành một ít thời gian với những nạn nhân của bom nguyên tử. Bối cảnh này giải thích cho nhiều tư liệu về tình hình của nước Nhật mà chúng ta có thể tìm thấy trong cuốn sách này.
Đến Nhật Bản năm đó, Sartre đã 61 tuổi. Tất nhiên khi đó Sartre đã là trí thức có tiếng tăm trên toàn thế giới. Ngay từ những năm 1930 Sartre đã nổi tiếng nhờ viết văn, chỉ đến cuối Thế chiến II ông mới thật sự dấn thân vào hành động chính trị. Đã một thời là một “đồng chí”, đến năm 1956 ông bắt đầu giữ khoảng cách với Đảng cộng sản khi Liên Xô đưa quân xâm chiếm Hungari. Trong cả thập niên sau đó, ông chỉ dành năng lượng cho các cuộc đấu tranh liên tục: chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc. Sự nhập cuộc của ông trong chiến tranh ở Algérie bất ngờ bộc phát vào năm 1961, khi ông kí vào “manifeste des 121”, bức thư ngỏ của 121 trí thức, công khai khuyến khích binh lính Pháp đào ngũ; vì việc này sau đó ông đã chịu sự căm ghét dai dẳng của phe cực hữu và thậm chí nhiều lần bị đe dọa đưa ra tòa[5]. Sau kết thúc chiến tranh Algérie, Sartre kiên quyết nhập cuộc chống chiến tranh ở Việt Nam và chủ nghĩa đế quốc kiểu Mĩ. Đó cũng là giai đoạn Sartre lên đỉnh cao nhất với tư cách nhà văn, được trao giải Nobel văn học năm 1964 song ông đã từ chối danh hiệu này, lại góp phần thêm nữa cho hình ảnh trí thức nhập cuộc.
Ở bên ngoài nước Pháp, danh tiếng của Sartre rõ rệt nhất chính là ở Nhật Bản. Khi Sartre tới Tokyo, độc giả của những cuốn sách của Sartre và các công trình nghiên cứu về sự nghiệp của Sartre nhiều hơn ở bất cứ ở nước nào khác. Chỉ tính từ năm 1945 đã có hơn tám trăm bài viết riêng về Sartre đăng trên các tạp chí. Số lượng này gấp đôi các bài viết về Nishida Kitaro (1870-1945) nhà triết học người Nhật Bản nổi tiếng nhất ở thế kỉ XX.
Danh tiếng rộng khắp này lý giải chuyến đi sang Nhật Bản của cặp Sartre-Beauvoir là một sự kiện lớn trong giới trí thức Nhật Bản. Ở buổi thuyết trình thứ nhất tại đại học Keio (ở Tokyo), giảng đường hơn 800 chỗ ngồi đã bị tranh dành không còn một chỗ trống, người ta đã phải mở cửa mười hai phòng được trang bị máy truyền hình để 6000 người có thể nghe thuyết trình của hai diễn giả. Sartre và Beauvoir được đám đông đón tiếp giương những tấm biển bằng tiếng Pháp chống chiến tranh ở Việt Nam. Đây là sự kiện lớn nhất ở Đại học Keio kể từ khi thành lập. Ở buổi thuyết trình thứ hai, những người tổ chức đã phải rút thăm để chọn được 2000 người may mắn trong 30 000 người đăng ký. Báo chí đã tường thuật Jean-Paul Sartre và Simone de Beauvoir như “Beatles du Savoir”[6].
Điều ngạc nhiên nhất ở cuộc đón tiếp đặc biệt này là sự có mặt tại chỗ của các nhà báo Pháp, vì ở bên đất nước hình lục giác, Sartre đã mất đi nhiều uy thế người trí thức. Chiến tranh Algérie kết thúc đã đánh dấu sự tạm ngưng cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc. Sau “Chiến tranh lạnh”, phong trào công nhân trở nên có phần khôn ngoan hơn và quyền thống lĩnh của chính quyền de Gaulle đã cách ly cánh tả. Trong bối cảnh này, sứ mệnh của người trí thức nhập cuộc cũng không còn rõ ràng như trước kia nữa. Tâm thức nghi ngại ở giai đoạn này càng được thấy rõ hơn ở hoàn cảnh mới của triết học ở Pháp đã lấn át kể từ vài năm trước đó. Từ những năm 1950, Sartre đã cố hòa giải chủ nghĩa Marxiste và thuyết hiện sinh, muốn tiến hành một triết học về chủ thể và tự do, Sartre đã có được danh tiếng toàn thế giới là nhờ ở triết học này. Nhưng ngay từ những năm 1960, trong bối cảnh các môn khoa học nhân văn vẫn còn hấp dẫn, triết học này đã bị tác động bởi những người trung thành với chủ nghĩa cấu trúc. Trong La Pensée sauvage [Tư duy hoang dã], xuất bản năm 1962, Claude Lévi-Strauss nhân danh nhân học cấu trúc của mình để tấn công không chừa chỗ nào triết học về chủ thể của Sartre. Trong lĩnh vực văn học, tạp chí Tel Quel, được sáng lập năm 1960, tìm cách phục hồi chủ nghĩa hình thức [formalisme] chống lại “văn học nhập cuộc” [litérature engagée] mà Jean-Paul Sartre vẫn là quán quân.
Cuộc tấn công chống triết học hiện sinh của Sartre trở nên phổ biến trong giai đoạn 1965-1966, nghĩa là chỉ vài tháng trước khi Sartre trình bày các bài thuyết trình tại Nhật Bản. Sự động chạm đến triết học hiện sinh của Sartre bắt đầu trên cơ sở của nhận thức luận, với tác phẩm của Michel Foucault có đầu đề Les Mots et les choses [Từ và sự vật] (ra mắt vào tháng 4 năm 1966), trong tác phẩm này, Foucault biện hộ cho một thuyết chống “nhân bản chủ nghĩa lý thuyết” (antihumanisme théorique) [phi thực tiễn]. Lý thuyết này tiếp diễn trên địa hạt của ngôn ngữ, với tác phẩm của Rolland Barthes Critique et vérité [Phê bình và sự thật] (cũng được xuất bản vào tháng 4 năm 1966). Kế đó là các nhà tâm phân học, họ chiếm vị trí nổi bật của sân khấu chống lại Sartre, cùng với việc Jacques Lacan công bố Écrits[7] (cũng được xuất bản năm 1966, tháng 10). Sartre thậm chí bị phủ nhận trên một trong những địa hạt ưu tiên của ông, cụ thể là học thuyết Marxiste, do sự thúc đẩy của triết gia ở trường sư phạm cao cấp Paris, Louis Althurser, và những học trò của ông. Hai tác phẩm Pour Marx [Vì Marx] và Lire Le Capital [Đọc Tư bản luận], buộc tội cách diễn giải theo hướng chủ nghĩa hiện sinh về Marx, cũng được xuất bản trong trong cùng giai đoạn này[8].
Sau một giai đoạn dài giữ im lặng, Sartre đã trả lời những người gièm pha ông trong một số ra vào tháng 10 năm 1966 của Tạp chí L’Arc, vậy là đúng lúc ông đang ở Nhật Bản. Lúc đó lời phê phán của Sartre đối với chủ nghĩa cấu trúc là không bàn cãi: “Dĩ nhiên học thuyết Marxiste bị nhắm tới từ phía sau của lịch sử. Người ta muốn dựng nên một hệ tư tưởng mới, cái đập chắn cuối cùng mà giai cấp tư sản vẫn còn khả năng dựng nên chống lại Marx[9]”.
Trong hoàn cảnh này, người ta hiểu được vì sao việc sửa lại cho đúng ngày tháng như được nêu ở đầu lời tựa này, là quan trọng. Trong giai đoạn từ mùa thu năm 1965 đến mùa thu năm 1966, rất nhiều điều đã thay đổi. Sartre không thể mơ hồ được nữa, như ông đã làm từ hồi đầu những năm 1960, khi đó ông là đối tượng của những lời chỉ trích. Chính vì thế những suy ngẫm của ông về giới trí thức được trình bày trong cuốn sách này dưới hình thức một lời “biện hộ”. Thực tình khó có cơ hội lựa chọn nào tốt hơn, để Sartre càng nhận thấy, qua các bài thuyết trình của mình, rằng giới trí thức Nhật Bản cũng bị đặt trên ghế bị cáo. Khi liên hệ lời biện hộ cho họ và cho chính mình, Satre đã có thể tự giới thiệu mình như là một luật sư biện hộ của tất cả những trí thức.
CÁC LUẬN ĐỀ CỦA CUỐN SÁCH
Trong buổi diễn thuyết thứ nhất, tập trung vào cách định nghĩa về trí thức, Sartre bàn trở lại về lời trách cứ mà người ta thường làm với ông: trí thức là người không dưng can thiệp vào những gì chẳng liên quan đến mình. Đó là một “kĩ thuật viên của tri thức” (giáo sư, bác sĩ, kĩ sư …) [technicien du savoir] những người đã có được danh tiếng trong lĩnh vực chuyên môn của mình, và họ lợi dụng danh tiếng để can thiệp vào lĩnh vực chính trị. Cái khuyến khích một bộ phận nhỏ những kĩ thuật viên của tri thức trở thành những trí thức là việc họ không chịu đựng được nữa sự mâu thuẫn giữa những mục đích có tính phổ quát của nghề nghiệp của họ (chữa bệnh cho con người, giáo dục con người v.v.) và họ thấy mình bị phụ thuộc là vì, trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, họ phục vụ những lợi ích đặc thù của giai cấp tư sản. Đó là những gì mà Sartre gọi, nhân liên hệ với điều mình đang nói thì bàn trở lại một cách diễn đạt của Hegel về “ý thức bất hạnh” của những trí thức [conscience malheureuse].
Buổi diễn thuyết thứ hai tập trung vào chức năng của những trí thức. Vai trò của họ, theo cách nhìn của Sartre, là làm vén mở sự mâu thuẫn khiến họ phải đặt ra những ý kiến tranh chấp. Nhìn chung giữa những biến cố thời cuộc xảy ra dữ dội, người trí thức tìm cách để hiểu, anh ta dò dẫm, anh ta điều tra, thoạt đầu là về chính mình đã. Vì muốn nắm bắt tính phổ quát đặc thù của mình, anh ta buộc phải đặt mình trong xã hội với tính cách cá nhân đặc thù riêng biệt. Giả sử đồng lương của anh ta có được là từ giá trị thặng dư của những người lao động, anh ta là một thành phần của giai cấp tư sản một cách khách quan. Anh ta chối bỏ giai cấp của mình mặc dù anh ta bị nó điều kiện hóa. Những người có đặc quyền không ưa anh ta, song những người yếu thế lại ngờ vực anh ta vì phải luôn chống lại sự qui hồi của hệ tư tưởng tư sản ở trong lòng phong trào công nhân. Anh ta không thể lèo lái một cách sáng suốt giữa những mâu thuẫn này khi thực hành sự tự phê phán thường xuyên. Chính là khi dùng đến biện pháp biện chứng này mà anh ta chứng tỏ thân phận của trí thức phổ quát của mình và có thể tự giới thiệu như là người lính gác chân chính của nền dân chủ.
Bài diễn thuyết thứ ba cật vấn về vị trí đặc thù của nhà văn. Khác với nhà khoa học, nhà văn tuyệt nhiên không có cái gì đặc biệt để nói lên cả. Mục đích của nhà văn không phải là truyền thông một cái biết [un savoir], mà đúng hơn là viện đến tự do của người đọc. Mặc dầu vậy, chính nhà văn vẫn bị tác động bởi những mâu thuẫn của thế giới. Anh ta phải làm rõ những mâu thuẫn đó trong tác phẩm của mình bằng cách huy động những biện pháp viết, và nhất là văn phong. Sartre lấy ví dụ về trang bị vũ khi hạt nhân gây nên mối đe dọa đè nặng lên loài người. Nhà văn không thể cố tình không biết về điều này, nhưng cách mà nhà văn biểu đạt là không mấy quan trọng. Chỉ cần đọc thấy một lo âu mơ hồ trong mỗi trang sách do nhà văn kể là đủ để cảm nhận mối đe dọa rình giập chúng ta với tính cách những hiện hữu người. Đặc tính riêng có của nhà văn, theo cách hiểu của Sartre, chính là ở chỗ sự mâu thuẫn giữa cái đặc thù và cái phổ quát tác động vào nhà văn ngay cả trong nghệ thuật của anh ta, còn những kĩ thuật viên của tri thức [technicien du savoir] chính vì đôi khi muốn thoát sự mâu thuẫn này mà họ trở thành những trí thức. Đó là cách suy luận đưa Sartre đến việc khẳng định rằng nhà văn, về bản chất, là trí thức.
Điều đập ngay vào mắt trong các buổi diễn thuyết, đó là, Jean-Paul Sartre đặt mình trực tiếp theo dòng những câu thẩm vấn rút ra từ vụ án Dreyfus, dù ông có dịch chúng sang ngôn ngữ triết học của mình. Như người ta thấy, hình ảnh của người trí thức đã nhất thiết được đặt ra vào tháng 1 năm 1898, khi đó các nhà văn, nghệ sĩ, giới đại học [les universitaires], các giáo sư với tư cách những cá nhân, những sinh viên, đã kí vào rất nhiều bản kiến nghị được công bố trên các báo để yêu cầu xét lại vụ án Dreyfus. Tuy nhiên, cần nhớ lại rằng nếu sự kiện này đã có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc chính trị hóa hình ảnh của người trí thức, thì chính hình ảnh này cũng đã xuất hiện trong không gian công cộng trước đó khoảng chục năm[10]. Lý do chủ yếu đã thúc đẩy các nhà báo dùng cái tên gọi này là thuộc phạm trù xã hội học. Những cải cách đã được nền đệ tam Cộng Hòa thông qua vào đầu những năm 1880 (về báo chí, giáo dục, dân chủ nghị viện) đã làm tăng mạnh mẽ hơn sự chuyên môn hóa trong lĩnh vực chính trị, trong làm khoa học và nghề viết báo. Thắng lợi của dân chủ nghị viện và sự phát triển lạ thường của báo chí đại chúng đã đẩy mạnh hơn nữa sự tham gia vào các tầng lớp trong lòng một không gian công cộng toàn quốc gia mới mẻ và tập trung ở Paris[11], việc này đã góp phần rõ rệt vào việc nhấn mạnh sự phân công lao động giữa khoa học, chính trị và nghề viết báo.
Trước kia, kể từ thời Khai Sáng, cùng một cá nhân có thể tham gia đồng thời ba lĩnh vực hoạt động nói trên, thì kể từ nay ba nghề nghiệp này được tách rời ra. Trí thức là một nhân vật được phát minh và được báo chí ở Paris phổ biến để lấp khoảng trống vốn từ sự tách rời nói trên về các chức năng mà ra. Trí thức là một chuyên gia, anh ta bước ra ngoài lĩnh vực chuyên môn của mình để có mình trong không gian công cộng. Chính vì thế trí thức theo cách gọi của Sartre là người lớ xớ vào những gì không liên quan đến mình.
Ở cuối thế kỉ XIX, cách biệt giữa phe bênh vực Dreyfus và phe chống Dreyfus được minh họa bằng tác động phối hợp của sự cạnh tranh ở trong lòng giới tinh hoa, nó gây nên sự đối lập giữa các thành viên đại học [les universitaires] đã bước ra ngoài lĩnh vực chuyên môn của mình để tố cáo tòa án binh đã kết án Dreyfus, với các thành viên vẫn tiếp tục hành xử như những “học giả” [hommes de lettres] kiểu truyền thống (những người mà Durkheim gọi là những “văn nhân” [littérateurs], đồng thời để không làm suy yếu Quốc gia Pháp họ vẫn ủng hộ quân đội bằng bất cứ giá nào. Rốt cục, những học giả hay văn nhân đã đóng một vai trò có tính quyết định trong việc truyền bá cái chữ “trí thức” trong tiếng Pháp khi họ dùng cách gọi này theo nghĩa miệt thị để tố cáo những người “chỉ làm mỗi cái việc là bày tỏ suy nghĩ trái ngược lại với nhà chức trách về những sự việc không thuộc chuyên môn của họ”, như giáo sư Ferdinad Brunetière ở đại học Sorbonne viết, ông ta là một trong những người phát ngôn của phe chống Dreyfus[12].
Cuộc luận chiến căng thẳng trong lòng giới tinh hoa tuy vậy không che giấu được tính đồng nhất xã hội rõ rệt của môi trường này. Kể từ thời Louis XIV và xã hội Cung đình, sự tập trung hóa khác thường của đời sống trí tuệ ở Paris đã đóng vai trò quyết định tạo nên địa vị thống lĩnh và ảnh hưởng chính trị của một đẳng cấp; người ta không thể tìm thấy sự thống trị ở một mức độ như thế ở bất kỳ một đất nước nào khác.
Cũng nên nói cho chính xác rằng sự phê phán do phe chống Dreyfus dựng nên nhắm vào những trí thức là không hoàn toàn dựa trên trường hợp có ý nghĩa biểu tượng này. Cứ cho là toàn bộ lời buộc tội chống lại Dreyfus là dựa trên một tài liệu giả mạo thì giới đại học bênh vực Dreyfus đã nhân danh năng lực chuyên môn để biện hộ cho sự nhập cuộc với tư cách công dân của họ (làm quen với sự vật bằng chữ viết và vận dụng sự phê phán tư liệu). Do đó suy nghĩ của Sartre về trí thức “người lớ xớ vào những việc chẳng liên quan đến mình” không phải được rút ra từ bản thân vụ việc Dreyfus, mà là kết quả của những hậu quả của vụ việc này. Sau khi đã đạt được thành công đỉnh cao, liệu sự nhập cuộc của những trí thức có thể tiếp tục không? Và nếu được thì bằng cách nào?
Những cách trả lời bất đồng nhau cho những câu hỏi trên sẽ gây nên tình trạng bất hòa bên trong phe bênh vực Dreyfus. Không đi vào chi tiết, tôi sẽ nhắc lại sự chia rẽ lớn sẽ gây nên sự đối lập giữa những ai chấp nhận nguyên tắc cộng hòa về sự phân lập về các chức năng và những ai bác bỏ nguyên tắc này. Với loại đầu thì kiểu can thiệp duy nhất mà giới đại học có thể thừa nhận một cách hợp pháp nằm ở việc phổ biến trong không gian công cộng kết quả của lao động của họ để giúp đỡ các công dân tiến hành các cuộc đấu tranh của chính họ (đó là lập trường của Émile Durkheim mà Michel Foucault sẽ bênh vực theo cách của ông khi phổ biến hình ảnh của “trí thức đặc biệt”).
Ngược lại, với loại sau, giới đại học phải can thiệp vào trường chính trị [champ politique] để biện hộ cho những sự nghiệp mà họ tin là đúng đắn. Tuy nhiên, cần nói cho cụ thể là ở nhóm thứ hai thì bản thân lĩnh vực gây ảnh hưởng của họ được chia thành hai khối: các nhà cải lương, họ chỉ dùng tính chính danh chuyên môn của mình để phục vụ các chính quyền (ở giai đoạn của Dreyfus thì đó là lập trường của các nhà sử học như Ernest Lavisse hoặc Charles Seugnobos), và các nhà cách mạng, họ là những người bác bỏ sự phân lập về các chức năng vì dưới mắt họ đó chỉ là một sự can thiệp của giai cấp tư sản. Georges Sorel trước năm 1914 là hiện thân của thái độ này, sau đó bắt đầu từ năm 1945 là Jean-Paul Sartre.
Sự nhắc qua này cho phép hiểu được rằng cách định nghĩa về trí thức vốn là một vật đặt cược thường xuyên giữa cánh tả và cánh hữu. Những nhà văn bảo thủ như Maurice Barrès, vốn trước năm 1914 đã chế giễu những trí thức rồi rốt cục đã lặp lại cho họ cái từ trí thức đó vào đêm trước của Thế chiến II. Ngày 4 tháng 10 năm 1935, tay khích động quần chúng của cánh hữu Henri Massi sẽ cho đăng báo “Tuyên ngôn của các trí thức Pháp vì công cuộc bảo vệ phương Tây và hòa bình ở châu Âu” với mục đích ủng hộ nước Ý phát xít xâm lược Ethiopi. Bản tuyên ngôn này, nó được lấy chữ kí của các viện sĩ, các thành viên của nhóm cực hữu Action française (Charles Maurras và Léon Daudet), các nhà sử học (Pierre Gaxotte) v.v. cũng có ý nghĩa một sự đáp trả chống lại việc thành lập Comité de Vigilance des Intellectuels Antifascistes[13] được sáng lập sau những biến cố mùng 6 tháng Hai năm 1934 bởi nhà dân tộc học Paul Rivet theo chủ nghĩa xã hội, nhà triết học có quan điểm cấp tiến Alain và nhà vật lý học Paul Langevin gần gũi với Đảng cộng sản Pháp.
Những dẫn chứng ở trên cho thấy rằng sự huy động những trí bao giờ cũng hoàn toàn do bối cảnh chính trị qui định nên. Tình hình căng thẳng của các cuộc đấu tranh chính trị trong nước và quốc tế trong giai đoạn từ giữa những năm 1930 đến những năm 1970 lý giải vị thế nổi bật của những trí thức vì những lý do thường là mâu thuẫn đã phủ nhận nguyên tắc của nền cộng hòa tách bạch chức vụ với năng lực thực hiện. Chính vì thế, Pierre Bourdier, khi gợi lại những kỉ niệm cá nhân, đã nhắc lại dưới con mắt mình, rằng Raymond Aron (người chủ trương cải lương thuộc phe hữu) và Jean-Paul Sartre (người chủ trương cách tân thuộc phe tả) đã nắm giữ những lập trường rất gần gũi nhau xét trong không gian xã hội, mặc dầu mọi người đều xem họ như là đối lập với nhau. Phát huy giá trị nhờ những kết quả xuất sắc thời đi học, “những đứa trẻ thần đồng loại này lên đến tuổi đôi mươi thấy mình được ban những đặc quyền và những bổn phận của thiên tài. Ở một nước Pháp bị giảm sút về mặt kinh tế và chính trị, nhưng bao giờ cũng đắc thắng về mặt trí tuệ, họ có thể hi sinh toàn bộ sự ngây thơ cho sứ mệnh được đại học gán cho họ và cả một truyền thống tri thức đã tồn tại với sự xác tín về tính phổ quát của nó; nghĩa là về một thứ quyền uy kiểu quan tòa của trí tuệ. Được trang bị bằng trí tuệ duy nhất của họ – họ hầu như không bị cồng kềnh vì những tri thức có tính thực chứng – họ cũng có thể đương đầu với những nhiệm vụ trí tuệ lớn lao nhất, như việc thiết lập nền tảng về mặt triết học cho khoa học về xã hội hay khoa học lịch sử, hoặc giải quyết một cách dứt khoát về sự thật tối hậu của các chế độ chính trị hoặc về tương lai của nhân loại. Nhưng đối trọng với sự tự tin vô giới hạn của họ là sự thừa nhận không nhượng bộ đối với những bổn phận gắn liền với phẩm giá của họ[14]”
Sartre đã hiện thân ở tầm cao nhất hình ảnh của trí thức cánh tả ở vào thời điểm cực tả của nó. Sinh ra năm 1905, ông đã sống toàn bộ giai đoạn trưởng thành trong hoàn cảnh của hiện thực được đánh dấu bằng một chuỗi những biến động tột cùng. Những điều kiện đặc thù này lý giải cho việc Sartre đã hóa thân thành “trí thức toàn diện” [l’intellectuel total], vừa là nhà văn, vừa là triết gia, nhà báo và nhà hoạt động xã hội, mặc dầu sự tách rời của các chức năng nghề nghiệp đã tiến bộ rõ rệt ở giai đoạn của ông.
NGÀY HÔM NAY CUỐN SÁCH NÀY CÓ ÍCH VỚI CHÚNG TA Ở CHỖ NÀO?
Ngày nay hình ảnh trí thức toàn diện nói trên đã trở thành lỗi thời bởi vì bối cảnh chính trị đã thay đổi (tôi sẽ bàn trở lại sau này), nhưng cũng là vì sự phân hóa trong lòng thế giới trí thức đã ngày càng rõ nét hơn kể từ giai đoạn những năm 1980. Mặc dầu ta có thể xác định chính xác trong sách này những yếu tố vẫn còn thích hợp trong thế giới hiện nay để suy xét.
Yếu tố thứ nhất liên quan đến mối liên kết do Sartre xác lập giữa năng lực chuyên môn của nhà khoa học (ông gọi nhà khoa học là “kĩ thuật viên của tri thức”) và địa vị của trí thức. Với Sartre thì chỉ những ai đã có được sự thừa nhận trước tiên trong lĩnh vực nghề nghiệp đặc thù của mình (dù đó là lĩnh vực y học, các khoa học vật chất hay các khoa học nhân văn, nghệ thuật hoặc văn học) mới có thể sau đó vượt ra ngoài lĩnh vực của mình để can thiệp vào không gian công cộng với tư cách những trí thức. Cách định nghĩa này, dựa trên sự tôn trọng các năng lực chuyên môn, là hoàn toàn mâu thuẫn với viễn kiến chiếm ưu thế ngày nay trên các phương tiện truyền thông đang phong thánh cho giới đại học, nhưng họ không hề có được sự thừa nhận trong giới khoa học.
Một điểm khác, rất quan trọng trong sách này, là vị trí to lớn dành cho phương pháp biện chứng trong cách suy luận của Sartre. Khái niệm biện chứng, do Hegel tạo ra và được Marx phát triển, đã ưu tiên sự đấu tranh giữa các mặt đối lập như là một trong những nhân tố thiết yếu của tiến bộ. Sartre huy động phương pháp biện chứng để nêu một định nghĩa về trí thức, mà ta có thể phân loại cách định nghĩa đó là có tính cách “phi đồng nhất” [non identitaire]. Vị trí dành cho sự hoài nghi, cho những biến đổi được rút ra từ những bài học của kinh nghiệm, cho sự tự phê phán, là đặc điểm của phương pháp này. “Ý thức bất hạnh” [conscience malheureuse], định nghĩa người trí thức kiểu Sartre – tuyệt nhiên không mô tả một đặc điểm của trí thức là người lấy danh nghĩa một sự nghiệp chung để nói về những nạn nhân do anh ta chọn – mà chỉ rõ một người bao giờ cũng ở trong một tình huống bấp bênh, anh ta bị coi là một kẻ phản bội giai cấp thống trị mà anh xuất thân từ đó và là một kẻ đáng ngờ đối với giai cấp bị trị mà anh ta muốn bênh vực.
Đó là một định nghĩa về trí thức phổ quát cần phải dựa vào đó nếu ta muốn hiểu được những suy ngẫm của Sartre về vấn đề tính chủng tộc [racisme], một điểm khác nữa trong sách này, nó vẫn có tác động gián tiếp tới hiện thực của chúng ta ngày nay. Sinh ra từ đấu tranh vũ trang chống lại chính quyền thực dân, được nuôi dưỡng qua những mối liên hệ với Franz Fanon và Léopold Sedar Senghor, cho nên cách phân tích của Sartre dẫn đến việc định nghĩa tính chủng tộc như là ý hệ biện hộ cho chủ nghĩa đế quốc và sự thống trị thực dân. Tuy nhiên ông nói thêm rằng không nên nhân danh những giá trị phổ quát của nền Cộng hòa để tố cáo sự cổ súy chủng tộc bởi vì tính chủng tộc là ‘một thái độ cụ thể diễn ra hằng ngày”. Giai cấp tư sản nắm quyền lực không ngừng xúc tiến những giá trị này để che khuất đi những bất bình đẳng mà nạn nhân là các tầng lớp nhân dân, phụ nữ, các nước thuộc địa. Cứ cho là trí thức xuất thân từ giai cấp tư sản, thì tuy thế bản thân anh ta ắt phó mặc mình cho một sự tự phê phán thường xuyên để diệt trừ tận gốc những định kiến mà người ta đã dạy ngay từ thuở ấu thơ.
Trong số những phản tư khác nữa được bàn rộng ra trong sách này, chúng vẫn còn thích hợp ngày nay, chúng ta cũng có thể giữ lại những phản tư liên quan đến địa vị của nhà văn. Sartre nhắc nhở rằng văn học không có mục đích truyền tải một thông điệp có thể thấy ngay, nhưng đồng thời ông từ chối chủ nghĩa hình thức của những nhà văn lão luyện về nghệ thuật vị nghệ thuật. Khi dựa vào ngôn ngữ văn học do Jean Genet tạo ra, và cách dùng đảo ngược ngữ pháp về giống (giống đực/giống cái), ông nhấn mạnh rằng nhà văn có thể đóng vai trò công dân khi chế ra cái giả [le faux] để truyền tải những thông tin về thế giới xã hội, phong phú hơn và rốt cục chân thực hơn những thông điệp bằng văn phong điện tín [style télégraphique].
Mặc dầu đã dè chừng để tránh mọi cuộc luận chiến, nhưng Sartre cũng sử dụng việc biện hộ này để bác bỏ những luận cứ chính yếu của những đối thủ của ông. Nhà “cải lương” (rất có thể là nhắm tới Raymond Aron) được nêu lên như là một “trí thức giả’ [faux intellectuel] vì ông ta đặt bạo lực thực dân và bạo lực chống thực dân trên cùng một bình diện. Sartre cũng lợi dụng cơ hội này để cố tình nói những lời chỉ trích nhằm vào những môn đồ trong các khoa học nhân văn dựa vào thuyết cấu trúc để làm mất uy tín thuyết hiện sinh. Theo Sartre, các khoa học nhân văn dĩ nhiên có thể chỉ rõ vị trí có tính khách quan của con người trong xã hội, nhưng chúng không có khả năng đi vào tính chủ thể và đặc tính của nội tâm; cái đặc quyền chỉ có văn học nắm giữ.
Cuối cùng, chúng ta có thể xem cuốn sách mỏng này như một lời tự biện hộ cho chính mình [pro domo], trong đó Sartre biện hộ cho hành trình của ông và vai trò công dân của ông. Khi khẳng định rằng trí thức là một nhà khoa học đã đào ngũ khỏi môi trường của mình để can thiệp vào lĩnh vực chính trị, thì chính đó là hành trình của ông từ thời là sinh viên trường sư phạm cao cấp Paris, lấy bằng thạc sĩ triết học, mặc dầu đã cắt đứt với Đại học này nơi ông làm luận văn. Khi nói thêm rằng nhà văn nhập cuộc, do bản chất của anh ta, là một trí thức thì đó còn là việc ông hợp thức hóa lập trường này của riêng ông. Khi kết hợp hai cách định nghĩa về trí thức, ông rốt cục nói lên rõ ràng rằng mình là một “trí thức lũy thừa hai” [intellectuel au carré], có một không hai trong loại của nó vì không ai khác, ở thời đại của ông, có thể được xem như một triết gia đồng thời là một nhà văn lớn. Do đó lời biện hộ này là câu trả lời rõ ràng nhất mà ông có thể đưa ra cho các đối thủ của mình.
SAU JEAN-PAUL SARTRE
Không thể kết thúc lời tựa này mà không nhắc lại rằng cuốn sách tuyệt nhiên không tạo nên định nghĩa tối hậu về trí thức do Sartre biện hộ. Thật ra, sự phản tư của ông về chủ đề này đã hoàn toàn bị đảo lộn sau những biến cố tháng 5-6 năm 1968 mà ông đã tham dự đầy đủ. Tuy nhiên, nghịch lý thay, chúng ta có thể khẳng định rằng quan niệm mới về vai trò của trí thức mà ông đã phát triển tiếp theo sau phong trào xã hội dữ dội này lại chính là lý do chính yếu dẫn ông đến việc công bố các bài diễn thuyết tại Nhật Bản năm 1966.
Cùng thời gian Gallimard đang biên tập tác phẩm này, nội dung của các bài thuyết trình đã được đưa vào văn tập có đầu đề Situations VIII, nhưng trước đó Sartre có một bức thư ngắn, nó không được đưa vào quyển này. Trong thư đó Sartre có thanh minh về việc xuất bản muộn màng này là “để cho thấy sự bất ổn định của khái niệm trí thức. Trong các bài thuyết trình của tôi ở Nhật Bản, tôi mô tả mà không dùng cách gọi như người ta thường dùng kể từ 1968 là “trí thức cổ điển” và tôi đã cho thấy như vậy – nhưng không hiểu một cách chính xác – cách gọi này tỏ ra unselbstädig biết bao, như người Đức vẫn nói [dépendant[15]]”. Từ nay về sau Sartre coi “ý thức bất hạnh”, mà ông định nghĩa là một mômen trong tiến trình biện chứng cho phép “kĩ thuật viên của tri thức” trở thành một trí thức, trên thực tế là một trở ngại”. Sartre kết thúc bức thư bằng việc khẳng định rằng phong trào tháng 5 năm 1968 đã khiến ông hiểu ra được rằng trí thức “không thể dừng lại ở giai đoạn của ý thức bất hạnh” và cần phải “phủ định cái mômen có tính cách trí tuệ này để cố tìm một địa vị mới có tính cách bình dân”[16]. Ông nghĩ rằng năng lực tự tổ chức của các tầng lớp vô sản sẽ biến trí thức và đảng phái thành ra không thiết thực.
Làm sao lý giải được vào năm 1972 Sartre đã rất muốn công bố, dưới hình thức tác phẩm, một văn bản được trình bày như một “lời biện hộ cho những trí thức”, mặc dầu từ đây về sau ông thấy rằng bản thân chức năng của trí thức là không có tính cách thiết thực? Câu trả lời cho câu hỏi này là không đơn giản vì trong những năm tháng này thì lập trường của ông về chủ đề này đã thay đổi bất thường. Vì những biến cố của tháng 5 năm 1968 đã mở đầu cho một thời đại hoàng kim của trí thức, thì dĩ nhiên không phải là không gây ra một khó chịu nhất định mà Sartre đã thấy ở các triết gia trẻ như Michel Foucault – người từ nhiều năm trước đã nhân danh chủ nghĩa phản nhân văn có tính lý thuyểt để khiển trách ông – họ tự giới thiệu mình trong không gian công cộng như là những trí thức nhập cuộc mới, dựa vào Nietzsche để tố cáo các mối quan hệ giữa tri thức và quyền lực.
Như Richard Wolin nói, “về nhiều mặt, những biến cố của tháng 5 đã lấn át như một lời khẳng định vang dội của những ý niệm của Sartre, đặc biệt là sự tin tưởng của ông vào năng lực của những người đàn ông và phụ nữ gây ảnh hưởng tới tiến trình của những biến cố lịch sử bằng những hành động phi thường của ý chí, bất chấp tính chất bất lợi của những điều kiện khách quan”[17]. Quả thực, phong trào tháng 5 năm 1958 đã cho thấy rằng những biến cố không tiên đoán được dựa vào những “cấu trúc” có thể làm lay chuyển trật tự xã hội và “lịch sử và cái quan cảnh thê lương không dễ nhận ra là không trùng với nhau, thế mà các nhà cấu trúc luận đã lược qui cái này vào cái kia”. Việc xuất bản các bài diễn thuyết ở Nhật Bản là một cách để nhắc nhở cho thế hệ trẻ không ký ức rằng chính ông rất lâu trước năm 1968 đã chiếm giữ miếng đất của sự phản tư về những trí thức. Dĩ nhiên ông cũng được người biên tập của ông khuyến khích bởi vì những biến cố tháng 5 đã sinh ra một thị trường mới mẻ mà Gallimard thử khai thác bằng một tủ sách mới. Một loạt sách của tủ sách “Presses d’aujourd’hui” đã được dùng để khai trương tủ sách “La France sauvage”. Cuốn sách đầu tiên có đầu đề On a raison de se révolter, mà Sartre là đồng tác giả, được xuất bản năm 1973[18].
Mặc dầu, trong bức thư nêu ở trên, Sartre đã kêu gọi “phủ định cái mômen có tính cách trí tuệ để cố tìm một địa vị mới có tính cách bình dân” nhưng ông chưa bao giờ từ bỏ chức năng trí thức của mình. Trong lần nói chuyện nổi tiếng của ông ngày 21 tháng 10 năm 1970 trước cổng nhà máy ở Boulogne-Billancourt ông đã tự giới thiệu mình là một trí thức và kêu gọi công nhân hãy nối lại các mối liên hệ với tập đoàn của mình, như điều này đã từng xảy ra hồi thế kỉ XIX. Cùng trong giai đoạn này, trên một tạp chí của Mĩ ông đã viết một bài về quan điểm mới mẻ của mình, với những điểm rất cụ thể. “Chúng tôi có thể nói được rằng từ 1940 đến 1968 tôi đã là một trí thức thuộc cánh tả [a left-wing intellectual][19], và từ 1968 tôi đã thành một trí thức cánh tả [leftist intellectual][20]. Sự khác nhau là ở hành động. Một trí thức cánh tả là một trí thức có ý thức được rằng là một trí thức thì không được miễn khỏi bất cứ cái gì. Anh ta từ bỏ những đặc quyền của mình, hoặc dùng chúng để thử thách trong những hành động[21]”.
Sartre vận dụng cách định nghĩa mới này khi nhập cuộc phe các nhà hoạt động Maoiste. Kể từ đó trở đi, ông không còn can dự vào không gian công cộng như là triết gia hay nhà văn nữa, song như nhà hoạt động Maoiste. Sau khi nhận chức vụ chủ nhiệm của tuần báo La Cause du peuple [Sự nghiệp của nhân dân] vào tháng 5 năm 1970, mùa xuân năm 1973 ông cùng một vài nhà báo khai trương nhật báo Libération, mà ông là đồng chủ nhiệm.
Thế hệ kế tiếp Jean-Paul Sartre đã bác bỏ lập trường của ông về “trí thức phổ quát” (Michel Foucault) hay là “trí thức toàn diện” (Pierre Bourdieu)[22], nhưng các thủ lĩnh của họ rốt cục cũng đã thể hiện thái độ này.
Foucault đã trở thành một trong những người phát ngôn chính của những nhóm thiểu số bị phân biệt đối xử, các phong trào của người tình dục đồng giới và cổ súy nữ quyền, các hội đấu tranh chống thiết chế nhà tù, những cơ sở nhốt giam giữ người bệnh tâm thần, hình phạt tử hình v.v. Giai đoạn 1979-1980 ông đã tích cực ủng hộ cuộc cách mạng ở Iran và ở Ba Lan. Còn Bourdieu, vài năm sau khi Sartre mất, đã lấy lại cho mình cái lôgic của lời biện hộ của Sartre đồng thời từ chối ủng hộ những người tuyên bố “sự cáo chung của trí thức”. Tuy thừa nhận sứ mệnh của trí thức mà Sartre là người sáng tạo nên đồng thời là hiện thân của chính sự sáng tạo đó, chỉ là một “huyền thoại”, nhưng ông thấy cần bênh vực sứ mệnh này và giữ vững bằng cách dấn thân vào công cuộc xây dựng một tập thể trí thức[23].
Buộc phải thấy rằng lời kêu gọi nói trên vẫn chỉ là một lời nguyện ước thành kính. Sau khi các nhà tư tưởng lớn của thế hệ này qua đời (Foucault, Bourdieu, Derrida, Deleuze v.v.), cách định nghĩa về trí thức như Sartre nêu lên trong sách này, nó dựa trên nguyên tắc về một năng lực chuyên môn có trước sự nhập cuộc không gian công cộng, đã sụp đổ. Sự biến đổi này đã bị giới đại học ở nước ngoài bình luận bằng những lời lẽ gay gắt. Nhà sử học người Anh Perty Anderson, chẳng hạn, cho rằng tầm quan trọng thái quá dành cho những trí thức truyền thông, ngày nay họ thường xuyên can thiệp vào tất cả các chủ đề mà không cần bất kỳ năng lực chuyên môn đặc biệt nào cả, minh chứng cho sự suy vi sâu sắc của giới trí thức Pháp. “Có lẽ sẽ khó để hình dung một sự đảo ngược triệt để của những tiêu chuẩn quốc gia trong lĩnh vực thẩm mỹ và trí tuệ”, ông nói thêm.[24]
Nhiều lý do khách quan lý giải cho vì sao kiểu trí thức toàn diện, mà Sartre là hiện thân, ngày nay không thể có được nữa. Trước hết, cần nhớ lại là tính chính danh của nó hầu như dựa trên sự lẫn lộn giữa cái quốc gia và cái phổ quát, đặc điểm của một thời đại mà tư duy Pháp trải rộng trên một bộ phận lớn của thế giới, nhưng đồng thời sự tập trung hóa ở Paris của giới tinh hoa lại gắn chặt thêm các mạng lưới của quyền lực nối liền giữa chúng một bộ phận của giới đại học, văn chương và chính trị. Sự lẫn lộn giữa cái quốc gia với cái thế giới cũng tiêu biểu cho một xã hội nơi sự thống trị của nam giới được vận dụng mà không có sự chia sẻ; trí thức phổ quát theo kiểu Sartre tất nhiên vốn là một con người.
Ngày nay mọi sự đã thay đổi. Toàn cầu hóa của những trao đổi đã góp phần “cục bộ hóa” [provincialiser] tư duy Pháp và phụ nữ ngày càng đông đảo yêu sách địa vị trí thức. Hơn nữa, các mạng lưới quyền lực, dù bao giờ cũng tập trung tại Paris, nhưng ngày càng lệ thuộc vào các phương tiện truyền thông lớn, điều này đồng thời làm suy yếu đi tính tự trị của tri thức đại học.
Tất cả những lý lẽ trên cho phép hiểu được vì sao, như nhận xét của Shlomo Sand về ưu thế của trí thức đã di cư từ Pháp sang các nước khác và đặc biệt là tới Hoa Kỳ. Tuy nhiên nên tương đối hóa những nhận định bi quan chủ nghĩa nói trên, cần nhớ lại là ngày nay một số lớn những “kĩ thuật viên của tri thức” [technicien du savoir] vẫn tiếp tục đảm nhận chức năng trí thức, nhưng dưới cái bóng của các phương tiện truyền thông. Sự đổi mới đấu tranh xã hội và những cơ hội do các mạng xã hội đem lại, là những nhân tố làm xuất hiện trí thức tập thể mà nhiều thế hệ trước kia đã mơ tới mà chưa bao giờ biến nó thành có hiệu lực.
Rốt cục, cái vẫn là quí giá nhất trong cách định nghĩa của Sartre về trí thức trong Biện hộ cho những trí thức, chính là tầm quan trọng dành cho sự tự vấn chính mình. Thực thế, quá nhiều khi, giới đại học, ngày nay họ tự giới thiệu mình là “những trí thức” thì lại tự đặt mình ra ngoài cuộc xung đột, làm như có thể chiếm được cho mình một “vị trí không ai có thể chiếm được”. Nhưng phương pháp biện chứng của Sartre nhắc nhở chúng ta rằng những trí thức đích thực nhất thiết phải tự vấn về chính mình và chứng tỏ có năng lực diễn đạt, kể cả với những người mà họ chung sự nghiệp, “những điều mà họ không muốn nghe”, để mượn một câu của George Orwell[25].
(*) Lời Tựa cho quyển Biện hộ cho trí thức của Jean-Paul Sartre, do Phạm Anh Tuấn và Đinh Hồng Phúc dịch, Công ty TNHH Sách Thật – Nxb Hội Nhà văn, 2025
[1] Từ ngày 18 tháng 9 đến 16 tháng 1966. Xin được lưu ý: các chú thích đều là của những người dịch, trừ khi là chú thích trong nguyên văn, được ghi rõ “chú thích trong nguyên văn” (Nd).
[2] Rõ ràng ở đây muốn nói tới sự nghiệp của Simone de Beauvoir, một hình tượng người trí thức đấu tranh cho nữ quyền bên cạnh hình ảnh một triết gia hiện sinh bạn đồng hành với Jean-Paul Sartre. Le deuxième sexe, của Simone de Beauvoir xuất bản năm 1949, được xem như cuốn sách thiết lập nền tảng của phong trào nữ quyền (Nd).
[3] Ba bài thuyết trình của Simone de Beauvoir, lần lượt được đặt đầu đề “Situations de la femme d’aujourd’hui” [Hoàn cảnh của người phụ nữ hôm nay], “La femme et la création” [Phụ nữ và sự sáng tạo], “Mon expérience d’écrivain” [Kinh nghiệm làm nhà văn của tôi] được Claude Francis và Ferrdinad Gontier xuất bản trong Les Écrits de Simone de Beauvoir, Paris, Gallimard coll. Blanche, 1979. Về sự nổi tiếng của Simone de Bouvoir ở Nhật Bản, xem Takano Inoué, “Lire Beauvoir à Tokyo”, Les Temps Modernes, 2008/1-2 (no. 647-648), p. 377-386. (chú thích trong nguyên văn).
[4] Xem Asabuki Tomiko, “Vingt-huit jours au Japon avec Jean-Paul Sartre et Simone de Beauvoir”. Cuốn sách ghi lại hành trình 28 ngày của Sartre và de Beauvoir khám phá nước Nhật Bản, do Asabuki Tomiko viết lời bình luận. Lời tựa của cuốn sách do em gái út của de Beauvoir viết, Hélène Bertrand de Beauvoir (1910-2001), một họa sĩ có tài, được Pablo Picasso khen ngợi (Nd).
[5] Chính phủ coi lời kêu gọi này như một sự công khai xúi giục phản quốc. Tuy nhiên, tướng de Gaulle từ chối xác nhận những lời đe dọa của cảnh sát khi khẳng định: “Chúng ta không bắt Voltaire”. Cùng thời gian này, căn hộ của Sartre ở số Bonarparte ở Paris hai lần bị nhóm cực hữu đặt thuốc nổ. Về hai điểm này, tham khảo cuốn sách về tiểu sử của Sartre của Annie Cohen-Solal, Sartre 1905-1980, Paris. Gallimard, côl. Folio essais, 2019 (xuất bản lần đầu năm 1985) (Chú thích trong nguyên văn).
[6] Tham khảo Asabuki Tomiko, Vingt-huit jours au Japon avec Jean-Paul Sartre et Simone de Beauvoir. Beauvoir et les femmes japonaises (18 septembre-16 octobre 1966), Paris, L’Asiathèque-Maison des langues du monde, 1966.
[7] Jacques Lancan chắc chắn là nhà tư tưởng người Pháp có ảnh hưởng lớn nhất kể từ Jean-Paul Sartre trong những năm 1940. Lacan giữ vị trí nổi bật trong tròm sao trí tuệ ở Pháp trong những năm 1950, gồm: Claude Lé-vi-Strauss, Louis Althuser, Roland Barthes và Michel Foucault. Écrits tập hợp các bài viết và các bài thuyết trình của Lacan có ảnh hưởng tới cả một thế hệ trí thức Pháp. (Nd).
[8] Louis Althurser, Pour Marx, Paris, Maspero, 1965; Louis Althurser et Étienne Balibar (chủ biên), Lire Le Capital, Paris, Maspero, 1968 (chú thích trong nguyên văn).
[9] “Jean-Paul Sartre répond, entretien avec Bernard Pingaud”, Tạp chí L’Arc, no. 30, octobre, 1966.
[10] Tham khảo một phân tích xã hội-lịch sử chi tiết hơn: Gérard Noiriel, Dire la vérité au pouvoir. Les intellectuels en question [Nói sự thật với quyền lực. Những trí thức được đặt thành vấn đề], Marseille, Agone, coll. Élément, 2010 (chú thích trong nguyên văn).
[11] Ngoài sự bùng nổ của báo chí đại chúng, cần nhớ rằng giai đoạn này cũng là thời hoàng kim cho loại hình tạp chí (như Revue des Deux Mondes có số lượng in mỗi kỳ 400 000 bản hay Revue de Paris có số lượng in 100 000, cả hai có đóng vai trò lớn trong việc truyền bá, từ thủ đô, cái hình ảnh mới mẻ của người trí thức (chú thích trong nguyên văn).
[12] Ferdinand Brunetière, “Après le procès”, La Revue des Deux Mondes, t. 146, 1898 (p. 428-446). Tham khảo thêm về các cuộc luận chiến này: Christophe Charle, Naissance des “intellectuels” (1880-1900), Paris, Minuit, 1990 (chú thích trong nguyên văn).
[13] Một tổ chức chính trị của những người cánh tả, chỉ tồn tại trong mấy năm (1934-1936) trước nguy cơ của chủ nghĩa phát xít đe doạ toàn châu Âu. Tuy thời gian tồn tại ngắn, nhưng được coi là tiền thân của Mặt trận bình dân ra đời năm 1936. (Nd).
[14] Pierre Bourdieu, “À propos de Sartre …”, French Cultural Studies, 1993, IV, p. 209-211; in lại trong Pierre Bourdieu, Interventions, Agone, 2002, p. 45.
[15] Cả chữ tiếng Đức lẫn chữ tiếng Pháp trong ngoặc là trong nguyên văn, có nghĩa là: không tồn tại tự-mình. (Nd).
[16] Jean-Paul Sartre, “Plaidoyer pour les intellectuels”, Situations VIII, Paris, Gallimard, 1972, p. 373-374 (chú thích trong nguyên văn).
[17] Cũng nên nhớ lại rằng ngày 18 tháng 5 năm 1971 Sartre là nạn nhân của một đòn cân não khiến sau đó ông bị yếu đi nhiều (chú thích trong nguyên văn).
[18] Philippe Gavi, Jean-Paul Sartre, Pierre Victor, On a raison de se révolter, Paris, Gallimard, 1974. Đầu đề này mượn một câu nói của Mao Trạch Đông khi phát động cuộc cách mạng văn hóa (chú thích trong nguyên văn).
[19] Tiếng Anh và dấu ngoặc trong nguyên văn.
[20] Tiếng Anh và dấu ngoặc trong nguyên văn.
[21] Jean-Paul Sartre, “Sartre Accuse the Intellectuals of Bad Faith” [Satre buộc tội những trí thức ngụy tín], interview with John Gerassi, New York Times Magazine, 17 october 1971, p. 118; Richard Wolin trích dẫn trong bài báo đã dẫn (chú thích trong nguyên văn).
[22] Pierre Bourdieu, “Sartre, l’invention de l’intellectuel total” [Sartre, phát minh ra trí thức toàn diện], Libération, 31/03/1983 (chú thích trong nguyên văn).
[23] Pierre Bourdieu, “D’abord défendre les intellectuels” [Trước tiên hãy ủng hộ những trí thức], phỏng vấn do Didier Eribon thực hiện, Le Nouvel Observateur, 12-18 septembre 1986 (chú thích trong nguyên văn).
[24] Perty Anderson, La pensée tiède. Un grand critique sur la culture française, in chung Pierre Nora, La pensée réchauffée, Paris, Seuil, 2005, p. 101.
[25] George Orwell, La ferme des animaux [Trại súc vật], Paris, Gallimard, coll. Folio. 1984 (1945) (chú thích trong nguyên văn).